NĂM CHIẾC
BÁNH VÀ HAI CON CÁ
Hồng Y Nguyễn Văn Thuận
LỜI NÓI ĐẦU
Các bạn trẻ thân mến,
Đứng giữa
quang cảnh tuyệt vời, đồi lúa chín vàng, biển rộng mênh mông một màu xanh da
trời, với những làn sóng bạc, khiến tôi nghĩ ngay đến Chúa Giêsu đang nói
chuyện với dân chúng. Nhìn khuôn mặt các bạn với đôi mát Chúa Giêsu, từ đáy
lòng tôi muốn kêu lên: “Các bạn trẻ thân mến, tôi yêu các bạn! Yêu các bạn rất
nhiều!”
Tôi rút cảm
hứng từ Phúc Âm thánh Gioan, chương 6, để nói chuyện với các bạn. Hãy đứng dậy,
mời các bạn nghe lời Chúa:
Phúc Âm Chúa Giêsu theo thánh Gioan:
Ngước mắt
lên, Đức Giêsu thấy dông đảo dân chúng đến với mình, Người hỏi ông Philípphê:
“Ta mua dâu ra bánh cho họ ăn đây?” Người nói thế là để thử ông, chứ Người biết
mình sắp làm gì rồi. Ông Philípphê đáp: “Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền
bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút.” Một trong các môn đệ, là ông Ânrê,
anh ông Simôn Phêrô, thưa với Người: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa
mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!” Đức Giêsu nói:
“Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi.” Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta ngồi
xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. Vậy, Đức Giêsu cầm lấy bánh,
dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân
phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tùy ý. (Ga 6:5-11)
Trên đường
tiến đến Năm Thánh 2000, chúng ta tìm hiểu:
- Chúa Giêsu
là ai?
- Tại sao ta
yêu mến Ngài?
Làm thế nào
phó thác mình cho tình yêu của Chúa, cho đến mực chọn lựa Ngài một cách tuyệt
đối, không ngại tiến bước trên đường xa thẳm, không ngại nhọc nhằn lê bước dưới
trời nắng oi ả, chẳng kiếm đâu ra một chút tiện nghi?
Trong sứ
điệp gửi các bạn trẻ nhân ngày Quốc Tế Giới Trẻ lần thứ XII, năm 1997 tại
Paris, Đức Thánh Cha viết:
Hiệp thông
với toàn thể dân Chúa đang tiến đến năm Đại Toàn Xá 2000, tôi kêu gọi các bạn
nhìn kỹ vào Chúa Giêsu. Ngài là Thầy và là Chúa của đời ta. Hãy suy niệm lời
Phúc Âm thánh Gioan (Ga 1:38-39):
- Thưa Thầy,
Thầy ở đâu?
- Hãy đến
rồi sẽ thấy.
Bản thân tôi
đã từng là một thanh niên như các bạn, rồi làm linh mục, giám mục. Tôi đã đi
một quãng đường, hân hoan có, lao khổ có, tự do có, lao tù có, nhưng luôn luôn
tràn trào hy vọng.
Tôi thật
lúng túng mỗi khi người ta yêu cầu tôi thuật lại kinh nghiệm bản thân, đã chọn
Chúa Giê-su và bước theo Ngài thế nào. Nói về mình không hay tí nào. Nhưng tôi
đã dọc cuốn: “Những bất ngờ của Thiên Chúa” (tiếng Pháp là “Les
imprévus de Dieu”. Tác giả là Đức Hồng Y Leo Suenens (Bỉ). Một hôm ngài hỏi
bà Vêrônica: “Tại sao bây giờ bà chấp nhận cho tôi viết về cuộc đời của bà, mà
trước đây bà lại không cho?” – “Vì bây giờ con hiểu rằng đời con không thuộc về
con, mà thuộc về Chúa hoàn toàn. Chúa muốn xếp đặt thế nào có lợi cho các linh
hồn thì mặc ý Chúa.” Đức Gioan Phaolô II đã cô đọng tư tưởng ấy trong cuốn tự
thuật, đề là “Hồng ân và mầu nhiệm – Dono e mistero”, cũng như Đức Mẹ đã
nói lên trong kinh Magnificat.
Chính vì thế
mà tôi làm như Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm, Ngài đã lấy năm chiếc bánh và hai con cá mà cho, nào có thấm vào đâu với
mấy nghìn người, nhưng đó là tất cả, Chúa Giêsu đã làm tất cả, đó là “hồng ân
và mầu nhiệm”. Cũng như cậu bé trong Phúc Âm, tôi tóm tắt kinh nghiệm sống của
tôi trong bảy điểm: Năm chiếc bánh và hai con cá. Không đáng gì nhưng đó là tất
cả những gì tôi có. Phần còn lại, Chúa Giêsu sẽ liệu.
Nhiều lúc
tôi cảm thấy khó chịu trong lòng vì người ta phỏng vấn, muốn thúc giục cho tôi
nói những chuyện giật gân, trong thời gian lao tù, v. v. Đó không phải là mục
đích của tôi. Nguyện vọng lớn nhất của tôi là trao lại cho các bạn trẻ một sứ
điệp của tình thương và sự thật, của công lý và hòa bình, của tha thứ và hòa
giải, để xây dựng.
Tôi muốn
chia sẻ với các bạn trẻ, làm thế nào gặp Chúa Giêsu.
- Trong mỗi
giây phút của cuộc đời,
- Trong sự
phân biệt giữa Chúa và việc của Chúa,
- Trong lúc
cầu nguyện và sống lời Chúa,
- Trong phép
Thánh Thể,
- Trong
những người anh chị em khắp nơi,
- Trong Mẹ
Maria.
Dưới ánh
sáng của 24 ngôi sao chiếu so dẫn đường tôi đi, cùng với các bạn trẻ, tôi muốn
la vang lên:
“Hãy sống
theo chúc thư Chúa Giêsu! Hãy tiến lên, bước qua ngưỡng cửa Hy Vọng!”
Rôma,
ngày 2 tháng 2 năm 1997
Lễ Đức Mẹ
dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh.
1
Chiếc bánh thứ nhất:
Sống giây phút hiện tại.
Các bạn có
thể gặp Chúa Giêsu, dọc theo những nẻo đường của đời sống mỗi ngày!… Đây là
chiều kích nền tảng của sự gặp gỡ đó: Không phải các bạn gặp một biến cố hay
một sự vật gì đó, nhưng các bạn gặp một con người, đó là Thiên Chúa hằng sống.
(Gioan
Phaolô II, sứ điệp NQTGT XII, số 1)
Tôi tên là
Phanxicô Nguyễn Văn Thuận, người Việt Nam. Đối với người ngoại quốc, tên tôi
khó đọc, nên ở Tanzania, Nigeria, Đại Hàn, Đài Loan, các bạn trẻ gọi tôi là “Bác
Francis “ (Uncle Francis) hay đơn giản hơn nữa là “Francis!” Đến
23-4-1975, tôi làm giám mục đã được tám năm tại Nha Trang, Trung phần Việt Nam,
Giáo phận đầu tiên Tòa Thánh trao phó cho tôi. Tôi đã sống những ngày tháng
hạnh phúc ở đó và Nha Trang vẫn chiếm một chỗ đặc biệt trong quả tim tôi. Ngày
23-4-1975, Đức Phaolô VI đã đặt tôi làm Tổng Giám mục phó Sài Gòn. Khi cộng sản
đến Sài Gòn, họ đã bảo rằng: “Việc bổ nhiệm một Giám mục một tuần trước khi
chúng tôi đến Sài Gòn là một âm mưu giữa Vatican và đế quốc, nhằm tổ chức chống
cộng sau này”.
Ba tháng
sau, ngày 15-8-1975, tôi được mời vào Dinh Độc Lập lúc 2 giờ chiều và bị bắt ở
đó.
Đêm đó, trên
đường dài 450 km, xe công an chở tôi về nơi quản thúc. Bao nhiêu tâm tình lẫn
lộn trong đầu óc tôi, lo lắng có, cô đơn có, mệt mỏi có, sau mấy tháng căng
thẳng… nhưng trong trí tôi, một quyết định sáng tỏ đã đánh tan mây mù. Tôi nhớ
lời Đức Cha John Wash, một Giám mục truyền giáo gốc Mỹ, đã nói lúc ngài được tự
do sau 12 năm tù ở Trung Cộng: “Tôi đã mất nửa đời người để chờ đợi.” Rất đúng!
tất cả mọi người tù nhân, trong đó có tôi, phút giây nào cũng mong đợi tự do.
Suy nghĩ kỹ, trên chiếc xe Toyota trắng, tôi đã đặt cho mình một quyết định:
“Tôi sẽ không đợi chờ. Tôi sống phút hiện tại và làm cho nó đầy tình thương.”
Đây không
phải là một cảm hứng đột xuất, nhưng là một xác tín đã ấp ủ suốt cuộc đời mãi
từ tiểu chủng viện: “Nếu tôi mất giờ đợi
chờ, không làm gì hết, biết đâu những điều tôi đợi không bao giờ đến. Chỉ có
một điều dù không đợi cũng vẫn đến, đó là sự chết!”
Trong làng
Cây Vông, nơi tôi bị quản thúc, ngày đêm có nhân viên an ninh chìm nổi theo
dõi. Trong óc, một tư tưởng không ngừng làm tôi xót xa, thao thức: “Giáo dân
của tôi! một đoàn chiên hoang mang, giữa bao hiễm nguy, thách đố của một giai
đoạn lịch sử mới. Làm sao tôi có thể gần gũi, liên lạc với họ, trong giai đoạn
họ cần đến người mục tử nhất! Các nhà sách công giáo bị đóng cửa, trường học
công giáo do nhà nước quản lý, tôn giáo sẽ không còn được dạy dỗ trong các
trường nữa; các linh mục, sư huynh, nữ tu, có khả năng phải đi ra thôn quê, đi
nông trường lao động, không được dạy học nữa! Sự xa lìa giáo dân là một cái
“sốc” giày vò tan nát quả tim tôi.
Tôi không
đợi chờ. Tôi sống phút hiện tại và làm cho nó đầy tình thương. Nhưng làm thế
nào?
Một đêm, một
tia sáng đến với tôi: “Con hãy bắt chước thánh Phaolô. Khi ngài ở tù, không
hoạt động được, ngài đã viết thư cho các giáo đoàn. Đơn giản vậy mà con đi tìm
đâu cho xa?”
Sáng hôm
sau, vừa mới tinh sương, giữa tháng 10 năm 1975, tôi làm hiệu cho một cậu bé 7
tuổi, tên Quang, vừa đi lễ 5 giờ ra, trời còn mù và lạnh: “Quang! con về nói má con mua cho ông mấy
“bloc” lịch cũ, ông cần dùng”. Chiều tối, chú bé mang lại mấy “bloc” lịch cũ.
Thế là mỗi đêm tháng 10 và tháng 11, 1975, tôi đã đóng hết cửa, lấy giấy
xi-măng dán bên trong và viết “Sứ điệp lao tù” cho giáo dân của tôi, dưới ánh
đèn dầu leo lét, mặc cho muỗi tha hồ đốt. Mỗi sáng thực sớm, tôi trao cho bé
Quang mấy tờ lịch tôi đã viết sau lưng, mang về cho anh, chị Quang chép lại kẻo
mất. Nếu để trên bàn tôi, “ông An” (một giáo dân) thấy sẽ sinh tai họa. Đấy là
đầu đuôi sách “Đường Hy Vọng”, sứ điệp lao tù thành hình là như thế.
Hiện nay sách đã được xuất bản bằng tám thứ tiếng.
Chúa đã ban
ơn cho tôi có nghị lực để tiếp tục làm việc, kể cả những lúc chán nản nhất. Tôi
đã viết đêm ngày trong một tháng rưỡi, vì tôi sợ sẽ bị “chuyển trại” và không
có điều kiện hoàn tất được. Lúc viết đến số 1001 tôi quyết dừng lại, xem đây
như công trình “nghìn lẻ một đêm”. Ngày 8-12-1975, lể Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên
Tội, tôi đã tạ ơn Đức Mẹ cho tôi viết xong “Đường Hy Vọng” và trao trong
tay Đức Mẹ gìn giữ, đó là của Đức Mẹ, nhờ ơn của Đức Mẹ, xin Đức Mẹ tiếp tục lo
liệu. Đoán vậy mà không sai, đến ngày 18-3-1976, tôi bị đưa vào trại Phú Khánh,
biệt giam vất vả nhất
Năm 1980,
lúc bị đưa ra quản thúc ở Giang Xá, Bắc Việt, tôi đã tiếp tục viết mỗi đêm
trong bí mật cuốn thứ hai, “Đường Hy vọng Dưới Ánh Sáng Lời Chúa và Công
Đồng Vatican II”, cuốn thứ ba “Những
Người Lữ Hành Trên Đường Hy Vọng”.
Tôi không
đợi chờ. Tôi sống phút hiện tại và làm cho nó đầy yêu thương.
Trong Phúc
Âm, các Tông Đồ muốn chọn con đường dễ nhất, khoẻ nhất: “Xin Thầy cho dân chúng về, để họ mua thức
ăn…” Nhưng Chúa Giêsu muốn hành động trong phút hiện tại: “Chính các con
hãy cho họ ăn đi: (Lc 9:1). Trên thánh giá, khi người ăn trộm thưa với Chúa
Giêsu: “Thưa Ngài, khi Ngài về thiên đàng, xin nhớ đến tôi…” Chúa Giêsu
đáp: “Hôm nay con sẽ ở cùng Ta trên nước thiên đàng.” (Lc 23:42-43).
