News
Loading...

CUỘC SỐNG TRÒN ĐẦY

CUỘC SỐNG TRÒN ĐẦY
Phạm Quốc Văn, O.P.

Học viện Đa Minh

LỜI NÓI ĐẦU
Thư quý bạn đọc,
Khởi đi từ nỗi khát vọng sâu xa nhất của lòng người, khát vọng hạnh phúc, mỗi chúng ta đều được mời gọi tìm kiếm hạnh phúc cho mình và cho tha nhân. Hạnh phúc không hái ở vườn người, nhưng ẩn sâu trong từng khoảnh khắc thành nhân của bạn. Làm sao chúng ta có thể khám phá ra hạnh phúc ấy, nếu mỗi phút giây đời mình cứ lặng lẽ trôi qua vô vị, và chẳng thấy cuộc đời có mục đích gì để khát vọng vươn lên?
“Cuộc sống tròn đầy” là những dòng suy tư, nỗi khát vọng mong vươn tới những điều - chân - thiện - mỹ trong cuộc sống. Người viết muốn được chia sẻ những thao thức này, đặc biệt đối với các bạn trẻ, những người đang mang trong mình bầu huyết dấn thân, khát mong hạnh phúc và muốn tìm ra ý nghĩa đích thực cho cuộc đời mình.
Mỗi người đều một lần sinh ra, một lần chết đi; nhưng khoảng cách giữa hai bờ sinh - tử này, có khi là thời gian đó được sống trọn vẹn, tròn đầy ý nghĩa. Có người thưởng thức từng phút giây cuộc sống, có kẻ kéo lê cả cuộc đời.
Giữa dòng cuộc sống, mỗi người phải tự chèo chống con thuyền đời mình, có kẻ gác chèo khi gặp dòng nước ngược, có kẻ buông xuôi cho thuyền dạt theo dòng, có kẻ “mất thuyền” giữa phong ba ngàn lối, có kẻ về bến bờ dẫu bão táp cuồng phong.
Như thế, khi mang thân phận con người, là chúng ta chấp nhận cuộc đăng trình khám phá và chinh phục. Giữa muôn nẻo đường diệu vời, đầu mối là lối đi về của chính bản thân tôi? Tôi được sinh ra giữa cuộc đời, sao vẫn chơi vơi hoài đi tìm lẽ sống? Ai cũng có một thời để sống, tôi phải sống thế nào cho trọn vẹn kiếp nhân sinh? Bao những lao công vất vả trên cuộc hành trình, làm sao tôi tìm ra ý nghĩa của giọt mồ hôi hòa cùng nước mắt? Và có phải chăng tiền bạc là hạnh phúc, sao túi đong đầy mà lòng vẫn trống vắng bình an? Và đây, bao nỗi đau đề bẹp cả vũ hoàn, phải chăng kiếp nhân sinh hoàn toàn vô nghĩa? Người ta bảo: “trong nỗi đau có đượm vị ngọt”, có chắc? Sao nước mắt vẫn chảy dài, sầu mặc triền miên!
Gian trần chẳng phải cõi tiên, mỗi con người đều mang giới tính. Để được là mình, tôi phải hiểu thế nào là sự diệu kỳ của nguồn năng lực tác tạo bên trong. Cuộc sống đáng ước mong là cuộc sống đong đầy Tình yêu và hạnh phúc. Làm sao giữa trần gian phàm tục, tôi hiểu được thế nào là huyền nhiệm Tình yêu? Tất cả cánh cánh một điều, sống làm sao cho cuộc đời tròn đầy ý nghĩa.
Đó là một cuộc đời được sống, được đón nhận như một ân ban. Từng phút giây hiện tại được quý trọng muôn vàn, như những nốt nhạc được hòa âm hay dệt nên giai điệu cuộc sống. Trong bản trường ca cuộc đời, có nốt bổng nốt trầm, có lúc dập dồn và có khoảng lặng trầm tư.
Tất cả chúng ta đang được mời gọi để khám phá, sống, cảm nghiệm, và dệt nên chính cuộc đời mình, dẫu đang bước đi dưới ánh bình mình hay lầm lũi một mình trong đêm tối. Bạn và tôi, mỗi chúng ta phải tìm ra cho đời mình một lối, dẫu là lối mòn hay quan lộ thẳng băng; miễn sao xác tín được rằng lối mòn kia dẫn mình tới đích.
Đôi dòng suy tư mộc mạc, cuộc sống cũng chưa tròn nhưng muốn cùng với các bạn vươn lên. Xin chân thành tri ân những ai đã cộng tác để hoàn thành tập sách nhỏ này. Ước mong được đón nhận sự yêu thương, góp ý, và kinh nghiệm của mọi người để chúng ta được sống, sống tròn đầy hơn nữa.