Trong tiếng “hôm nay” của Chúa Giêsu, tôi cảm thấy tất cả sự tha thứ,
tất cả tình thương của Ngài.
Cha Maximilianô
Kolbe sống tinh thần ấy khi ngài khuyên các tập sinh trong dòng: “Tất cả,
tuyệt đối, không điều kiện.” Tôi đã nghe Đức Cha Heider Camara nói: “Cả
cuộc đời là học yêu thương”. Một lần Mẹ Têrêxa Calcutta gửi thư cho tôi, Mẹ
viết: “Điều quan trọng không phải là số công tác dã thực hiện, nhưng là mức
độ tình yêu ta đã để vào mỗi công việc.”
Làm sao yêu
thương đến cao độ như thế trong mỗi phút hiện tại? Tôi nghĩ rằng tôi phải sống
mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút, như là giờ phút cuối cùng của đời tôi. Dẹp bỏ
những gì là phụ thuộc, tập trung cả tâm hồn cho những gì là chính yếu. Mỗi lời
nói, mỗi tư tưởng, mỗi cử chỉ, mỗi cú điện thoại, mỗi quyết định phải là “đẹp
nhất” của đời tôi. Tôi phải dành cho mỗi người tình yêu của tôi, nụ cười của
tôi; tôi phải lo sợ đánh mất một giây phút nào trong đời mình vì đã sống không
ý nghĩa.
Tôi đã viết
trong sách Đường Hy Vọng: “Con chỉ có một giây phút đẹp nhất: giây phút hiện
tại (x. Mt 6:34; Ga 4:13-15). Sống trong tình yêu Chúa trọn vẹn đời con sẽ
tuyệt đẹp nếu kết tinh bằng từng triệu giây phút đẹp nhất. Con thấy đơn sơ,
không phải khó.” (ĐHV 997)
Các bạn trẻ
thân mến, trong thời đại này, Chúa Giêsu cần đến các bạn. Đức Gioan Phaolô tha
thiết kêu gọi các bạn hãy đương đầu với những thách đố của thế giới hôm nay:
Chúng ta
đang sống trong một giai đoạn đầy biến chuyển kinh khủng. Những lý thuyết được
xem là đủ sức thi gan cùng tuế nguyệt nay đã đến lúc xế chiều. Trên hoàn cầu,
cần phải phát họa lại ranh giới của nhiều quốc gia. Nhân loại tự cảm thấy mình
rất lúng túng, hốt hoảng, lo lắng (Mt 9:36). Nhưng lời Chúa không bao giờ qua
đi; đọc lại lịch sử, chúng ta thấy bao nhiêu biến cố thăng trầm, đang lúc ấy
lời Chúa đứng vững và chiếu sáng (Mt 24:35). Đức tin của Hội Thánh được xây
dựng trên Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế độc nhất: hôm qua, hôm nay và mãi mãi.”
(Ep 13:18).
Gioan
Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 2)
Cầu nguyện:
Chiều hôm qua, lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời, con đã bị
bắt
Đưa đi trong đêm, từ Sài Gòn đến Nha Trang
Trên đường dài bốn trăm rưởi cây số, ngồi trên xe giữa
hai công an.
Con bắt đầu kinh nghiệm cuộc đời một tù nhân.
Bao nhiêu tâm tình lẫn lộn trong đầu óc con:
Buồn có, sợ có, căng thẳng có.
Tim con tan nát vì phải xa giáo dân của con.
Giữa cơn khổ nhục, con đã nhớ lại lời Thánh Kinh:
“Họ đã liệt con vào giữa người gian ác” (Lc 22:37)
Xe chở con xuyên qua ba giáo phận đã gắn liền với đời
con: Sài Gòn, Phan Thiết, Nha Trang.
Con yêu mến đoàn chiên của con, và sẵn sàng chịu tù
đày, chịu chết vì họ.
Họ không biết vị mục tử của họ đang bước đi giai đoạn
đầu của Đàng Thánh Giá.
Giữa đại dương cay đắng cực dộ ấy, con cảm thấy mình
tự do hơn bao giờ hết.
Con không có gì hết, dù một xu cũng không, trừ tràng
chuỗi Mân Côi, và ý thức Chúa Giêsu, Mẹ Maria không bao giờ rời con
Trên đường tù đày con đã cầu nguyện:
Lạy Chúa là Chúa của con, là tất cả mọi sự cho con.
Lạy Mẹ Maria, con xin dâng mình cho Me, toàn thân con
thuộc về Mẹ, mọi người thân yêu và mọi sự của con là của Mẹ.
Lạy Chúa, con không đợi chờ, con quyết sống phút hiện
tại, và làm cho nó đầy tình thương,
Vì chấm này nối tiếp chấm kia, ngàn vạn chấm thành một
đường dài.
Phút này nồi tiếp phút kia, muôn triệu phút thành một
đời sống.
Chấm mỗi chấm cho đúng, đời sẽ đẹp.
Sống mọi phút cho đúng, đời sẽ thánh.
Đường hy vọng do mỗi chấm hy vọng.
Như Chúa Giêsu trọn đời đã làm những gì đẹp ý Đức Chúa
Cha,
Mỗi phút giây, con muốn làm lại với Chúa “một giao ước
mới, một giao ước vĩnh cửu”.
Con muốn cùng với Hội Thánh hát vang:
Vinh danh Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần.
Allêluia! Allêluia! Allêluia!
Cây
Vông, Nha Trang, nơi tôi bị quản thúc
16-8-1975,
hôm sau lễ Đức Mẹ lên trời.
2
Chiếc bánh thứ hai:
Phân biệt giữa Chúa và việc của Chúa
Thật đúng
vậy, Chúa Giêsu là một người bạn hay đòi hỏi, hay chỉ cho ta nhắm mục đích cao
cả… Hãy đạp đổ những rào cản của nông nổi và sợ hãi bao vây các bạn! Hãy nhận
ra mình là “những con người mới”.
(Gioan
Phaolô II, sứ điệp NQTGT XII, số 2)
Lúc tôi còn
là một linh mục sinh viên ở Rôma, có một người đã bảo tôi: “Đức tính lớn
nhất của bạn là ‘hăng say, nhiệt tình’, còn tính xấu tệ hại nhất là ‘hay tấn
công’”. Dù thế nào đi nữa, tôi là một người ham hoạt động: hướng đạo sinh,
tuyên úy tráng đoàn La Vang, cắm trại trên núi Bạch Mã… Một tư tưởng thúc bách
tôi mỗi ngày: phải chạy đua với đồng hồ! Làm tất cả những gì có thể được để
củng cố và phát triển Giáo Hội trong Giáo phận Nha Trang, trước khi thời gian
khốn khó xảy dến, khi phải sống dưới chế độ cộng sản!
Trong tầm
hoạt động của tôi là huấn luyện nhân sự: gia tăng đại chủng sinh từ 42 đến 147
trog tám năm; gia tăng số tiểu chủng sinh từ 200 đến 500 trong bốn chủng viện;
tu nghiệp các linh mục trong sáu Giáo phận của Giáo tỉnh Miền Trung; phát triển
và huấn luyện các phong trào thanh niên, giáo dân, các hội dồng giáo xứ, mục
vụ… Tôi rất quý mến giáo phận đầu tiên của tôi là Nha Trang.
Giờ đây, tôi
phải đi vào Sài Gòn lập tức, theo lệnh Đức Phaoalô VI bổ nhiệm. Không kịp từ
biệt những ai đã từng hiệp nhất với tôi trong cùng một lý tưởng, cùng một quyết
tâm, cùng chia sẻ hân hoan và thử thách.
Đêm ấy, 7-5-1975,
khi tôi ghi âm những lời tạm biệt Giáo phận Nha Trang, tôi đã khóc nhiều, đó là
một lần độc nhất tôi đã khóc thổn thức trong tám năm ở Nha Trang – vì thương
nhớ. Nhưng tâm hồn tôi rất bình an, vì tôi vâng lời Đức Thánh Cha.
Tiếp đến là
gian khổ thử thách tại Sài Gòn, là bị bắt đưa trở lại Nha Trang, nơi mà tôi đã
bị biệt giam khắc nghiệt nhất, không xa tòa Giám mục của tôi. Đêm đến, tôi nghe
tiếng sóng biển vỗ cạnh buồng biệt giam.
Từ Nha
Trang, tôi bị đưa trở lại Sài Gòn, ở trại Thủ Đức, vùng Tam Hà, ngày đêm nghe
không biết bao nhiêu tiếng chuông nhà thờ. Đêm 1-12-1975, cùng với 1500 bạn tù
đói, mệt, chán nản, còng tay hai người chung một khóa số 8, bước xuống gầm tàu
“Hải Phòng” đậu tại bến Tân Cảng gần cầu xa lộ, để chở ra trại cải tạo Vĩnh Quang,
tỉnh Vĩnh Phú, trong thung lũng núi Tam Đảo, mùa đông 1976-77 rét 2o
C.
Đặc biệt
nhất là nỗi gian khổ của 9 năm biệt giam một mình với hai người gác, không bạn
bè, không có việc làm, tôi ở trong một sự trống rỗng tuyệt đối, đến mức có thể
điên đi được. Tôi đi lại suốt ngày trong buồng giam để vận động cơ thể, kẻo nằm
luôn thì tôi sẽ chết vì thấp khớp, viêm phổi.
Nhiều khi
một mình, tôi bị đau khổ giày vò, tại sao trong lúc mình 48 tuổi, trưởng thành
và khỏe mạnh, sau tám năm Giám mục tôi đã có nhiều kinh nghiệm mục vụ, lại phải
vào phòng biệt giam, xa giáo phận những 1700 km?
Một đêm
thanh vắng, một tiếng từ đáy lòng nhắc nhở tôi: “Tại sao con quẫn trí, hoang
mang như thế làm gì? Con phải biết phân biệt giữa Chúa và công việc của Chúa.
Những gì con đã làm và tiếp tục làm như kinh lý giáo phận, huấn luyện nam nữ tu
sĩ, giáo dân, thanh niên, kiến thiết giáo đường, cư xá sinh viên, mở mang các
thí điểm truyền giáo.. tất cả những công việc ấy là những việc tốt lành, là
việc của Chúa, nhưng không phải là Chúa! Nếu Chúa muốn cho con trao tất cả các
việc ấy trong tay Ngài, con hãy làm ngay, hãy tin tưởng vào Ngài. Chúa có thể
làm tốt hơn muôn nghìn lần; Ngài có thể trao việc của Ngài cho những người tài
đức hơn con. Hãy chọn một mình Chúa thôi, chọn thánh ý Ngài, chứ đừng chọn việc
của Chúa!”
Tôi luôn
luôn học tập làm theo ý Chúa. Nhưng ánh sáng này mang lại cho tôi một sinh lực
mới, thay đổi tận gốc lối suy nghĩ của tôi, giúp tôi vượt qua những bước gian
truân mà hầu như cơ thể không chịu đựng nổi. Từ đây tôi cảm thấy trong lòng tôi
“một sự bình an mà thế gian không cho được.”
Theo tính tự
nhiên, những lúc chương trình đang thực hiện tốt đẹp phải bỏ dở, hoạt động đang
hăng say phải bó tay, nhiệm vụ đang quan trọng phải hạ tầng công tác! Uất ức và
chán nản! Tôi tự hỏi: Chúa gọi con “Hãy theo Thầy” hay “Hãy theo việc
nọ, người kia?” Để đó, Chúa sẽ liệu, Ngài sẽ giải quyết tốt hơn con là cái
chắc.
Ở trại Phú
Khánh, tôi bị giam trong một phòng không có cửa sổ, phải đi qua ba lớp cửa
trong một hành lang mới đến khí trời. Vào đó nóng cực kỳ, tôi ngột ngạt và cảm
thấy trí óc mất sáng suốt dần dần. Có lúc người ta để đèn sáng như ban ngày,
lúc khác lại nằm trong bóng tối. Buồng vừa nóng vừa ẩm, đến nỗi tôi xuống nằm
dưới nền, còn nấm thì mọc lên trắng cả chiếc chiếu của tôi. Lúc nằm trong tối
tăm, tôi thấy có một lỗ dưới vách, ánh sáng lọt vào, tôi lết đến, kê mũi vào đó
để thở. Lúc nào trời mưa, nước ở ngoài ngập, những côn trùng bên ngoài bò vào,
có cả giun và một lần có cả con rết dài; dù thấy vậy, nhưng tôi mệt quá không làm
gì được, tôi cứ để cho nó bò quanh, ngày nào nước xuống, chúng lại bò ra. Sau
này hai linh mục bị giam cách tôi hai lớp cửa, đã thuật lại cho tôi biết: “Một
hôm cô Thanh, cấp dưỡng, đã mở cửa cho chúng con ra đứng nhìn Đức Cha nằm dưới
đất và bảo: cho hai anh nhìn thấy ông Thuận, ông sắp chết!” Nhưng trong cơn
cơ cực này, Chúa đã cứu tôi!
Tôi phải
chọn Chúa cứ không việc của Chúa: Chính Chúa muốn cho tôi ở đây, chứ không phải
nơi khác.
Lúc tôi bị
nhốt dưới khoang tàu “Hải Phòng” cùng với 1500 anh em tù nhân bị đưa ra Bắc,
tôi đã thấy trên nét mặt của họ nỗi thất vọng, lòng căm thù. Tôi chia sẻ đau
khổ của họ. Nhưng tôi lại nghe tiếng: “Hãy chọn Chúa chứ không phải việc của
Chúa!” Tôi đã thưa: “Lạy Chúa, đây là nhà thờ chính tòa của con. Đây là
dân Chúa trao cho con phục vụ, con phải làm cho Chúa hiện diện giữa những người
anh em chán nản, cùng khổ này. Đây là ý Chúa, nên con phải chọn.”
Khi tôi lên
trại cải tạo, giữa thung lũng Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phú, tôi gặp 250 anh em cùng
một chuyến đi, đa số không công giáo, tôi vẫn nghe tiếng ấy thúc bách: “Hãy
chọn Chúa chứ không phải việc của Chúa! – Lạy Chúa, Chúa sai con đến đây để làm
cho tình thương của Chúa hiện diện giữa anh em con, giữa đói khát và giá lạnh,
giữa lao động cải tạo nhọc nhằn và tủi nhục bất công. Con xin chọn Chúa, không
phải chọn công việc của Chúa. Con chọn thánh ý Chúa, giờ đây con là tông đồ
truyền giáo của Chúa”.
Từ giờ phút
ấy, một sự bình an mới tràn ngập tâm hồn tôi, ở với tôi suốt 13 năm tù đày. Tôi
cảm thấy thấm thía sự yếu hèn của tôi; tôi lặp lại sự chọn lựa của tôi, lúc ấy
không bao giờ Chúa để lòng tôi thiếu an bình. Tất cả là hồng ân của Chúa. Mỗi
khi tôi tuyên bố: “Vì Chúa, vì Hội Thánh”, tôi phải thinh lặng trước mặt
Chúa, và thành thật hỏi Chúa: “Chúa thấy con hành động hoàn toàn vì ai? Con
đã chọn vinh danh Chúa, sống và hành động tuyệt đối vì Chúa? hay Chúa là lý do
thứ yếu, còn lý do khác mạnh hơn, con không tiện nói?”
Đây là một
sự lựa chọn tuyệt vời, nhưng không phải dễ dàng. Đức Gioan Phaolô kêu gọi các
bạn:
“Các bạn trẻ
thân mến, như các môn đệ thuở ban đầu, hãy theo Chúa Giêsu! Đừng sợ lại gần
Chúa… Đừng sợ ‘cuộc sống mới’ mà Chúa muốn trao cho các bạn vì chính Ngài cho
các bạn đủ sức đón nhận và thực hiện cuộc sống ấy. Ngài ban ân sủng của Ngài và
Thánh Thần của Ngài cho các bạn”.
(Gioan
Phaolô II, sứ điệp NQTGT XII, số 3)
Đức Thánh
Cha lại lấy gương thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu để soi sáng các bạn trẻ:
Hãy cùng
Têrêxa tiến lên trên đường khiêm nhượng và đơn sơ, trong trường học của Phúc
Âm. Hãy cùng Têrêxa sống trong “quả tim” của Hội Thánh và triệt để chọn Đức
Kitô.
(Gioan
Phaolô II, sứ điệp NQTGT XII, số 9)
Cậu bé trong
Phúc Âm đã có sự chọn lựa triệt để ấy, cậu đã hiến dâng tất cả: Năm chiếc bánh
và hai con cá, trong tay Chúa Giêsu với lòng tin tưởng. Thế rồi Chúa Giêsu đã
làm “việc của Chúa”: với chừng ấy, Ngài đã nuôi cả ngàn người, cả vạn người!
Cầu nguyện: Chúa và việc của Chúa
Vì lòng thương vô hạn, Chúa gọi con theo Chúa, làm con
Chúa, làm môn đệ Chúa.
Rồi Chúa trao cho con một sứ mạng.
Không ai giống ai, nhưng cùng một muc đích: làm tông
đồ, làm chứng nhân cho Chúa.
Tuy nhiên, kinh nghiệm bản thân cho con thấy, nhiều
lần con lẫn lộn hai việc này: Chúa và việc của Chúa. Chúa trao cho con công
việc của Chúa, cao trọng có, khiêm tốn có, tầm cỡ có, bình dân có.
Con làm mục vụ giáo xứ, mục vụ giới trẻ, mục vụ học
đường, mục vụ nghệ thuật, mục vụ gia đình, mục vụ thanh niên, mục vụ lao động,
mục vụ truyền thông.
Con đổ vào đó tất cả nhiệt tình, tất cả những gì có
thể được.
Con không tiếc một điều gì, kể cả mạng sống con.
Giữa lúc con tận tụy, hăng say như thế, con gặp thất
bại ê chề.
Vì người ta vô ơn, vì không ai chịu cộng tác, vì bạn
bè hiểu lầm, vì bề trên không nâng đỡ, vì bệnh tật ốm đau, vì thiếu phương
tiện…
Có lúc con đang trên đà thành công rực rỡ, mọi người
hân hoan ca ngợi con, quyến luyến con.
Thì đùng một cái, con phải thuyên chuyển, nhận nhiệm
vụ mới.
Con choáng váng như đang rơi vào trong đêm tối.
Sao Chúa bỏ con?
Con không muốn bỏ dở việc Chúa.
Phải xây xong thánh đường, tổ chức xong hội đoàn…
Tại sao người ta phá việc Chúa?
Không ủng hộ việc Chúa vô cùng chính đáng?
Nhưng trước bàn thờ, bên Mình Thánh Chúa, con nghe
Chúa Giêsu bảo con:
“Con hãy theo Chúa, chứ không phải theo việc của
Chúa!”
“Nếu Chúa muốn, con hãy trao việc Chúa lại trong tay
Chúa.
Chúa sử dụng ai tiếp tục, mặc ý Chúa.
Có Chúa lo, mà Chúa lo thì muôn vạn lần hơn con lo.
Con hãy chọn một mình Chúa”.
3
Chiếc bánh thứ ba:
Một bí quyết: Cầu nguyện
Các bạn hãy
biết lắng nghe, trong thinh lặng cầu nguyện, câu trả lời của Chúa Giêsu: Hãy
đến và sẽ thấy.”
(Gioan
Phaolô II, sứ điệp NQTGT XII, số 2)
Ỏ tù về, tôi
được nhiều người chất vấn: “Cha suớng thật, trong tù cha đã có nhiều thời giờ
để cấu nguyện!” Không phải đơn giản như các bạn nghĩ đâu! Chúa đã cho tôi có
dịp hiểu rõ sự yếu đuối thể lý và tinh thần của tôi. Thời giờ trong tù trôi qua
chậm rãi, đặc biệt trường hợp của những ai bị biệt giam. Bạn hãy tưởng tượng
một tuần, một tháng, hai tháng thinh lặng… thấy lâu dài cách kinh khủng. Khi
thinh lặng ấy kéo dài từng năm, thì nó trở thành đời đời… Ông bà thường bảo: “Nhất
nhật tại tù, thiên thu tại ngoại” nghĩa là “một ngày torng tù dài bằng
ngàn thu tự do.”
Có những lúc
quá đau, quá mệt không đọc được một kinh.
Tôi nhớ lại
câu chuyện ông già Jim. Cứ mỗi ngày lúc 12 giờ trưa, ông ta vào nhà thờ không
quá hai phút. Ông từ (giữ nhà thờ) rất thắc mắc theo dõi, rồi một hôm chận ông
Jim lại và hỏi:
- Tại sao
bác vào đây mỗi ngày?
- Tôi đến
cầu nguyện.
- Không thể
được! kinh gì trong hai phút?
- Tôi vừa
già, vừa dốt, đọc kinh theo kiểu của tôi. Tôi cầu nguyện: “Giêsu, có Jim đây!”
Rồi tôi ra về.
Thời gian
trôi qua, Jim già yếu, bệnh tật, phải vào bệnh viện, nơi khu vực người già. Sau
đó, Jim yếu liệt, chuẩn bị đi xa. Linh mục tuyên úy và nữ tu y tá đến bên
giường Jim:
- Jim ơi, hãy
nói cho chúng tôi biết, tại sao từ ngày ông vào khu vực này, có nhiều điều thay
đổi, bệnh nhân vui vẻ hơn, chấp nhận thuốc thang, sống có tình nghĩa hơn?
- Chả biết!
Lúc còn sức, tôi đi thăm mọi người, chào hỏi, chuyện trò một chốc; lúc sau liệt
giường, tôi gọi tên họ, thăm hỏi, làm cho họ cười. Với Jim ai cũng vui.
- Thế tại
sao Jim vui, Jim hạnh phúc?
- Khi nào
cha và sơ được người ta đến thăm mỗi ngày có vui không?
- Vui chứ!
Nhưng có thấy ai thăm Jim đâu?
- Lúc mới
vào, tôi có xin hai chiếc ghế, một dành riêng cho cha và sơ, một cho khách quý
của tôi, thấy không?
- Khách của
ông là ai?
- Là Chúa
Giêsu. Trước kia tôi đến thăm Ngài ban trưa, nay đi hết nổi, cứ 12 giờ trưa
Ngài đến thăm tôi.
- Ngài nói
gì với Jim?
- Ngài bảo:
Có Giêsu đây!….
Trước lúc
Jim chết, người ta thấy Jim đưa tay chỉ chiếc ghế như thể muốn mời ai ngồi, Jim
mỉm cười, nhắm mắt ra đi.
Những lúc
tôi không còn đủ sức để đọc nổi dù một kinh, tôi lặp đi lặp lại: “Giêsu, có con
đây”, tôi cảm thấy như Chúa Giêsu trả lời: “Thuận ơi, có Giêsu đây!” Tôi vui vẻ
và bình an.
Các bạn hỏi
tôi: “Cha thích đọc kinh nào?” Dĩ nhiên là tôi thích những kinh của Chúa Giêsu
dạy, của Hội Thánh: kinh Lạy Cha, kinh Kính Mừng, kinh Tin Kính…
Thú thật,
tôi thích những kinh vắn tắt đơn sơ trong Phúc Âm:
“Con ơi, nhà
này hết rượu!” (Ga 2:3)
“Linh hồn
tôi ngợi khen Chúa.” (Lc 1:46, 55)
“Xin Chúa
thương xót con vì con là kẻ có tội” (Lc 18:13)
“Lạy Cha,
nếu có thể được thì xin cho con khỏi uống chén đắng này.” (Mt 26:38)
“Lạy Cha,
xin tha cho họ, vì họ lầm” (Lc 23:34)
“Xin Cha cho
chúng hiệp nhất nên một” (Ga 17:21)
“Con phó
linh hồn trong tay Cha” (Ga 23:46)
Tôi thích
dùng lời Thánh Kinh, lời Chúa để cầu nguyện. Khi đọc lên những Thánh Vịnh, tôi
sung sướng vì biết rằng đây là những kinh mà chính Chúa Giêsu và Mẹ Maria đã
đọc. Mấy anh công an canh gác tôi làm đôi việc để “cải thiện” kinh tế, chẳng
hạn họ cắt giấy rồi in tay… bán cho các công sở. Loại giấy “đầu thừa đuôi thẹo”
thì quét lại cả đống làm giấy vệ sinh, tôi lượm giấy vệ sinh ấy, mượn kim chỉ,
đóng thành sổ bỏ túi, hai cuốn sổ tôi rất quý, một gồm trên 30 câu Thánh Kinh
bằng tiếng La Tinh để cầu nguyện và một gồm đầu đề của trên vài ba trăm bài hát
cũng để cầu nguyện. Còn bao nhiêu giấy vệ sinh khác mỗi ngày thu lượm một ít để
dành viết sách.
Tôi rất ghi
ơn sự huấn luyện ở chủng viện, những bài thánh ca đã ghi sâu vào lòng tôi. Đặc
biệt là tôi thuộc lòng hầu hết bài hát bình ca trong kinh phụng vụ, chưa bao
giờ tôi cảm thấy ý nghĩa sâu xa và xúc động như vậy. Cũng không thể quên được
những kiinh Việt ngữ, tiếng mẹ đẻ của tôi mà cả nhà cùng cầu nguyện mỗi tối
trong nhà nguyện gia đình. Tôi hình dung được trước mắt ông bà, ba má và các em
tôi, và nghe giọng mỗi người đang cầu nguyện. Nhất là ba kinh Kính Mừng và kinh
Hãy Nhớ mà mẹ tôi tập tôi đọc sớm tối từ lúc mới biết nói.
Như tôi đã
nói, tôi ở tù biệt giam chín năm, chỉ có tôi và hai người gác. Để tránh cho
khỏi thấp khớp và tê liệt, suốt ngày tôi không ngừng đi lại, xoa bóp, thể dục
và hát để cầu nguyện: ca vịnh thống hối Miserere, kinh tạ ơn Te Deum,
kinh Chúa Thánh Thần Veni Creator, kinh các thánh tử đạo Sanctorum
meritis. Những bài hát của Hội Thánh, được cảm hứng từ lời Chúa, như rót
vào trong tôi lòng can đảm để theo Chúa Giêsu:
Cedantur
gladiis, more bidentium,
Non murmur
resonant, non querimonia,
Sed corde
impavido, mens bene conscia,
Conservant
patientiam.
(Muốn thử
thách vì Ngài đâu sá kể!
Không hề một
lời oán trách thở than!
Chẳng xôn
xao, lòng thơ thới yên hàn,
Trước sau
vẫn hiền hòa, vẫn kiên nhẫn.)
Để đánh giá,
để nếm được sự quý đẹp của những kinh ấy, cấn phải có kinh nghiệm ngục tù tăm
tối, cô đơn, và ý thức được sự hiện diện của Chúa. Ngài chấp nhận những đau khổ
dâng lên Ngài vì muốn trung thành với Hội Thánh. Tôi cảm nghiệm được sự hiệp
thông với Chúa Giêsu, với Đức Thánh Cha, với toàn thể Hội Thánh một cách tha
thiết vững vàng mỗi khi tôi lặp lại suốt ngày.