NHỮNG NẺO ĐƯỜNG DIỆU VỢI: TÌM MỘT LỐI ĐI

Nếu con ếch ra khỏi đáy giếng, nõ sẽ chẳng bao giờ còn coi trời như một nắp vung; nếu chúng ta ra khỏi sự đóng khung tù túng của kiến thức, của kinh nghiệm, của lập trường, của định kiến…, chúng ta sẽ thấy cuộc đời này rất khác. Mỗi chúng ta chỉ như hạt cát giữa sa mạc bao la, như hạt mưa giữa lòng biển cả. Cuộc đời muôn ngàn lối, quá mênh mong. Chúng ta nhiều khi như bị choáng ngợp, lạc lối giữa dòng cuộc sống.
Để là mình, để thăng tiến, để thấy cuộc sống tràn đầy ý nghĩa, chúng ta phải lao vào khám phá, hòa nhập, và tìm ra những chân trời mới.

NHỮNG CHÂN TRỜI MỚI
Những chân trời mới này sẽ mở ra một cuộc sống tròn đầy, cuộc sống chúng ta đang khát vọng hướng tới. Đời sống thật thú vị nếu chúng ta biết cách quan tâm, làm cho nó có giá trị và gởi vào đó tất cả hiện diện của mình.

Cánh cửa cuộc đời
Giờ đây, bạn đang khởi đầu một hành trình mới của cuộc sống: có thể bạn vừa tốt nghiệp phổ thông trung học, đang mệt nhoài với những kỳ thi tuyển đại học; hoặc bạn đã ra trường, đang tất bật nộp đơn tìm việc; hoặc cũng có thể bạn đang lưỡng lự chọn cho mình một hướng đi… Cuộc sống đầy hứa hẹn, nhưng cũng đầy bất trắc phía trước. Đây chính là thời gian để bạn thử sức và trưởng thành.
Bạn đang đứng trước cánh cửa cuộc đời, bạn có thể bước từ môi trường này sang môi trường khác, từ môi trường hạn hẹp sang một thế giới rộng lớn hơn. Lúc này, có lẽ hơn một lần bạn đã biết thế nào là khủng hoảng; chúng ta không tránh né vấn đề, nhưng hãy đối diện với điều chúng ta đang quan tâm. Người Trung Hoa quan niệm khủng hoảng như một “hỗn hợp” gồm hai đặc tính: vừa nguy hiểm mà vừa là cơ may. Có thể ví như bạn đang tham gia một trò chơi nguy hiểm với đầy thử thách, chướng ngại, nhưng đầy hứng thú và hứa hen cho bạn một phần thưởng xứng đáng, vinh quang rực rỡ nếu bạn là kẻ chiến thắng.
Dù sao căng thẳng, sức ép và nguy hiểm nhưng giai đoạn này vô cùng ý nghĩa, nó giúp ta phản tỉnh và can đảm nhìn thẳng vào những vấn đề của cuộc sống, nhờ vậy chúng ta có thể tự khám phá và phát triển những năng lực của mình. Một khi thấy được khả năng của mình, bạn có thể tự tin hơn và can đảm lãnh nhận trách nhiệm của cuộc sống. Cuộc sống đang mỉm cười chào đón bạn. Đâu đó bạn nghe một tiêng thì thầm: can đảm lên, cuộc đời không có chỗ dành cho ai sợ hãi và bỏ cuộc!

Lời mời gọi sống tròn đầy
Bạn vừa vượt qua cơn khủng hoảng ư? Xin chúc mừng bạn! Bạn xứng đáng nhìn bình minh ló dạng và rạng rỡ bước vào chặng đường mới. Như lớp võ trấu của hạt lúa nứt ra, ô kìa, một mầm mạ xanh tuyệt vời nhú mọc. Nhưng bạn ơi, bạn không phải chỉ như hạt lúa đâu, bạn cao quý hơn nhiều, bạn còn có khả năng ý thức và làm chủ từng bước chân trên đường thành toàn của bạn. Điều bạn có, hạt lúa vô tri kia không hề có được đâu nhé. Bạn bảo: “Ôi đời còn dài, những 80 năm kia mà!”. Bạn ơi, trọn cuộc đời bạn là phút giây hiện tại này đây!

Mỗi khoảnh khắc hiện tại là một quà tặng
“Chỉ có một cuộc đời là phút giây này chúng ta đang sống”. Bác sĩ Jon Kabat - Zinn, người làm việc với những bệnh nhân thương tổn về tinh thần, đã nói với các bệnh nâhn của ông những lời chiêm niệm đó. Ông đã giới thiệu với chúng ta một quy luật, một chìa khóa để bước vào cuộc sống tròn đầy: Đời bạn là gì khác hơn nếu không phải là tổng hợp tất cả những phút giây hiện tại này lại; nếu lỡ bỏ phí phút giây nào, có nguy cơ một phần cuộc đời bạn bị đánh mất.
Cuộc sống tròn đầy chính là chúng ta thu tích từng phút giây hiện tại. Nếu chỉ nhìn về tương lai để sống, có lẽ chúng ta chỉ nghe vẳng bên tai những điệp khúc chế nhạo: “Hãy đợi đầy!”. Cuộc sống sẽ tươi đẹp và ý nghĩa khi chúng ta biết sống trọn vẹn với từng biến cố. Dòng chảy cuộc đời không hề dừng lại đợi chúng ta. Bạn không thể nói: Hãy đợi đến khi nào có việc làm ổn định, tôi sẽ thực sự  sống cuộc đời của mình; hãy đợi khi tôi thế này, thế kia… lúc đó tôi sẽ sống trọn vẹn. Không đâu! Có phút giây nào mà bạn không sống; nhưng khỏ nỗi người ta lại không biết phải sống thế nào cho đẹp, cho trọn, cho ra sống. Bạn ạ, hãy đón nhận từng phút giây hiện tại của cuộc đời bạn như một quà tặng, bạn sẽ hiểu thế nào là sống đích thực.

Cuộc mạo hiểm phiêu lưu
 Sống cuộc sống tròn đầy cũng có ý nghĩa là chúng ta phải tự chèo chống con thuyền đời mình. Biển đời nhiều sóng gió, càng đòi hỏi chúng ta giàu nghị lực. Không ai khác có thể làm thế công việc của chúng ta, không ai sống thay cho chúng ta, hạnh phúc không ở vườn người, nhưng ẩn sâu ngay trong trái tim của bạn.
Để sống tròn đầy, bạn phải thám hiểm ngay chính cuộc sống của bạn: quan sát, lắng nghe, hành động và chấp nhận cả những rủi ro xảy đến. Cuộc mạo hiểm này không nhất thiết đòi hỏi chúng ta phải liên tục đương đầu với những công việc nguy hiểm hoặc ra vẻ “hình sự” với chính mình. Dấn thân sống tròn đầy là chúng ta làm một cuộc mạo hiểm vĩ đại xuyên qua từng khoảnh khắc của tiến trình thành nhân, từng khoảnh khắc của cuộc sống đời thường. Chúng ta đang mời gọi sống phi thường với từng phút giây bình thường trong cuộc sống.

Đức Giêsu, mẫu gương của cuộc sống tròn đầy
Đối với người Kitô hữu, Đức Giêsu là mẫu gương của cuộc sống tròn đầy, và Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy theo Người trên nẻo đường Người đã đi. Đó là nẻo đường yêu thương và phục vụ.
Thiên Chúa gởi Con của mình xuống để tỏ bày cho con người biết họ được Thiên Chúa yêu thương; và Người mời gọi họ cũng phải yêu thương tha nhân như chính Chúa đã yêu họ. Đức Giêsu đồng cảm, sẻ chia với từng phận người khốn khổ: cùng đói, cùng khát, cũng xót xa với nỗi thất vọng của họ; và đến “để cho họ được sống và sống dồi dào”.
Tiến trình sống sung mãn của chúng ta được thể hiện trong hai đòi hỏi:
“Người phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”(Mt 22,37-39).
Người Kitô hữu của mọi thời đại đề hiểu rằng Tình yêu phải được xây dựng trên Tình yêu và chính Tình yêu dẫn tới đời sống sung mãn. Hãy nghe những lời thánh Phaolô nhắn nhủ giáo đoàn Êphêsô:
“Tôi nguyện xin Chúa Cha, thể theo sự phong phú của Người là Đấng vinh hiển, ban cho anh em được củng cố mạnh mẽ nhờ Thần Khí của Người, để con người nội tâm nơi anh em được vững vàng. Xin cho anh em nhờ lòng tin, được Đức Kitô ngự trong tâm hồn; xin cho anh em được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái, để cùng toàn thể các thánh, anh em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết tình thương của Đức Kitô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như vậy anh em sẽ được tràn đầy tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa”(Ep 3,16-19).
Tình yêu sẽ cho chúng ta sức mạnh, sự bền bỉ và sự hiểu biết; đó là tất cả những gì thiết yếu để chúng ta sống tròn đầy. Tình yêu đem đến cho chúng ta nghị lực và khát vọng để vươn đến những điều trọn hảo. Tình yêu giúp chúng ta biết làm thế nào để phát huy tài năng của mình, đương đầu và lớn lên trong mọi trạng huống của cuộc sống.