Chính nhờ
Đức Kitô, cùng với Đức Kitô, và trong Đức Kitô, mà mọi chúc tụng và vinh quang
đều qui về Chúa là Cha toàn năng, cùng với Chúa thánh Thần muôn đời. Amen.
Có lúc Chúa
dùng giáo dân để dạy tôi cầu nguyện. Thời gian bị quản thúc ở Giang Xá, có ông
lão nhà quê, tên là ông quản Kính, từ giáo xứ Đại Ơn lẻn vào thăm tôi. Tôi
không bao giờ quên được lời ông khuyên tôi:
“Thưa cha,
cha không hoạt động tông đồ được thì xin cha cầu nguyện cho Hội Thánh; ở trong
tù, cha đọc một kinh hơn một ngàn kinh cha đọc lúc ở ngoài tự do!”
Đức Mẹ còn
sử dụng cả người cộng sản để nhắc tôi cầu nguyện. Ông Hải đã từng ở tù, nằm
cùng buồng với tôi để mật thám tôi, sau đã thành bạn của tôi. Trước ngày ông ra
về, ông đã hứa với tôi:
“Nhà tôi ở
Long Hưng, chỉ cách La Vang 3 km, tôi sẽ đi La Vang cầu nguyện cho anh.”
Tôi tin lòng
thành thật của anh bạn, nhưng tôi hoài nghi làm sao một người cộng sản mà đi
cầu nguyện Đức Mẹ cho tôi! Sáu năm sau, đang lúc tôi ở biệt giam, tôi đã được
một bức thư của ông Hải, lạ lùng thật! Lạ hơn nữa là lời lẽ của ông như sau:
“Anh Thuận
thân mến, tôi đã hứa với anh, tôi sẽ đi cầu nguyện Đức Mẹ La Vang cho anh. Mỗi
Chủ nhật, nếu trời không mưa, lúc tôi nghe chuông La Vang, tôi lấy xe đạp vào
trước đài Đức Mẹ, vì chiến tranh bom đạn đã đánh sập nhà thờ rồi. Tôi cầu
nguyện như thế này: ‘Thưa Đức Mẹ, tôi không có đạo, tôi không thuộc kinh nào
cả. Nhưng tôi đã hứa đi cầu nguyện Đức Mẹ cho anh Thuận, nên tôi đến đây. Xin
Đức Mẹ biết anh Thuận cần gì thì cho anh ấy.’”
Tôi hết sức
cảm động. Tôi đọc đi đọc lại, rồi đặt thư xuống nhắm mắt lại: “Lạy Mẹ, Mẹ đã
dùng anh cộng sản này để dạy con cầu nguyện; chắc Mẹ đã nhậm lời anh ấy, con
mới còn sống đây!”
Trước khi
làm bất cứ việc gì, dù là việc mục vụ, xã hội, bác ái, chúng ta phải cầu
nguyện. Như Chúa Giêsu, trước khi làm phép lạ nuôi dân chúng, đã ngước mắt lên
trời cầu nguyện cùng Đức Chúa Cha. Ngài đã chọn Chúa trước rồi mới làm việc
Chúa sau.
Các bạn thân
mến,
Đức Thánh Ca
nhắn nhủ các bạn:
“Hãy thưa
chuyện với Chúa Giêsu lúc cầu nguyên, lúc nghe lời Chúa; hãy nếm thử niềm vui
lúc được bí tích hòa giải; hãy đón nhận Mình Máu Thánh Chúa Giêsu trong phép
Thánh Thể…; hãy khám phá sự thật về chính mình các bạn, khám phá ra sự hiệp
nhất nội tâm và sẽ tìm thấy người Bạn chữa các bạn khỏi những xao xuyến, những
cơn ác mộng, khỏi óc chủ quan man rợ nó không để cho các bạn được bình an.”
(Gioan
Phaolô II, sứ điệp NQTGT XII, số 3)
Cầu nguyện:
Những kinh vắn tắt của tô.
Con nghĩ
rằng Chúa Giêsu đã cho con mẫu kinh nguyện.
Thực sự Ngài
chỉ cho con một kinh: “Kinh Lạy Cha”. Vắn tắt, cô đọng, đầy đủ.
Đời Chúa
Giêsu là một kinh cầu nguyện. Là một câu chuyện chân tình đơn sơ của Chúa Giêsu
với Chúa Cha.
Cũng có lần
khá dài, không công thức như lời nguyện linh mục sau buổi tiệc ly: tha thiết,
tự đáy lòng.
Thường Chúa
Giêsu, Đức Mẹ, các thánh Tông Đồ, cầu nguyện với lời kinh vắn tắt, nhưng rất
hay, rất đẹp, gắn liền với cuộc sống hằng ngày.
Con yếu
đuối, nguội lạnh, nên con thích mấy kinh vắn này, trước nhà tạm Chúa, nơi bàn
viết, lúc ở một mình, lúc đi giữa hè phố, đọc đi đọc lại nhiều lần, con thấy
thật thấm thía.
Con đang ở
bên Chúa.
“Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng vì chúng nhầm.”…
“Xin Cha cho chúng con nên một.”
“Này con là tôi tá Đức Chúa Trời”…
“Con ơi, nhà này hết rượu”…
“Đây là con Mẹ, đây là Mẹ con.”
“Lạy Chúa, khi về nước thiên đàng,
xin nhớ đến con cùng”.
“Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?”
“Lạy Chúa, Chúa biết mọi sự, Chúa biết con mến Chúa.”
“Lạy Chúa, xin Chúa thương xót con, vì con là kẻ có
tội.”
….
Những kinh
nho nhỏ kết thành một đời cầu nguyện. Cũng như những cử chỉ nhẹ nhàng, những
cái nhìn, những lời nói thân mật, làm thành một đời yêu đương.
Những kinh
nho nhỏ giữ ta luôn trong trạng thái cầu nguyện, không tách lìa ta ra khỏi công
việc hiện tại, nhưng giúp ta thánh hóa mọi sự.
Biệt
giam Hà Nội
23-5-1987
Lễ
Thiên thần truyền tin cho Đức Mẹ
4
Chiếc bánh thứ tư:
Sức mạnh độc nhất của tôi: Phép Thánh Thể
Quanh bàn
tiệc Thánh Thể được thực hiện và được tỏ bày sự hiệp nhất hài hòa của Hội
Thánh, mầu nhiệm hiệp thông truyền giáo, trong đó mọi người đều nhận thấy mình
là con Chúa và là anh chị em trong một gia đình.
(Gioan
Phaolô II, sứ điệp NQTGT XII, số 7)
“Trong tù
cha có dâng lễ được không?” Đó là câu hỏi mà bao nhiêu lần nhiều người đã hỏi
tôi. Và thực sự họ có lý, vì Thánh Thể là kinh nguyện đẹp nhất, là đỉnh cao của
cuộc đời Chúa Giêsu. Mỗi khi tôi trả lời “có” là tôi biết ngay câu hỏi tiếp
sau: “Làm sao cha kiếm ra rượu lễ, bánh lễ?”
Lúc tôi bị
bắt, tôi phải đi ngay và đi tay không. Hôm sau tôi được phép viết về nhà để xin
đồ cần dùng nhất như áo quần, kem đánh răng, v. v. Hàng đầu tiên, tôi viết:
“Xin gửi cho tôi ít rượu thuốc trị bệnh đường ruột”. Bên ngoài, giáo dân hiểu
ngay. Hôm sau, ông trưởng ban chấp hành cầm đến một ve nhỏ, bên ngoài có dán
giấy đề chữ “thuốc trị bệnh đường ruột”, và bánh lễ xé nhỏ bỏ trong một cái lọ
chống ẩm, ông ta hỏi:
- Ông có bị
bệnh đường ruột không?
- Có.
- Đây là
thuốc bên ngoài gửi vào cho ông!
Không bao
giờ tôi vui bằng hôm đó: từ đó mỗi ngày với ba giọt rượu và một giọt nước trong
lòng bàn tay, tôi dâng thánh lễ.
Tuy nhiên,
cách dâng lễ mỗi nơi mỗi khác. Dưới hầm tàu thủy chở tôi ra Miền Bắc, ban đêm
tôi ngồi giữa mấy bạn tù, bàn thờ là túi cói đựng đồ, dâng lễ thánh Phanxicô,
quan thầy của tôi, và cho các bạn chịu lễ. Lúc ở trại Vĩnh Quang, tôi phải dâng
lễ trong góc cửa, ban sáng lúc người ta đi tắm sau giờ thể dục. Lúc đã quen với
thời khóa biểu của trại, tôi dâng lễ ban đêm, vì chúng tôi được chia thành từng
đội 50 người, ngủ chung trên một láng gỗ, mỗi người được 50 cm, đầu đụng nhau,
chân quay ra ngoài. Chúng tôi đã tự thu xếp để năm anh em công giáo nằm quanh
tôi. Đến 9 giờ đêm, nghe tiếng kẻng là tắt đèn và mọi người phải nằm trong mùng
muỗi cá nhân; tôi ngồi cúi sát xuống để làm lễ thuộc lòng. Tôi đưa tay dưới
mùng để chuyển Mình Thánh cho anh em chịu lễ. Chúng tôi nhặt giấy nylon bọc bao
thuốc hút để làm những túi nhỏ đựng Mình Thánh. Như thế Chúa Giêsu luôn ở giữa
chúng tôi. Chúng tôi tin một sức mạnh: Thánh Thể. Thịt Máu Chúa làm cho chúng
tôi sống, “Ta đã đến là chúng được có sự sống, và có được một cách dồi dào.”
(Ga 10:10) Như manna nuôi dân Do Thái đi đường về đất hứa, Thánh Thể sẽ nuôi
con về đường Hy Vọng. (Ga 6:53)
Mỗi tuần,
sáng thứ sáu, có một buổi học tập, tất cả 250 anh em phải tham dự. Đến lúc nghỉ
xả hơi, các bạn công giáo thừa dịp đó mang theo các túi nylon đựng Mình Thánh
đến chia cho bốn đội kia, mọi người thay nhau mang trong túi áo một ngày.
Ai cũng biết
có Chúa Giêsu Thánh Thể đang ở giữa trại tù của họ. Chính Ngài an ủi, xoa dịu
những nỗi khổ đau thể xác và tinh thần, chính Ngài thêm can đảm chịu đựng cho
họ. Ban đêm, họ thay phiên nhau làm giờ thánh. Sự hiện diện thinh lặng của phép
Thánh Thể biến đổi họ cách lạ lùng. Nhiều người công giáo trở lại sống đạo đức
hơn; nhiều anh em không công giáo, Phật giáo, tìm hiểu Phúc Âm và lãnh phép
thánh tẩy trong trại cải tạo, hoặc sau lúc được tự do. Không có gì cưỡng lại
tình yêu Chúa Giêsu. Đêm tối của ngục tù trở thành ánh sáng, hạt giống đã đâm
chồi dưới đất, đang lúc trời giông tố phong ba. Những ơn trọng này do Chúa
Giêsu Thánh Thể, chứ không phải do sức loài người.
Trong chín
năm biệt giam, tôi dâng lễ một mình lúc ba giờ chiều, giờ Chúa Giêsu hấp hối
trên Thánh giá. Tôi ở một mình, nên có thể hát tiếng La Tinh, tiếng Việt, tiếng
Pháp.. Tôi luôn mang Mình Thánh trong mình “như Cha ở trong con và con ở trong
Cha.”
Đó là những
thánh lễ đẹp nhất của đời tôi. Kinh Lauda Sion, Pange lingua, Adoro Te, Te
Deum và nhiều kinh Việt ngữ, mặc cho tiếng loa trước cửa từ 5 giờ sáng đến
11 giờ rưỡi đêm. Tôi cảm nghiệm cách đặc biệt một sự bình an, một niềm vui
trong tâm hồn vì Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse ở với tôi. Tôi hát Salve
Regina, Salve Mater, Regina Caeli, v. v. hiệp với toàn thể Hội Thánh. Mặc
cho Hội Thánh bị vu cáo, chống đối, tôi hát: Này con là Đá, Ta hãy nguyện
xin cho Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô.”….
Chúa Giêsu
đã nuôi dưỡng dân chúng theo Người trên sa mạc, trong phép Thánh thể, Chúa
Giêsu tiếp tục làm của ăn ban sự sống muôn đời.
Mỗi lúc dâng
lễ, tôi đọc lời truyền phép với tất cả tâm hồn, tôi làm lại “lời giao ước mới,
giao ước vĩnh cửu” với Chúa Giêsu. Không phải để sống an nhàn, nhưng để bắt đầu
một cuộc cách mạng, đổi mới nhân loại, được Máu Chúa cứu chuộc, sống xứng đáng
phẩm giá con Thiên Chúa, trong văn hóa của tình thương và sự sống.
Trong Thánh
Thể, chúng tôi loan truyền sự chết của Chúa Giêsu, và tuyên xưng sự sống lại
của Ngài. Có lúc buồn nản vô cùng, tôi nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh và bị
bỏ rơi trên thánh giá. Ngài không giảng dạy, thăm viếng, chữa lành bệnh tật;
Ngài hoàn toàn bất động. Đối với con mắt loài người, cuộc đời Chúa Giêsu là vô
ích, là thất bại. Nhưng đối với đôi mắt Thiên Chúa, chính giây phút ấy lại là
giây phút quan trọng nhất của đời Ngài, vì trên thánh giá Ngài đã đổ máu mình để
cứu chuộc nhân loại.
Chúa Giêsu
là mẫu gương của tình yêu tuyệt đối với Đức Chúa Cha và các linh hồn. Ngài đã
cho tất cả, yêu thương đến cùng (Ga 13:1), cho đến lúc trút hơi thở cuối cùng
và nói lên tiếng “hoàn tất” (Ga 19:30).