BIẾT MÌNH
Biết mình là cả một hành trình dài khám phá. Cần gọi tên, xác định và tôn trọng con người phức tạp của chúng ta trong bất cứ giai đoạn nào. Nhiều lúc chúng ta cảm thấy bế tắc, mất phương hướng sống, thấy cuộc sống nhạt nhẽo, vô vị, chẳng biết sống để làm gì nữa; những lúc như thế, rất cần phải phản tỉnh, tìm ra ý nghĩa sống, tìm lại con người thật của mình.

Hãy biết rằng bạn là độc nhất vô nhị
Để sống tròn đầy cũng có nghĩa là phải ý thức và hiểu mình là ai. Con chó quấn quýt, vẫy đuôi mừng mỗi khi bạn đi đâu về; nó cũng ăn, cũng ngủ, cũng tỏ vẻ thân thiện, nhưng tuyệt nhiên chẳng ý thức được nó là gì cả, không hề ý thức được nó là con chó. Chỉ có con người, con người mới ý thức được mình là duy nhất, ý thức mình hiện hữu. Chúng ta không chỉ ý thức điều này trong một khoảnh khắc nào đó, mà là trọn vẹn cuộc sống. Biết mình để rồi không đánh mất mình, không vong thân giữa cuộc đời trăm ngả. Cuộc sống mỗi chúng ta là một chuỗi liên tục không đứt đoạn; chối từ quá khứ là chúng ta không có hiện tại và cũng chẳng có tương lai.
Cuộc sống được hình thành từ hàng vạn mảnh vụn kinh nghiệm chúng ta có về bản thân qua các biến cố, qua mối tương quan với tha nhân, qua công việc, qua học hành nghiên cứu… Tất cả mọi việc xảy ra đều góp phần làm nên cuộc sống đời chúng ta.
Việc hiểu biết chính mình như thế là điểm hội tụ sức mạnh giúp chúng ta có thể đối đầu với những xung đột, đánh giá đúng các bậc thang giá trị, đón nhận được những mất mát trong cuộc sống và giúp chúng ta sống tự trọng, hiểu biết những giá trị của bản thân, biết yêu chính mình, ngay cả khi chúng ta bị bỏ rơi, khinh bỉ, làm mất phẩm giá.

Sống thật để biết mình
Nếu muốn biết mình, tôi phải can đảm sống con người thật của tôi, con người trần trụi, không tự vệ, không đeo mặt nạ, không bôi đem, không tô hồng… Đó là cơ may để tôi nhận ra khuôn mặt đích thực của mình; không ai hiểu tôi hơn chính tôi; chỉ có tôi mới có thể biết rõ tôi là ai.

Đón nhận những cảm xúc
Cảm giác hay cảm xúc là thành phần thiết yếu cho thấy chúng ta là ai, cảm xúc này rất cần được chân nhận. Nhiều khi người ta hay lờ đi hoặc né tránh cảm xúc của mình. Thật là khôi hài, làm sao có thể ngăn cản cảm xúc, chúng ta chỉ có thể cảm nhận mà thôi. Cảm xúc là cái gì thật chứ không phải chỉ là ý niệm. Những cảm xúc mạnh mẽ không biến mất, nhưng tồn tại như những tảng băng ngầm chìm sâu trong vô thức, một lúc nào đó nó có thể trồi lên và nổ tung như ngọn núi lửa nhiều năm âm ỉ sôi sục. Làm sao đừng bao giờ để chúng ta bị dồn nén, hãy kiểm soát cảm xúc của mình trước khi chúng bùng nổ.
Việc biết mình đòi hỏi chúng ta luô phải phản tỉnh trong mọi hoàn cảnh. Cảm xúc có thể đóng vai trò người bạn, cũng có thể là kẻ độc tài phát xít! Nhờ việc đón nhận các cảm xúc như người bạn, và không bao giờ để chúng trở nên những kẻ độc tài, chúng ta có được cơ may tốt để hiểu biết mình hơn.

Biết được mình đang muốn điều gì
Biết mình cũng có nghĩa là biết được điều mình đang mong muốn, đang khát vọng. Chẳng thể quyết định được gì, nếu chúng ta thực sự không biết được điều mình mong muốn. Chúng ta sẽ bế tắc khi để người khác hoặc những tác động bên ngoài như quảng cáo, ca nhạc, thời trang, báo chí… “muốn” thay cho chúng ta. Khi đó chúng ta sẽ rơi vào ảo vọng, cứ tưởng như mình chọn lựa cái này, hài lòng với cái kia, nhưng thực chất chúng ta chỉ là con rối cho người khác giật dây mà thôi. Có những người khi ở vào độ tuổi “ngũ thập như tri thiên mệnh” mới giật mình thấy rằng họ chưa bao giờ làm điều họ muốn cả. Những điều chúng ta mong muốn sẽ định hình con người của chúng ta.

Biết người khác nghĩ gì về mình
Trong giao tiếp hằng ngày, mỗi cuộc đối thoại, dù chỉ là một lời chào thăm: “Anh khỏe không?”, cũng nói lên một điều gì đó về chính mình. Ít nhất qua cái bắt tay, qua nụ cười, qua ánh mắt, người ta cũng nói với bạn rằng bạn đang hiện hữu. Nếu ai đó chào tôi: “Béo đấy à!”, thì ra tôi cũng được nhận biết một cách hoàn toàn cá vị rồi; và nếu cũng chính người đó dừng bước, chăm chú nhìn tôi và nói: “Chào Béo, bạn khỏe chứ?”, thì lúc ấy tôi cảm thấy rằng mình thật có ý nghĩa trong ánh mắt của người ấy.
Tuy nhiên, cũng nên lưu ý tiêu chuẩn đánh giá mình không thể hoàn toàn dựa vào dư luận, và chúng ta cũng không thể trở nên giống như người ta mong mỏi được đâu. Chúng ta luôn phải lắng nghe, tiếp nhận ý kiến, nhưng cũng phải luôn là chính mình, chịu lấy trách nhiệm đời mình. Không thể để một ai vẽ lên cuộc đời của chính chúng ta được.

Biết những tài năng của mình
Tài năng là khả năng hay năng khiếu có giá trị, và đó cũng là quà tặng. Trong ý nghĩa này,  thì người ta sinh ra đã có tài rồi, thiên phú là vậy. Một nghệ sĩ Violon tài ba, dĩ nhiên phải qua khổ luyện, nhưng không thể phủ nhận yếu tố thiên phú nơi nghệ sĩ này. Người ta nói thiên tài là do 90% tập luyện, nhưng nếu không có, dù chỉ là 1% yếu tố phú ban thì dù có khổ luyện cũng khó có thể thành thiên tài.
Tài năng không chỉ là điều gì mang tính vật lý hay một năng lực trí tuệ. Khía cạnh nhân cách cũng là những quà tặng độc đáo. Khía cạnh nhân cách cũng là những quà tặng độc đáo. Sống thiếu nhân cách, không phải là sống đẹp, sống tròn đầy. Nhân cách mỗi người mỗi khác, mỗi người đều có khả năng đặc biệt, điều quan trọng là ta nhận ra và làm cho tăng triển. Người xưa bảo “ngọc bất trác bất thành khí”, nếu chúng ta không biết cách đánh thức tài năng của mình thì chúng vẫn ngủ yên và chẳng bao giờ tài năng thành hiện thực được. Thánh Phaolô khuyên nhủ giáo hữu Côrintô phải nhận ra những khả năng như là ân huệ Chúa ban: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tùy theo ý của Người”(1Cr 12,4.11).
Mỗi người chúng ta đều được trao ban những đặc sủng. Để trở nên con người sống tròn đầy, rất cần có thời gian khám phá đâu là quà tặng mình đã được trao ban.

ĐI TRÊN ĐÔI CHÂN CỦA MÌNH
Người trưởng thành là người đi trên đôi chân của mình chứ không phải là mượn đôi chân kẻ khác. Tính tự lập là điều cần thiết để chúng ta được lớn lên.