Khi nhìn đến
đoàn lũ theo Ngài, Ngài nói: “Tôi thương xót dân này” (Mt 15:32). Ngài
đã làm phép lạ cho bánh và cá hóa nhiều để nuôi họ. Đây là dấu hiệu loan báo
phép Thánh Thể mà Ngài sẽ thiết lập về sau.
Các bạn trẻ
thân mến, mời các bạn nghe lời Đức Thánh Cha:
Chúa Giêsu
sống giữa chúng ta, trong phép Thánh Thể; giữa những sự bất trắc, những hoang
mang trong cuộc đời mỗi ngày, các bạn hãy noi gương hai môn đệ trên đường về
Emmau… Hãy cầu xin Chúa Giêsu, để dọc các nẻo đường về các xóm nhỏ Emmau của
thời đại ta, Ngài ở lại với các bạn. Ngài phải là sức mạnh của các bạn, là
trung tâm của các bạn, là hy vọng trường cửu của các bạn.
(Gioan
Phaolô II, sứ điệp NQTGT XII, số 7)
Cầu nguyện: Trong giây phút này, Chúa Giêsu tiếp tục
Thánh lễ
Lạy Chúa Giêsu, Chúa tiếp tục Thánh lễ
mỗi giây phút cho đến tận thế.
Chúa sử dụng tay của linh mục trong phép Thánh Thể
khắp địa cầu cách huyền nhiệm mà thực tại.
Con dâng Thánh lễ đúng nghi thức phụng vụ không đủ.
Ngày xưa Chúa không theo qui luật phụng vụ ngày nay.
Nhưng Chúa dâng Thánh lễ với tâm tình sốt sắng nhất,
những tâm tình trong giờ tử nạn, nhất là trên thánh giá.
Đau khổ thể xác, nhất là đau khổ tinh thần.
Yêu mến vâng phục Chúa Cha cho đến chết, chết sỉ nhục
trên Thánh giá, hình phạt dành cho nô lệ.
Chúa chịu mọi người ruồng bỏ, kể cả Chúa Cha: “Lạy
Cha, sao Cha bỏ con!”
Xin cho chúng con dâng lễ như Chúa.
Nếu chúng con không dâng chính mình làm hy lễ toàn
thiêu;
Nếu cuộc đời chúng con không chịu đói chịu khát, chịu
sỉ nhục, chịu nhổ, chịu vả vào mặt, chịu đội mão gai, chịu vác thánh giá, chịu
đánh đòn, chịu trói, chịu ngã quỵ, chịu đóng đinh, chịu chết, chôn trong mồ
người khác; thì con phải xét mình, phải sám hối hoán cải; phải biến chuyển, lột
xác, vì con chưa tế lễ như Chúa.
Nếu con còn lo sợ, con kiếm cách tránh né thân phận
Chúa, thì dù con có theo nghi thức nào có long trọng đến đâu, con không tế lễ
với tâm tình Chúa.
5
Chiếc bánh thứ năm:
Yêu thương cho đến hiệp nhất.
Chúc thư của Chúa Giêsu.
Các bạn trẻ thân mến,
Các bạn được
gọi làm chứng nhân đáng tin của Phúc Âm Chúa Kitô, Đấng làm cho mọi sự nên mới…
“nếu các bạn thương yêu nhau” (Ga 13:35)
(Gioan
Phaolô II, sứ điệp NQTGT XII, số 8)
Ở trại giam
Phú Khánh, một đêm tôi đau quá, thấy một người gác đi qua, tôi kêu: “Tôi đau
quá, xin anh thương tình cho tôi thuốc!” Anh ta đáp: “Ở đây chẳng có thương yêu
gì cả, chỉ có trách nhiệm.”
Đó là bầu
không khí của chúng tôi ở trong tù.
Lúc tôi bị
biệt giam, trước tiên người ta trao cho năm tên gác tôi: đêm ngày có hai anh
trực. Cứ hai tuần họ đổi một tổ mới, để khỏi bị tôi nhiễm độc. Một thời gian
sau không thay nữa, vì “cấp trên” nói: “Nếu cứ thay riết thì sở công an bị
nhiễm độc hết!”
Thực thế, để
tránh nhiễm độc, mấy anh không nói với tôi, họ chỉ trả lời “có” hoặc “không”.
Họ tránh nói chuyện với tôi. Buồn quá! Tôi muốn lịch sự vui vẻ với họ, họ vẫn
lạnh lùng. Phải chăng họ ghét “cái mác phản động” nơi tôi. Tất cả áo quần đều
đóng dấu hai chữ lớn “cải tạo”, kể từ ngày bước chân vào trại Vĩnh Quang ở Bắc
Việt.
Tôi phải làm
thế nào?
Một đêm đông
lạnh quá, không ngủ được, tôi nghe một tiếng nhắn nhủ tôi: “Tại sao con dại
thế? Con còn giàu lắm. Con mang tình thương Chúa Giêsu trong tim con. Hãy yêu
họ như Chúa Giêsu đã yêu con.” Sáng hôm sau, tôi bắt đầu yêu mến họ, yêu mến
Chúa Giêsu trong họ, tươi cười với họ, trao đổi đôi ba câu nói… Tôi thuật lại
những chuyến đi ra nước ngoài, cuộc sống, văn hóa, kinh tế, khoa học, kỹ thuật,
tự do dân chủ ở Canada, Nhật Bản, Philippines, Singapore, Pháp, Đức, Úc, Áo, v.
v. Những câu chuyện đó kích thích tính tò mò của họ, giục họ đặt nhiều câu hỏi.
Tôi luôn luôn trả lời… Dần dần chúng tôi trở thành bạn. Họ muốn học sinh ngữ
Anh, Pháp… tôi giúp họ. Từ từ mấy chiến sĩ gác tôi trở thành học trò của tôi!
Bầu khí nhà giam đổi nhiều, quan hệ giữa họ với tôi tốt đẹp hơn. Thậm chí cả
những ông xếp công an, thấy tôi đối xử chân thành, không những họ xin tôi giúp
các chiến sĩ học hành ngoại ngữ, nhưng họ còn gửi anh khác đến học.
Tôi sống
theo lời Chúa Giêsu dạy: “Điều gì con làm cho một người bé mọn nhất trong
anh em là làm cho chính mình Ta.”
“Khi nào có
hai hay ba người họp nhau vì danh Thầy, thì có Thầy ở giữa họ.”
Một hôm, một
ông xếp hỏi tôi:
- Ông nghĩ
thế nào về tờ tuần báo “Người Công Giáo”?
- Nếu viết
đúng cả nội dung cả hình thức thì có lợi; nếu ngược lại thì không thêm đoàn
kết, lại còn thêm chia rẽ, bất lợi cho cả người công giáo và cho cả nhà nước.
- Làm thế
nào cải thiện tình trạng ấy?
- Những cán
bộ phụ trách về tôn giáo phải hiểu đúng mỗi tôn giáo thì việc đối thoại, tiếp
xúc các chức sắc mỗi tôn giáo cũng như các tín hữu mới có tính cách xây dựng,
tích cực và tạo nên thông cảm giữa đôi bên.
- Ông có thể
giúp được không?
- Nếu các vị
muốn, tôi sẽ viết một cuốn Lexicon (tự điển bỏ túi) gồm những danh từ thông
dụng nhất trong tôn giáo, từ A đến Z, chừng nào các vị có giờ rảnh, tôi sẽ giải
thích rõ ràng, khách quan. Hy vọng các vị có thể hiểu lịch sử, cơ cấu, sự phát
triển và hoạt động của Giáo Hội…
Họ đã trao
giấy mực cho tôi, tôi đã viết cuốn “Lexicon” đó bằng tiếng Pháp, Anh, Ý, La
Tinh, Tây Ban Nha và Trung Quốc với phần giải thích bằng Việt ngữ. Dần dà tôi
có cơ hội giải thích hoặc giải đáp thắc mắc, tôi chấp nhận làm sáng tỏ những
chỉ trích về Giáo Hội. “Lexicon” ấy thành một cuốn giáo lý thực hành. Ai cũng
biết viện phụ là gì, thượng phụ là gì, Công giáo khác Anh giáo, Tin lành, Chính
thống giáo chỗ nào? Tài chánh của Tòa Thánh từ đâu mà có? Có bao nhiêu tu sĩ,
giáo dân làm việc trong giáo triều, huấn luyện tu sĩ, giáo sĩ thế nào? Giáo Hội
phục vụ nhân loại thế nào? Tại sao Giáo Hội gồm nhiều dân tộc, sống qua nhiều
thời đại cũng bị bắt bớ, tiêu diệt, cũng mang nhiều khuyết điểm mà vẫn tồn tại?
Ngang đây là đến biên giới của siêu nhiên, của sự quan phòng của Thiên Chúa…
Cuộc đối thoại từ A đến Z giúp xóa tan một số hiểu lầm, một số thành kiến, có
những lúc thú vị và hấp dẫn. Tôi tin tưởng có nhiều người cổi mở, muốn tìm
hiểu, và với những biến chuyển trong thời đại ta, đã có những tầm nhìn mới mẻ
và xây dựng.
Trong thời
gian biệt giam ở Hà Nội, tôi được biết có 20 chiến sĩ nam nữ trẻ học tiếng La
Tinh với một cựu tu sĩ, để có thể đọc các tài liệu của Giáo Hội. Trong số mấy
anh gác tôi có hai anh trong nhóm học La Tinh. Trông thấy bài vở, tôi nhận thấy
họ học tốt. Một hôm, một trong hai anh ấy hỏi tôi:
- Ông có thể
dạy tôi học một bài hát La Tinh không?
- Có nhiều
bài hay tuyệt, nhưng biết anh thích bài nào?
- Ông hát
cho tôi nghe, tôi sẽ chọn.
Tôi đã hát Salve
Regina, Veni Creator, Ave Maris Stella… Các bạn biết anh ta chọn bài nào
không? Anh ta chọn bài Veni Creator (Xin Chúa Ngôi Ba đoái thương viếng
thăm)
Tôi đã chép
trọn cả bài cho anh ta và anh ta học thuộc lòng. Mỗi sáng quãng 7 giờ, tôi nghe
anh ta chạy xuống thang gỗ, ra sân tập thể dục, rồi múc nước, vừa tắm vừa hát: Veni
Creator Spiritus… Tôi rất cảm động, làm sao mỗi sáng trong nhà tù cộng sản
lại có một cán bộ hát kinh Veni Creator cho mình nghe!
Anh thứ hai
lại chọn một bài hát tiếng Việt “Ngày vinh phúc hôm nay, hát mừng Tôma
Thiện” kính thánh tử đạo chủng sinh. Anh rất thích nên thuộc lòng cả bài.
Tiếng anh ngân nga, như nhắc tôi can đảm chịu khó:
Ôi! Cái chết
đẹp thay!
Trên cổ một
vòng dây.
Cái vòng dây
yêu mến,
Buộc lòng tớ
theo Thầy.
Đâu có tình
yêu thương, đó có vui tươi an bình, vì Chúa Giêsu ở đó. Con mang một đồng phục,
nói một ngôn ngữ: bác ái. Bác ái là chứng tích để biết con là môn đệ Chúa (Ga
13:35), là dấu hiệu rẻ mà khó kiếm nhất.
Trên núi
Vĩnh Phú, trong trại tù Vĩnh Quang, một hôm trời mưa lớn, tôi cưa gỗ trong nhà.
Tôi xin anh chiến sĩ gác tôi:
- Tôi xin
anh một đặc ân.
- Anh muốn
gì? Tôi cố gắng giúp anh.
- Tôi muốn
cưa một miếng gỗ theo hình Thánh giá .
- Anh không
biết ở trại nghiêm cấm mọi hình thức tôn giáo sao?
- Tôi biết,
nhưng chúng ta là bạn, và tôi hứa sẽ giấu rất kín.
- Vô cùng
nguy hiểm cho cả hai anh em mình.
- Anh nhắm
mắt đi cho tôi làm, tôi sẽ cẩn thận hết sức.
Anh ta quay
lưng, bỏ tôi lại một mình. Tôi đã thực hiện ngay ý định, rồi giấu thánh giá ấy
trong một cục xà phòng cho đến ngày tôi được tự do. Tôi thuê thợ bọc nó lại
bằng “mêtan”. Miếng gỗ ấy có bao giờ nghĩ rằng mình sẽ trở thành thánh giá của
Giám mục!
Gỗ thánh giá
ấy lấy từ núi Vĩnh Phú, nơi có Đền Hùng thờ các vua Hùng, tổ tiên chúng tôi đã
có công dựng nước. Đi đâu tôi cũng mang thánh giá ấy, mang trên mình Chúa Giêsu
và quê huong Việt Nam.
Trong một
nơi biệt giam khác ở Hà Nội, tôi đã xin một anh gác:
- Tôi muốn
xin anh giúp tôi một chuyện.
- Ông cần gì
tôi sẽ hết sức giúp đỡ.
- Anh kiếm
cho tôi một sợi dây điện đồng.
Anh ta trợn
mắt:
- Trời đất!
Trong trường công an chúng tôi đã học: tù nhân nào giữ một sợi dây điện là dấu
muốn tự tử.
- Không đâu,
linh mục đâu lại đi tự tử.
- Nhưng ông
dùng dây điện làm gì?
- Tôi muốn
làm một sợi dây để mang tượng thánh giá.
- Dây điện
mà làm dây mang tượng thánh giá sao được? Khó hiểu quá!
- Anh cứ cho
tôi mượn hai cái kiềm nhỏ, tôi sẽ làm cho anh xem.
- Nguy hiểm
lắm, ông ơi! Không khéo cả ông cả tôi mang lấy vạ.