Can đảm chọn lựa và chấp nhận hậu quả
Một khi chấp nhận chọn lựa là chấp nhận hệ quả của chọn lựa đó, dù là hệ quả tích cực hay tiêu cực. Cuộc sống luôn đặt chúng ta vào tình trạng phải liên tục chọn lựa: chọn lựa giữa cái xấu và cái tốt; giữa cái tốt và cái tốt hơn… Và chọn lựa cũng có nghĩa là phải từ bỏ, không thể nào chọn cả hai được. Có chọn lựa được người khác tán dương. Có chọn lựa bị người khác chê cười. Nhưng dù thế nào đi nữa, quyền quyết định vẫn là ở bạn, theo tự do của bạn và chính bạn là người phải lãnh nhận hậu quả trước tiên chứ không phải ai khác.
Quyết định của bạn không thể dựa vào lời khen hay tiếng chê của người khác, bạn phải có lập trường. Tuy nhiên, như thế không có nghĩa là bạn dửng dưng với dự luận, với những đòi hỏi, khát vọng hay ý kiến của người khác; một người trưởng thành tự nhiên biết cân nhắc và chọn lựa. Người tự lập có thể dựa vào phán đoán của mình và quyết định chọn lựa; tuy nhiên cũng có thể tham khảo ý kiến người khác. Tự lập không phải là độc đoán, lập dị. Tự lập bao gồm sự phụ thuộc lẫn nhau,kết hợp cả sự dịu dàng và mạnh mẽ của tinh thần độc lập và phụ thuộc.

Học để biết tự lập và phụ thuộc lẫn nhau
Ngay từ trong gia đình, chúng ta cần phải có tinh thần tự lập. Bạn có suy nghĩ riêng, lập trường riêng, có chọn lựa riêng, và dĩ nhiên cha mẹ cũng phải dành cho con cái một khoảng tự do, một góc riêng tư. Không tự lập thì làm sao làm chủ được đời mình; bạn thấy đấy, hệ quả khôn lường. Rất nhiều người dù đã lớn tuổi nhưng vẫn sống tình trạng ấu trĩ, không thể phán đoán hay quyết định được điều gì. Có lẽ chúng ta không muốn mình là loại người như thế.
Tuy nhiên, người tự lập đích thực không phải là kẻ luôn phản kháng lại với thế giới, cũng không phải là cỗ máy lạnh lùng cứ vận hành đều đặn. Họ là người biết sống phụ thuộc vào nhau, biết cho đi - lãnh nhận, biết tin vào chính mình và cũng tin vào tha nhân. Nhờ vậy, họ biết nhạy cảm với nhu cầu của người khác, biết đón nhận và cũng biết chọn lựa, thay đổi; biết đánh thức những tài năng, sở trường, kiến thức và cảm xúc của mình đồng thời nhận ra rằng đôi khi mình cũng cần được sự giúp đỡ, và không phải vì thế mà con người mình bị thay đổi.
Cuộc sống luôn là tương trợ, là sống với, sống cùng. Chẳng ai hiện hữu đơn độc. Sự hiện hữu của chúng ta cần thiết cho người khác và ngược lại, sự hiện hữu của tha nhân cũng cần thiết cho chúng ta. Sự hỗ tương qua lại này làm cho cuộc sống trở nên phong phú và tròn đầy. Khám phá ra mình hiện hữu nơi tha nhân, và tha nhân hiện hữu nơi mình là một nhận thức căn bản để chúng ta biết thế nào là sự tự lập và phụ thuộc lẫn nhau trong cuộc sống.
Trách nhiệm với sự tự do của mình
Tự lập bao gồm yếu tố tự do. Tự do là quà tặng cao quý giúp chúng ta sống trưởng thành hơn. Tuy nhiên, chúng ta không sống một mình, chúng ta sống trong xã hội với những con người có quyền tự do, có nhu cầu tự do, và họ cũng là những người tự do. Sự tự do của mọi người đòi hỏi chúng ta phải tôn trọng và có trách nhiệm đối với nhu cầu và quyền lợi của người khác.
Sự tự do của người Kitô hữu nói lên rằng chúng ta có thể nhìn thấy điều vĩ đại hơn đàng sau những lợi tức nhỏ bé, và chúng ta có thể quan tâm, trách nhiệm với tha nhân trong hoàn cảnh cụ thể của họ. Quả thực, tự do bao gồm tinh thần trách nhiệm, tự do yêu thương. Nếu bị nhốt kín trong ngục tù của lòng ham muốn, tham lam ích kỷ, chúng ta sẽ không có tự do.
Sự tự do đích thực làm cho chúng ta có thể lớn lên và diễn tả chính mình trong việc đáp ứng nhu cầu của tha nhân như là chính nhu cầu của chúng ta vậy. Khi tự do trở thành vô giới hạn, tha hồ sống theo sở thích, chẳng cần quan tâm tới ai, thì lúc ấy không còn là tự do nữa mà là bừa bãi, phóng túng.
Đối với người Kitô hữu, tự do phải được đặt trong viễn cảnh: tự do thoát khỏi tội lỗi và tự do yêu thương. Thánh Phêrô khiển trách mạnh mẽ những người đã đẩy người khác vào sai lầm và ngoan cố: “Họ hứa cho những kẻ đó được tự do, nhưng chính họ lại làm nô lệ cho lối sống dẫn đến hư vong, vì đã thua ai thì phải làm nô lệ cho người ấy”(2Pr 2,19). Những nết xấu như ích kỷ, bất công, lạm dụng người khác… có thể sẽ thống trị đời sống chúng ta. Đức Giêsu Phục sinh hứa ban sức mạnh cho chúng ta vượt qua mọi tội lỗi và được tự do để yêu thương.