- Nhưng
chúng mình là bạn mà!
- Tôi ngại
lắm. Nhưng để tôi suy nghĩ vài hôm rồi sẽ trả lời cho ông.
Sau ba hôm,
anh ta bảo:
-
Thực khó từ chối với ông. Tôi tính
thế này. Chiều nay tôi sẽ mang đến hai cái kiềm, từ 7 giờ đến 10 giờ đêm, phải
liệu cho xong. Tôi để anh bạn tôi đi chơi “Hanoi by Night”. Nhỡ ai thấy chúng
ta, nói đến tai cấp trên, chúng ta sẽ bị kỷ luật.
Chúng tôi đã
cắt sợi dây điện ra từng mảnh như que diêm. Chúng tôi bẻ cong hai đầu lại.
Trước 11 giờ đêm, chúng tôi đã làm xong. Tôi mừng quá! Thắng lợi.
Hằng ngày
tôi mang sợi dây này và thánh giá này trên mình, không phải để kỷ niệm ngục tù,
nhưng vì nhắc cho tôi xác tín cách sâu xa rằng: Không phải dùng khí giới, đe
dọa, áp lực mà có thể thay đổi được lòng người; chỉ có tình yêu Chúa Giêsu mới
thay đổi được.
Điều khó
nhất đối với chiến sĩ gác tù, là thái độ tha thứ yêu thương địch thù của mình.
Có hôm mấy anh gác hỏi tôi:
- Anh có
thương chúng tôi không?
- Có. Tôi
yêu thương các anh cách thành thực, không có gì là khách sáo cả.
- Kể cả khi
người ta giam ông, mất tự do, năm này sang năm khác? Không xét xử gì cả?
- Anh nghĩ
lại bao nhiêu năm ở với nhau. Tôi làm sao giấu được. Tôi thực sự yêu thương các
anh.
- Chừng nào
được tự do, anh có sai giáo dân của anh trả thù không?
- Không, tôi
vẫn tiếp tục yêu thương, dù các anh có muốn giết tôi.
- Nhưng tại
sao lại yêu kẻ thù hại anh?
- Vì Chúa
Giêsu đã dạy tôi yêu thương, nếu tôi không tuân giữ, tôi không đáng gọi là Kitô
hữu.
Thời gian eo
hẹp và hoàn cảnh chưa thuận tiện để thuật lại cho các bạn nhiều chuyện rất cảm
động, chứng tích cho sức mạnh giải phóng do Chúa Giêsu làm nên.
Trong Phúc
Âm, nhìn đoàn lũ theo Ngài đã ba ngày, Chúa Giêsu nói: “Tôi thương xót dân
này” (Mt 15:32); “Họ khác nào đoàn chiên không có mục tử” (Mc
6:34).. Trong những lúc bi đát nhất ở trong tù, tôi kiệt lực không còn sức mà
đọc kinh, nguyện ngắm, tôi tìm một cách để tóm tắt cốt tủy của lời cầu nguyện,
của sứ điệp Chúa Giêsu như thế này: “Tôi sống chúc thư Chúa Giêsu” Nghĩa là yêu
thương mọi người như Chúa Giêsu đã yêu thương tôi, trong tha thứ, trong nhân
từ, trong hiệp nhất, như Ngài đã cầu nguyện: “Xin Cha cho họ nên một, như
Cha ở trong Con, và Con ở trong Cha” (Ga 17:21). Tôi năng cầu nguyện: ”Tôi
sống chúc thư Chúa Giêsu” Tôi muốn làm như cậu bé đã dâng tất cả những gì mình
có. Năm chiếc bánh và hai con cá không đáng gì cả, nhưng là “tất cả” của nó, để
trở thành “khí cụ tình thương của Chúa Giêsu”.
Các bạn thân
mến, Đức Gioan Phaolô II nhắn nhủ các bạn:
Các bạn sẽ
gặp Chúa Giêsu ở đâu có người đau khổ và hy vọng: trong những xóm nhà bé nhỏ
rải rác khắp các lục địa, hầu như ở bên lề của lịch sử, như làng Nagiarét;
trong những đô thị mênh mông, nơi mà từng triệu người chen nhau sống, lắm lúc
như những người xa lạ,
Chúa Giêsu
sống bên cạnh các bạn… gặp khuôn mặt Ngài nơi bộ mặt của những người nghèo khổ
bị bỏ rơi, thường là những nạn nhân của một chính sách kinh tế bất công, đặt
lợi nhuận lên trên hết và làm cho con người thành phương tiện chứ không phải là
mục đích…
Gặp Chúa
Giêsu ở những người kêu cầu Ngài mà không hề biết Ngài.
Gặp Chúa
Giêsu ở giữa những người mang tên là Kitô hữu, cả nam lẫn nữ. Giờ phút này,
đứng trước ngưỡng cửa của năm hai nghìn, họ cần khẩn trương xóa tan gương xấu
chia rẽ giữa anh chị em Kitô hữu.
(Gioan
Phaolô II, sứ điệp NQTGT XII, số 5)
Các bạn hãy
cảnh giác: sự lầm lạc lớn nhất là không nhìn thấy ngưới khác là Chúa Kitô. Có
nhiều người chỉ khám phá ra điều đó trong ngày cuối cùng.
Chúa Giêsu
bị bỏ rơi trên Thánh giá, Ngài còn bị bỏ rơi trong mỗi anh chị em đang đau khổ
trong mỗi góc xó trên thế giới. Tình thương không có ranh giới; hễ có ranh giới
thì không còn là tình thương nữa.
Cầu nguyện Kinh Toàn Hiến
Lạy Cha toàn ái, toàn năng, là nguồn
hy vọng của đời con.
1. “Của Cha là
của con” (Lc 15:3). Hãy xin sẽ được” (Mt 7:7)
Lạy Cha, con
tin vững vàng
Cha thương
lo lắng muôn vàn lần hơn.
Các con dù
có yêu thương
Săn sóc chu
đáo đâu bằng chính Cha.
Ôi tình phụ
tử bao la!
Của Cha tất
cả đều là của con.
Cha khuyên
cầu nguyện thật lòng,
Nếu con tâm
sự, Cha con thâm tình.
2. “Tất cả là
ân sủng” “Cha các con biết các con cần gì” (Mt 6:8)
Lạy Cha, con
tin vững vàng,
Cha đã sắp
đặt đàng hoàng từ xưa.
Đời con Cha
mãi dẫn đưa,
Cha theo
từng bước, con vừa an tâm.
Lạy thờ
thiên ý thâm trầm,
Con xin phó
thác hoàn toàn tay Cha.
Mọi điều Cha
để xảy ra,
Con là con
cái, tin là hồng ân.
3. Chúa giúp
sức tôi làm được tất cả” (Pl 4:13) “Nên lời ngợi khen Chúa” (Ep 1:6)
Lạy Cha, con
tin vững vàng
Không gì
vượt Đấng toàn năng quan phòng.
Tình Cha
nhân ái vô cùng,
Con xin nhận
cả với lòng sướng vui.
Ngợi khen
cảm tạ muôn đời,
Hiệp cùng Mẹ
thánh hòa lời muôn dân.
Giuse cùng
các thánh thần
Hát vinh
danh Chúa không ngừng. Amen.
4. “Chỉ xin
vinh danh Cha” (1 Cr 10:3) “Xin vâng ý
Cha” (Mt 6:10)
Lạy Cha, con
tin vững vàng,
Xin Cha đừng
ngại, cứ làm nơi con.
Nơi người
yêu quý thiết thân,
Sự gì vinh
hiển Cha hơn, cứ làm.
Chỉ xin Cha
được vinh quang,
Là con thỏa
mãn, ngập tràn hạnh phúc.
Đó là nguyện
vọng lớn nhất,
Nhu cầu
tuyệt đối thao thức tâm hồn.
5. “Tất cả vì
sứ mạng! Tất cả vì Hội Thánh” (Phaolô II)
Lạy Cha, con
tin vững vàng,
Cha trao sứ
mạng ngập tràn yêu thương.
Cha đang
chuẩn bị dọn đường,
Con luôn
thanh luyện, con hằng quyết tâm.
Quyết nên hy
lễ âm thầm,
Quyết nên
khí cụ Cha cầm trong tay.
Hy sinh rướm
máu từng giây,
Vì yêu Hội
Thánh, “con đây sẵn sàng”.
6. “Thầy khát
khao ăn lễ Vượt Qua với các con” (Lc 22:15) “Đã hoàn tất” (Ga 19:30)
Lạy Cha yêu
quý vô ngần,
Hiệp cùng
thánh lể con hằng dâng lên.
Giờ đây quỳ
gối một mình,
Thưa Cha một
tiếng tận tình “Hy sinh”.
Hy sinh chấp
nhận nhục vinh,
Hy sinh vui
vẻ, hy sinh vẹn toàn.
Thủy chung
giao ước trọn đoàn,
Hát vang Hy
vọng muôn vàn mến thương.
Biệt
giam tại trại Phú Khánh, Nha Trang
1-9-1976
Lễ các
thánh Tử đạo Việt Nam.
6
Con cá thứ nhất:
Mẹ Maria, mối tình đầu của tôi
Tôi trao phó
cho Mẹ Maria… những hy vọng, những mong đợi của các bạn trẻ khắp hang cùng ngõ
hẻm của hành trình, đang lặp lại lời của Mẹ: “Này tôi là tớ nữ Thiên Chúa. Tôi
xin vâng như lời thiên thần truyền.” (Lc 1:38) … Các bạn hãy sẵn sàng loan báo cho
những người trẻ cùng lứa tuổi với mình, như các tông đồ đã làm: “Chúng tôi đã
gặp Đấng Thiên Sai!” (Ga 1:41)
(Gioan
Phaolô II, sứ điệp NQTGT XII, số 5)
“Mẹ Maria Vô
Nhiễm là mối tình đầu của tôi”, câu nói đó là của thánh Gioan Maria Vianney,
cha xứ Ars, tôi đã đọc trong sách của cha Francois Trochu hồi tôi còn ở tiểu
chủng viện.
Mẹ tôi đã đổ
vào tim tôi lòng kính mến Đức Mẹ, từ tuổi ấu thơ. Bà nội tôi, mỗi buổi tối, lúc
gia đình đọc kinh xong rồi, bà còn ngồi lần thêm một tràng hạt. Tôi hỏi bà, bà
đáp:
- Mệ lần một
chuỗi cầu nguyện cho các cha.
Bà tôi không
biết đọc, biết viết, nhưng chính những người bà, người mẹ như thế, đã vun trồng
hạt giống ơn thiên triệu trong lòng chúng tôi.
Đức Maria có
một vai trò đặc biệt trong đời tôi. Tôi đã bị bắt ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên
Trời, 15 tháng 8 năm 1975. Tôi ra đi với hai tay không, trong túi không có gì
cả, ngoại trừ một tràng hạt, và tôi đi bình an. Mẹ tôi đã dạy như vậy từ thuở
bé. Đêm ấy trên tuyến đường dài 450 km, tôi đã đọc không biết bao nhiêu lần kinh
“Hãy Nhớ”
Các bạn hỏi
tôi: Đức Mẹ đã giúp tôi vượt bao nhiêu thử thách trong đời tôi thế nào? Tôi sẽ
thuật lại cho các bạn một vài chuyện đang còn tươi rói trong ký ức tôi. Lúc còn
là một linh mục học ở Rôma, tháng 9 năm 1957, tôi đi Lộ Đức để cầu nguyện với
Đức Mẹ. Quỳ trước hang đá, nhìn lên tượng Mẹ, tôi nghe như Đức Mẹ nói với tôi
như đã nói với thánh nữ Bernadette:
Bernadette,
Mẹ không hứa cho con hân hoan và an ủi ở trần gian này, nhưng hứa đau khổ và
thử thách.
Tôi run sợ,
nhưng tôi chấp nhận và phó thác trong tay Mẹ. Tôi tiếp tục học hành thi cử, rồi
trở về Việt Nam, làm giáo sư, Giám đốc tiểu chủng viện Hoan Thiện, Tổng đại
diện, Giám mục Giáo phận Nha Trang năm 1967. Cám ơn Chúa, công việc mục vụ của
tôi nói được là thành công.
Tôi trở lại
Lộ Đức nhiều lần và nhiều lần tôi tự hỏi: “Có lẽ lời Đức Mẹ nói với thánh
Bernadette không phải Mẹ cũng nhắc lại với tôi?” Thánh giá bổn phận của tôi
không đến nỗi quá nặng, dù sao tôi sẵn sàng chấp nhận thánh ý Chúa.
Tiếp đến mùa
hè năm 1975, tôi bị bắt, bị cầm tù, ở trại cải tạo, bị biệt giam … hơn 13 năm
gian truân! Bấy giờ tôi mới hiểu Đức Mẹ đã muốn chuẩn bị cho tôi từ 1957: “Bernadette,
Mẹ không hứa cho con hân hoan và an ủi ở trần gian này, nhưng hứa đau khổ và
thử thách.” Mỗi ngày tôi càng hiểu thâm thúy hơn ý nghĩa của sứ điệp ấy, và
tôi phó mình trong tay Mẹ.
Lúc những
khổ đau thể xác và tinh thần trở nên quá nặng nề, tôi không đọc kinh nổi, tôi
chỉ lặp đi lặp lại “Ave Maria”, không biết bao nhiêu lần mỗi ngày. “Lạy
Mẹ, con quá yếu nhược, con không đọc kinh nổi nữa, con chỉ biết dâng lên Mẹ
muôn vàn ‘Ave Maria’, xin Mẹ ban phát ơn lành cho giáo dân của con, cho mọi
người, cho toàn thể Hội Thánh đang cần đến lòng thương xót của Mẹ. Tất cả với
Mẹ, vì Mẹ và trong Mẹ.”
Không những
tôi cầu xin Mẹ ban ơn, nhưng tôi năng thưa với Mẹ: “Lạy Mẹ, con có thể làm gì
giúp Mẹ được? Con sẵn sàng theo lệnh Mẹ, chịu đựng tất cả, làm tất cả vì Nước
Chúa Giêsu, con Mẹ.” Lúc ấy, tuy ở giữa gian lao, tôi cảm thấy hết lo sợ và
bình an.
Lúc nào cầu
nguyện với Mẹ Maria, tôi không thể quên thánh Giuse, bạn trinh khiết của Mẹ. Vì
đó là một nguyện ước của Chúa Giêsu và Mẹ. Thánh Giuse là người được Chúa Giêsu
và Mẹ yêu mến cách đặc biệt nhất. Mẹ tôi đã dạy cho tôi điều này.
Mẹ Maria Vô
Nhiễm không bỏ quên tôi. Mẹ đã sát cánh với tôi dọc đường gập ghềnh đen tối của
lao tù. Trong những năm tháng thử thách triền miên ấy, tôi đã cầu xin Mẹ cách
đơn sơ mà đầy tin tưởng cậy trông: “Lạy Mẹ. Nếu Mẹ biết con không thể làm gì
ích lợi gì để phục vụ Hội Thánh nữa, thì xin Mẹ cho con đặc ân được chết trong
tù để hy sinh trọn vẹn. Ngược lại, nếu Mẹ biết con còn phục vụ Hội Thánh được,
xin Mẹ cho con một dấu chỉ: ra khỏi tù trong một ngày lễ của Mẹ!”
Một hôm trời
mưa, tôi đang thổi cơm trưa, tôi nghe điện thoại của chiến sĩ trực reo. “Biết
đâu có tin gì cho tôi. Đúng rồi, hôm nay là lễ Đức Mẹ dâng mình váo đền thánh,
21 tháng 11 mà!”
Năm phút
sau, anh chiến sĩ trực đến.
- Ông Thuận
ơi, ông ăn chưa?
- Chưa ạ,
tôi đang thổi cơm đây.
- Ăn xong,
ăn mặc sạch sẽ, đi gặp lãnh đạo.
- Lãnh đạo
là vị nào vậy?
- Tôi không
biết, tôi chỉ được bảo thế. Chúc ông may mắn.
Tôi đã được
đưa đến nhà khách chính phủ, bên hồ Ha-le, và tôi đã gặp ông Mai Chí Thọ, Bộ
trưởng Nội vụ (Bộ Công an). Sau lời chào hỏi xã giao, ông Bộ trưởng đã hỏi:
- Ông có
nguyện vọng gì không?
- Thưa có,
tôi muốn được tự do.
- Bao giờ?
- Hôm nay.
Ông Bộ
trưởng có vẻ ngạc nhiên, thường tình phải có thời gian cho cơ quan nhà nước xếp
đặt… Nhưng hôm nay là lễ Đức Mẹ nên tôi tin chắc và xin như vậy. Để đánh tan
bầu khí lúng túng và ngạc nhiên ấy, tôi hỏi:
- Thưa ông
Bộ trưởng, tôi ở tù lâu lắm, suốt ba đời Giáo hoàng: Phaolô VI, Gioan Phaolô I
và Gioan Phaolô II. Về phía xã hội chủ nghĩa thì tôi đã ở tù bốn đời Tổng Bí
thư Liên Xô: Brezhnev, Andropov, Chernenko và Gorbachev.
Ông Bộ
trưởng bật cười và nói:
- Đúng!
Đúng!
Ông quay qua
bảo người bí thư:
- Hãy liệu
đáp ứng nguyện vọng của ông.
Trong lòng
tôi vui mừng tạ ơn Mẹ Maria, vì không những được tự do mà còn được cả dấu chỉ.
Chắc Mẹ tha tội tôi cả gan thách đố Mẹ.
Các bạn hỏi
tôi về vai trò của Mẹ Maria trong đời tôi, đặc biệt là sự chọn lựa triệt để
theo Chúa Giêsu?
Tôi cảm
nghiệm rằng, trên thánh giá, Chúa Giêsu đã bảo thánh Gioan: “Đây là Mẹ con!”
(Ga 19:29). Sau phép Thánh Thể thì Chúa Giêsu không thể để lại cho loài người
sự gì cao quý hơn chính Mẹ của Ngài.
Đức Mẹ đối
với tôi là một cuốn Phúc Âm sống, loại bỏ túi, phổ biến rộng rãi nhất, dễ hiểu
nhất, dễ thương nhất.
Đức Mẹ là Mẹ
của Chúa Giêsu, chính Ngài trối lại Mẹ cho tôi. Chính điều này cho tôi thấy sự
hiệp nhất giữa Mẹ Maria, Chúa Giêsu và tôi. Mỗi khi dâng thánh lễ, đọc lời
truyền phép, tôi cảm thấy tôi là con Đức Mẹ hơn cả, vì tôi hiệp nhất với Chúa
Giêsu.
Đức Mẹ không
những lo lắng cho Chúa Giêsu mà còn lưu tâm giúp đỡ bà Isave, thánh Gioan, đôi
tân hôn ở làng Cana… mọi người, toàn thể Hội Thánh.
Tôi rất
thích câu nói của thánh nữ Têrêxa Hài Đồng: “Tôi muốn làm linh mục để giảng về
Đức Mẹ.” Cuộc đời Mẹ Maria có thể tóm gọn trong ba tiếng: “Ecce, Fiat,
Magnificat.”
“Này tôi là
tôi tớ của Thiên Chúa” (Lc 1:38)
“Tôi xin
vâng như lời thiên thần truyền” (Lc 1:38)
“Linh hồn
tôi ngợi khen Chúa” (Lc 1:46)
Cầu nguyện Maria, Mẹ chúng con.
Lạy Mẹ
Maria, Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ chúng con, con muốn gọi Mẹ là Mẹ chúng con để cảm thấy
mình hiệp nhất với Chúa Giêsu và mọi người anh em của con.
Xin Mẹ hãy đến
và sống trong con, cùng Chúa Giêsu, con rất yêu dấu của Mẹ.
Trong sự
thinh lặng, tỉnh thức, cầu nguyện.
Trong sự
hiệp thông với Hội Thánh và Chúa Ba Ngôi.
Trong kinh
Magnificat, sứ điệp mới toàn diện của Mẹ.
Trong sự kết
hiệp với thánh Giuse, bạn chí thánh của Mẹ.
Trong lao
động đầy khiêm tốn, yêu thương, để thực hiện di chúc của Chúa Giêsu.
Trong tình
yêu của Mẹ đối với Chúa Giêsu, thánh Giuse, Hội Thánh và tất cả nhân loại.
Trong đức
tin sắt đá của Mẹ, giữa muôn vàn thử thách vì nước trời.
Trong niềm hy
vọng của Mẹ, luôn hành động để xây dựng một thế giới mới, đầy công lý, hòa
bình, hạnh phúc và yêu thương thực sự.
Trong sự vẹn
toàn các nhân đức của Mẹ trong Chúa Thánh Thần, để nên nhân chứng của Phúc Âm,
nên tông đồ truyền giáo.
Trong con,
xin Mẹ tiếp tục làm việc, cầu nguyện, yêu thương, hy sinh.
Xin Mẹ tiếp
tục thi hành thánh ý Chúa Cha, tiếp tục làm Mẹ loài người.
Xin Mẹ tiếp
tục sống sự Thương khó và Phục sinh của Chúa Giêsu.
Con xin dâng
mình cho Mẹ,
Tất cả cho
Mẹ,
Hôm nay và
mãi mãi đến muôn đời.
Con sống
tinh thần của Chúa Giêsu, khi sống tinh thần Maria và Giuse.
Với Chúa
Giêsu, thánh Giuse, các thiên thần, các thánh và tất cả các linh hồn.
Con yêu mến
Mẹ, Mẹ chúng con, và con xin chia sẻ,
Công việc
của Mẹ,
Nỗi thao
thức của Mẹ,
Cuộc chiến
đấu của Mẹ vì nước Chúa Giêsu. Amen.
Biệt
giam tại Hà Nội
1-1-1986
Lể
Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa
7
Con cá thứ hai:
Tôi chọn Chúa
Các bạn trẻ
hôm nay,
Các bạn được
mời gọi để đón nhận một sứ điệp, và lớn tiếng loan báo sứ điệp ấy cho bạn bè
cùng lứa tuổi.
Loài người
được Thiên Chúa yêu thương!
Thiên Chúa
yêu thương con người vô hạn!
Đó là sứ
điệp đơn giản nhất
Mà Hội Thánh
có nhiệm vụ chuyển đến cho nhân loại.”
(Tông huấn “Người tín hữu giáo dân”, số
34, trích lại trong sứ điệp NQTGT XII, số 5)
Các bạn trẻ
thân mến,
Tôi đã chia
sẻ với các bạn kinh nghiệm sống của đời tôi trên bước đường theo Chúa Giêsu, để
gặp Ngài, sống bên cạnh Ngài, để rồi ra đi, mang sứ diệp Ngài cho mọi người.
Các bạn hỏi
tôi: “Làm sao thức hiện được sự kết hiệp với Chúa Giêsu cách toàn vẹn trong một
cuộc sống lắm biến động trong cũng như ngoài?” Tôi đã không giấu giếm các bạn,
tôi đã viết ra trong sách “Đường Hy Vọng”.
Trong đời
tôi, giai đoạn gian lao nhất là thời gian hơn 13 năm tù. Với cuốn sách “Năm
Chiếc Bánh và Hai Con Cá” này, tôi đã chia sẻ với các bạn, làm sao Chúa đã giúp
tôi vượt qua mọi khó khăn và sống đến ngày nay. “Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá”
là lương thực nuôi đời sống thiêng liêng của tôi. Nhiều bạn muốn tôi nói rõ
ràng chi tiết của bí quyết theo Chúa Giêsu đến cùng cách vững vàng. Tôi xin các
bạn hãy nhìn lên 24 ngôi sao đang chiếu sáng con dường hy vọng của các bạn.
Dưới đây, bạn lưu ý sẽ thấy đánh số từ số 1 đến số 24. Tôi muốn cho 24 số đối
lại với 24 giờ trong ngày. Rất thực tế, nếu chúng ta sống 24 giờ trên 24 hoàn
toàn theo Chúa Giêsu, chúng ta sẽ làm thánh.
Trong 24 số
ấy, tôi nhắc đến tiếng “một” 24 lần. Ví dụ, một cuộc cách mạng, một chiến dịch,
một đường lối tông đồ, một khẩu hiệu, v. v. một là cao quý nhất.
Đó là 24
ngôi sao, tôi không cần phải giải thích, tôi mời các bạn bình tĩnh suy niệm các
tư tưởng ấy, như chính Chúa Giêsu dịu dàng nói với bạn, thân mật lòng bên lòng.
Bạn đừng sợ nghe Ngài, nói với Ngài. Bạn đừng ngần ngại, mỗi tuần bạn hãy đọc
lại một lần. Bạn sẽ thấy ơn thánh tỏa sáng ra và biến đổi cả đời bạn.
Thời gian ở
biệt giam, mỗi năm mấy lần tôi nhận thư mẹ hoặc em tôi. Nhưng đặc biệt một hôm
tôi được thư của bà Chiara Lubich, người sáng lập Phong trào Focolare (Bác ái
Hiệp nhất). Lạ lùng thật, tôi hay nhớ một câu bà nói: “Tôi không nghĩ việc
lôi kéo ai theo tôi: tôi chỉ biết hết lòng theo Chúa Giêsu, rồi người khác sẽ
theo tôi.”
Hai mươi bốn ngôi sao
1
Con muốn thực hiện một cuộc cách
mạng: “Canh tân thế giới”. Hoài bão
lớn lao đó, sứ mệnh cao đẹp đó, Chúa trao cho con; con thi hành với “quyền lực
Chúa Thánh Thần”. Mỗi ngày con chuẩn bị lễ Chúa Thánh Thần mới quanh con.
2
Con xúc tiến một chiến dịch: “Làm
cho mọi người hạnh phúc”. Con hy sinh mình từng giây từng
phút với Chúa Giêsu, để đem an bình trong tâm hồn, phát triển thịnh vượng cho
các dân tộc. Đường lối tu đức thầm kín và thiết thực!
3
Con nắm vững một đường lối tông đồ:
“Thí mạng vì anh em”, vì không có tình yêu nào lớn lao
hơn (x Ga 15:13). Con hao mòn từng giây phút và sẵn sàng tiêu hao để chinh phục
anh em về với Chúa.
4
Con hô một khẩu hiệu: “Tất cả
hiệp nhất”, hiệp nhất giữa các người công giáo, hiệp nhất giữa
các Kitô hữu, hiệp nhất giữa các dân tộc. Như Chúa Cha và Chúa Con là một (x.
Ga.17:22-23)
5
Con tin một sức mạnh: “Thánh
Thể”. Thịt Máu Chúa sẽ làm cho con sống. “Ta đã đến là
để cho chúng được có sự sống và một cách dồi dào” (Ga 10:10). Như manna
nuôi dân Do Thái đi đường về Đất Hứa, Thánh Thể sẽ nuôi con đi cùng đường Hy
vọng (x Ga 6:53).