KẾT LUẬN
Con người ngày nay đang dần dà để lộ ra sự yếu đuối, bất lực của mình qua việc không kiềm chế nổi cái tôi ích kỷ, qua việc sử dụng sức mạnh như một phương tiện tiêu diệt, gây chết chóc, tang thương. Chẳng hạn những thai nhi vô tội, không có sức kháng cự, đã bị con người, có khi là chính cha mẹ khước từ. Hay người ta sử dụng sức mạnh để phục vụ chiến tranh, khủng bố… Sức mạnh đích thực phải mang đến sự biến đổi trong hân hoan và sự sống.
Rất thường khi, người ta hiểu sức mạnh theo nghĩa tiêu cực, sức mạnh công phá và hủy diệt, sức mạnh áp chế kẻ khác, sức mạnh đồng tiền, sức mạnh của kẻ quyền thế… Sức mạnh ở đây phải được hiểu theo nghĩa tích cực, sức mạnh thực sự phải có khả năng sáng tạo, xây dựng cuộc sống, phải dẫn tới cái đẹp, tình yêu; và sức mạnh chỉ có thể là tích cực nếu nó được sử dụng để thăng tiến con người, làm triển nở cuộc sống, làm cho cuộc sống tươi sáng và có ý nghĩa.
Bước vào cuộc hành trình, bạn sẽ thấy cuộc đời muôn ngả. Nếu cứ đứng mãi ở ngã ba đường, bạn sẽ chẳng bao giờ tới đích được. Cuộc sống đang mời gọi chúng ta khám phá, dấn thân, và giải thưởng vĩ đại không phải chỉ là sự thành công mà là chính sự thành toàn đời ta. Muốn năng lực còn đang ẩn chìm, đang chờ thời cơ thi thố, vấn đề là chúng ta có can đảm cất bước đăng trình hay không. Nếu coi cuộc đời như một cuộc chơi, thì cuộc chơi nao càng mạo hiểm lại càng thú vị!

MỘT THỜI ĐỂ SỐNG

Hãy tạm ví cuộc đời như mùa xuân; xuân năm nào cũng thế. Có khác chăng là chính sự biến đổi cảm nhận của lòng người. Người không cảm nhận, không rung cảm, thì xuân đến rồi, xuân hờ hững ra đi. Như vậy, điều quan trọng là phải cảm nhận, ý thức, hay nói khác đi là phải sống.
Socrate, một triết gia vĩ đại, và là nhà giáo dục tuyệt vời thời cổ đại Hylạp, đã nhắc nhở các đồ đệ của mình luôn sống trong thái độ ý thức và phản tỉnh. Ông nói: “Cuộc sống không có sự khám phá là cuộc sống vô nghĩa”. Ông đã truyền cảm hứng cho các đồ đệ của mình để họ vật lọn với ý nghĩa của cuộc sống.
Chúng ta không bình luận lời dạy của triết gia ở đây, nhưng chúng ta có thể áp dụng câu nói này trong một khía cạnh khác: “Một cuộc đời không được sống thì chẳng có giá trị gì để khám phá!”