6
Con mang một đồng phục, nói một ngôn
ngữ: “Bác ái”. Bác ái là chứng tích để biết con là
môn đệ Chúa (x. Ga 13:35), là dấu hiệu rẻ mà khó kiếm nhất. Bác ái là sinh ngữ
số một mà thánh Phaolô cho là cao trọng hơn tiếng nói của loài người và các
thiên thần, là ngôn ngữ độc nhất sẽ tồn tại trên thiên đàng (x. 1 Cr 13:1)
7
Con nắm một bí quyết: “Cầu
nguyện”. Không ai mạnh bằng người cầu nguyện, vì Chúa đã hứa
ban tất cả. Khi các con hiệp nhau cầu nguyện có Chúa ở giữa các con (x. Mt
18:20). Cha tha thiết khuyên con ngoài giờ kinh, hãy cầu nguyện mỗi ngày tối
thiểu một giờ, nếu được hai giờ càng tốt. Không phải là mất mát vô ích đâu!
Trên quãng đường cha đi, cha đã thấy lời thánh Têrêxa Avila ứng nghiệm: “Ai
không cầu nguyện, không cần ma quỉ lôi kéo, sẽ tự mình sa xuống hỏa ngục.”
8
Con giữ một nội quy: “Phúc Âm”. Đó là hiến
pháp trên tất cả mọi hiến pháp, là hiến pháp Chúa Giêsu đã để lại cho các Tông
đồ (x. Mt 4:23). Hiến pháp ấy không khó khăn, phức tạp, gò bó như các hiến pháp
khác; ngược lại linh động, nhân hậu, làm phấn khởi tâm hồn con. Một vị thánh
ngoài Phúc Âm là “thánh giả”.
9
Con trung thành theo một vị lãnh đạo
là “Chúa Kitô và đại diện của Ngài”: Đức Giáo
hoàng, các Giám mục kế vị các Tông đồ (x. Ga 20:22-23) Hãy sống và chết vì Hội
Thánh như Chúa Kitô. Đừng nghĩ chết vì Hội Thánh mới hy sinh. Sống vì Hội Thánh
cũng đòi hỏi nhiều hy sinh.
10
Con có một tình yêu: “Mẹ Maria”. Thánh Gioan
Maria Vianney đã nói: “Mối tình đầu của tôi là Mẹ Maria.” Nghe Mẹ sẽ không lầm
lạc, hoạt động vì Mẹ sẽ không thất bại, làm vinh danh Mẹ sẽ được sống đời đời.
11
Con có một sự khôn ngoan: “Khoa
học thánh giá” (x. 1 Cr 2:2). Nhìn Chúa Giêsu trên
thánh giá, con giải quyết ngay được vấn đề đang khiến con xao xuyến. Thánh giá
là tiêu chuẩn để chọn lựa và quyết định, tâm hồn con sẽ bình an.
12
Con có một lý tưởng: “Hướng về
Chúa Cha”, một người cha đầy tình thương. Cả cuộc đời Chúa Giêsu, mọi tư tưởng, hành
động đều nhắm một hướng: “…Để cho thế gian biết là Ta yêu mến Cha, và như
Cha truyền dạy Ta sao, Ta làm như vậy.” (Ga 14:31) “Ta hằng làm những sự
đẹp lòng Người” (Ga 8:29)
13
Con chỉ có một mối lo sợ: “Tội
lỗi”. Triều đình hoàng đế Hy Lạp đã nhóm họp để trả thù
thánh Gioan Kim Khẩu, bởi ngài đã thẳng thắn khiển trách bà hoàng hậu.
Kế hoạch I: Bỏ tù.
Nhưng ông ấy sẽ được dịp cầu nguyện, chịu k hó vì Chúa
như ông hằng mong muốn.
Kế hoạch II: Lưu đày.
Nhưng đối với ông ấy, đâu cũng là đất Chúa.
Kế hoạch III: Tử hình.
Ông sẽ được tử đạo, chúng ta sẽ thỏa mãn nguyện vọng
của ông: được về với Chúa.
Kế hoạch IV: Chỉ có một
điều ông khiếp sợ nhất, gớm ghiếc nhất là tội lỗi, nhưng bắt ông phạm không
được!
Nếu con chỉ
sợ tội, thì không ai mạnh hơn con.
14
Con ôm ấp một ước nguyện: “Nước
Cha trị đến, ý Cha thành sự, dưới đất cũng như trên trời.” (Mt 6:10).
Dưới đất lương dân biết Chúa như trên trời. Dưới đất đã bắt đầu hạnh phúc như
trên trời. Con sẽ nỗ lực thực hiện nguyện vọng ấy. Khởi sự đem hạnh phúc thiên
đàng cho mọi người ngay từ trần thế.
15
Con chỉ thiếu một điều: “Có gì
đem bán mà cho kẻ khó, và ngươi
sẽ có một kho tàng trên trời, đoạn hãy đến theo Ta!” (Mc 10:21), nghĩa là
con phải dứt khoát. Chúa cần hạng tình nguyện thoát ly!
16
Con dùng một phương pháp tông đồ hữu
hiệu: “Tiếp xúc” để hòa mình, nhập thể với mọi người
để hiểu, để nghe, để yêu mọi người. Tiếp xúc hữu hiệu hơn giảng, hơn viết sách.
Tiếp xúc giữa người với người, lòng bên lòng, bí quyết bền đỗ, bí quyết thành
công.
17
Con chỉ có một việc quan trọng nhất,
Maria đã chọn phần tốt nhất: “Ngồi bên Chúa” (x.
Lc 10:41-42). Nếu con không sống nội tâm, nếu Chúa Giêsu không phải là linh hồn
các hoạt động của con thì… Con thấy nhiều, hiểu nhiều rồi, cha miễn nói.
18
Con chỉ có một của ăn: “Thánh ý
Chúa Cha” (x. Ga 4:343), nghĩa là con sống, con lớn lên bằng ý
Chúa, con hành động do ý Chúa. Ý Chúa như thức ăn làm con sống mạnh, vui; ngoài
ý Chúa, con chết.
19
Con chỉ có một giây phút đẹp nhất: “Giây
phút hiện tại” (x. Mt 6:34; Gc 4:13-15). Sống
trong tình yêu Chúa cách trọn vẹn, đời con sẽ tuyệt đẹp nếu kết tinh bằng triệu
giây phút đẹp nhất. Con thấy đơn sơ, không phải khó!
20
Con chỉ có một tuyên ngôn: “Phúc
thật tám mối”. Trên núi,
Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Bát phúc” (x. Mt 5:3-12). Hãy sống như vậy, con sẽ nếm
được hạnh phúc, rồi rao truyền cho mọi người con gặp.
21
Con chỉ có một công việc quan trọng:
“Bổn phận”, không kể lớn hay nhỏ, vì lúc ấy “con làm việc của Cha
con” trên trời. Ngài chỉ định cho con thực hiện chương trình của Ngài trong
lịch sử (x. Lc 2:49; Ga 17:4). Làm bổn phận là đường lối chắc chắn nhất. Nhiều
người bày vẽ một lối tu đức rắc rối, rồi phàn nàn là khó!
22
Con chỉ có một cách nên thánh: “Ơn
Chúa và ý chí con” (x. 1 Cr 15:10). Chúa không bao giờ
thiếu ơn, con có đủ ý chí không?
23
Con chỉ có một phần thưởng: “Thiên
Chúa” (x. Mt 25:21, 23; 2 Tm 4:7-8; Kh 2:26-28, 3:21-22).
Khi Chúa hỏi Tôma Aquinô: “Con viết rất đúng về Ta, con muốn phần thưởng nào.”
– “Con chỉ muốn Chúa!”
24
Con có một tổ quốc
Tiếng chuông
ngân trầm,
Việt nam
nguyện cầu.
Tiếng chuông
não nùng,
Việt Nam
buồn thảm.
Tiếng chuông
vang lừng,
Việt Nam
khải hoàn,
Tiếng chuông
thánh thót
Việt Nam hy
vọng.
Con có một
tổ quốc: Việt Nam,
Quê hương
yêu quý ngàn đời.
Con hãnh
diện, con vui sướng,
Con yêu non
sông gấm vóc,
Con yêu lịch
sử vẻ vang,
Con yêu đồng
bào cần mẫn,
Con yêu
chiến sĩ hào hùng,
Sông cuồn
cuộn, máu chảy cuộn hơn.
Đất tuy hẹp,
nhưng chí lớn.
Đất tuy nhỏ,
nhưng danh vang.
Con phục vụ
hết tâm hồn,
Con trung
thành hết nhiệt huyết.
Con bảo vệ
bằng xương máu,
Con xây dựng
bằng tim óc.
Vui niềm vui
đồng bào,
Buồn nỗi
buồn của dân tộc.
Một nước
Việt Nam,
Một dân tộc
Việt Nam,
Một tâm hồn
Việt Nam,
Một văn hóa
Việt Nam,
Một truyền
thống Việt Nam
Là người
công giáo Việt Nam,
Con phải yêu
tổ quốc gấp bội.
Chúa dạy
con, Hội Thánh bảo con,
Cha mong
dòng máu ái quốc,
Sôi trào
trong huyết quản con.
Viết
xong tại Cây Vông, Phú Khánh
nơi
quản thúc, ngày 8-12-1975
Lễ
Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội
Kết luận
Để kết luận,
chúng ta sẽ cầu nguyện với kinh “Con chọn Chúa”
Cuộc đời
Chúa Giêsu tóm tắt: Tử nạn và Phục sinh.
Bạn hãy lưu
ý 14 bước của Chúa Giêsu trong kinh này:
Bước lang
thang, bước hồi hộp, bước bồn chồn,
Bước phấn
khởi, bước vất vả, bước yêu thương,
Bước thao
thức, bước xót xa, bước cô đơn,
Bước ê chề,
bước thất bại, bước khải hoàn,
Bước khổng
lồ, bước liều mạng.
Cầu nguyện (14 bước theo Chúa Giêsu): Con chọn
Chúa
Lạy Chúa Giêsu,
Trên đường hy vọng suốt 2000 năm
nay,
Tình thương Chúa như một lượn sóng
Đã lôi cuốn bao người lữ hành.
Họ đã yêu Chúa như một mối tình sống
động,
Thể hiện qua tư tưởng, lời nói, việc
làm,
Với một tâm hồn mạnh mẽ hơn mọi cám
dỗ,
Mạnh hơn cả đau khổ, hơn cả sự chết,
Họ dã là lời Chúa ở trần gian,
Đời họ là một cuộc cách mạng,
Bước yêu thương ba năm rao giảng Tin
Mừng,
Bước thao thức kiếm tìm chiên lạc,
Bước xót xa vào Giêrusalem đầm đìa
nước mắt,
Bước cô đơn ra trước tòa không một
người thân,
Bước ê chề vác thập giá lên đồi tử
nạn,
Bước thất bại chết chôn mồ kẻ khác,
Không tiền, không bạc,
Không manh áo, không bạn hữu,
Chúa Cha xem chừng cũng bỏ rơi Chúa,
Nhưng Chúa phó thác tất cả vào tay
Cha.
Lạy Chúa, quỳ trước Nhà Chầu,
Một mình con với Chúa, con hiểu rồi:
Con không thể chọn con đường khác,
Đường khác sung sướng hơn,
Bên ngoài vinh quang hơn,
Nhưng không có Chúa, người Bạn muôn
năm,
Người Bạn duy nhất của con trên đời.
Nơi Chúa là tất cả thiên đàng với
Chúa Ba Ngôi,
Tất cả trần gian với toàn nhân loại,
Khổ đau của Chúa là của con,
Của con, nỗi khốn khổ của những tâm
hồn sát cạnh.
Của con, tất cả sầu muộn, thất vọng,
chia ly, bỏ rơi, khốn nạn…
Những gì là chính Chúa, vì Chúa đã
gánh hết;
Những gì nơi người anh em, vì có
Chúa trong họ.
Con tin vững vàng,
Vì Chúa đã cất bước khải hoàn sống
lại:
“Hãy vững lòng, Thầy đã thắng thế
gian.”
Vì Chúa dạy con:
Hãy bước những bước khổng lồ:
“Đi khắp thế gian rao giảng Tin
Mừng.’
Con lau sạch nước mắt ưu phiền
Và những con tim chán nản;
Con sẽ đưa về sum họp
Những tâm hồn xa cách;
Con sẽ đốt cháy trần gian bằng lửa
tình yêu,
Thiêu sạch những gì cần phải hủy bỏ,
Để chỉ còn lại chân lý, công bình và
yêu thương.
Nhưng lạy Chúa! Con biết con yếu
đuối lắm!
Xin giúp con bỏ tính ích kỷ, yêu an
nhàn,
Cho con đừng sợ kham khổ dày vò,
Không xứng tông đồ của Chúa;
Cho con sẵn sàng mạo hiểm,
Mặc cho thiên hạ khôn ngoan;
Con xin làm “đứa con điên”
Của Chúa, Mẹ Maria và thánh cả
Giuse;
Con muốn lăn xả vào thử thách,
Chấp nhận mọi hậu quả,
Vì Chúa đã dạy con liều mạng.
Nếu Chúa dạy con bước lên thánh giá,
nằm mãi đó,
Vào trong Nhà Chầu thinh lặng cho
đến ngày tận thế,
Con cũng xin liều mạng bước theo.
Con sẽ mất tất cả,
Nhưng Chúa vẫn còn!
Tình thương Chúa vẫn còn!
Tràn ngập quả tim con,
Để yêu thương tất cả.
Và chừng ấy đủ hạnh phúc cho con.
Vì thế con xin lặp lại:
“Con chọn Chúa!
Con chỉ muốn Chúa!
Con chỉ muốn vinh danh Chúa!”
Cuồng
tử
tại
nơi quản thúc: Giang Xá, Bắc Việt
ngày
19-3-1980, lễ thành Giuse
0 nhận xét :
Đăng nhận xét