HÀNH TRÌNH KHÁM PHÁ
Thực ra, chúng ta thấy có bao nhiêu người biết sống thực, sống tròn đầy? Bao nhiêu người đang lao mình về phía trước mà không lường được những hố thẳm. Thực ra hố thẳm cuộc đời và huyệt mộ cũng chẳng khác nhau là mấy, điểm khác biệt duy nhất là sống hay chết mà thôi. Họ đi tìm những kinh nghiệm mới, đối diện với chính bản thân để vươn lên, thu gom những gì học được trong cuộc sống và dùng những hiểu biết của mình để sáng tạo nên một điều gì đó có giá trị.
Cuộc sống của chúng ta là một chuỗi dài những học hỏi và sáng tạo. Hãy nhìn sự tăng trưởng của đứa trẻ như một điển hình: Từ một hài nhi đỏ hỏn lúc mới chào đời, chỉ sau vài tháng trẻ có thể biết lật, biết lẫy, rồi gặm tay, mút chân… Một hai năm sau, trẻ bập bẹ tiếng gọi mẹ, gọi bố, rồi trẻ dần dần ý thức thế giới khác biệt quanh mình, những câu hỏi “tại sao …, tại sao?” luôn luôn trên môi miệng. Từ một đứa trẻ hoàn toàn lệ thuộc, dần dần bé ý thức mình có một cái gì riêng biệt, cái tôi hình thành; và cứ thế lớn dần theo năm tháng, trải qua nhiều cuộc khủng hoảng, những giai đoạn buồn chán cô đơn…; nhưng đó không phải lfa dấu hiệu bi quan, khủng hoảng vẫn là dấu hiệu của sự sống. Nói như Socrate, đó là một cuộc sống đang được khám phá, và dĩ nhiên đó là cuộc sống có giá trị.

Vượt qua hố thẳm
Cuộc sống không phải lúc nào cũng rải đầy hoa hồng, mà phía trước chờ bạn có thể là gai góc, hố thẳm. Người hùng không phải là kẻ chạy trốn mà là người dám đối đầu, chinh phục. Người xưa chẳng dạy chúng ta rằng:
“Ví thử đường đời bằng phẳng cả,
Anh hùng hào kiệt có hơn ai”.
Bạn đang được mời gọi để chinh phục chính cuộc đời của bạn, mặc cho nó một ý nghĩa sống. Bạn đang thất bại ư? Có phải vì thế mà bạn thất vọng? Tại sao lại bán rẻ cuộc đời cho một vài thất bại, một chút khủng hoảng như vậy? Có ai nên khôn không một lần lỡ dại? Thực ra, những thất bại, những bất trắc dạy cho chúng ta bài học sâu sắc hơn là cuộc đời cứ bon bon mãi trên con đường thành công. Điều thất bại thê thảm nhất, nếu có là chúng ta luôn thành công chưa bao giờ thất bại!
Hãy tập khôi hài với chính mình, lạc qua và can đảm vượt qua những hố thẳm của cuộc sống. Chính lúc cuộc sống chúng ta đang được “cử hành”, sẽ đong đầy giá trị và nở hoa. Không có hai cuộc đời để sống thử, để thử nghiệm. Chúng ta chỉ có một chọn lựa duy nhất là sống hay chết. Khi thấy đời mình còn loay hoay, khắc khoải, nhiều chông gai, nhiều hố thẳm, đó là dấu hiệu cho thấy chúng ta còn khát khao, chiến đấu, vươn lên mãi, và muốn sống tròn đầy.

Gõ cửa hồn mình
Chúng ta có những khả năng tuyệt vời có khi đang được bộc lộ, nhưng phần lớn chúng còn bị chôn vùi trong vô thức, trong tiềm năng. Với muôn vàn cung bậc khác nhau, nếu không được tấu lên sẽ chẳng bao giờ có nốt nhạc, chẳng abo giờ có ca khúc hay bản hòa tấu, và như vậy người nghệ sĩ cũng chẳng có thật. Bạn có khả năng, nhưng khả năng ấy không được thể hiện thì mãi mãi bạn cũng chỉ mờ nhạt. Hãy gõ cửa hồn mình để đánh thức tài năng lên tiếng.
Có chú công được nuôi chung với bày gà; tháng ngày đắp đổi, công chỉ biết bới rác nhặt sâu. Một hôm chợt nhìn thấy chú công khác nhảy múa vui nhộn, công ta thèm khát muốn được “nhập hội hoa đăng”, nhưng cuối cùng công nghĩ mình là phận gà hèn kém, nên đành bới rác, nhặt sâu. Yên phận. Tiếc thay!
Có bao giờ bạn nói: “Tại sao lại không? Sao người khác làm được tôi lại không làm được?”. Hãy tin rằng bạn có khả năng làm mọi việc, nếu bạn muốn. Hãy đánh thức khả năng của bạn, hãy nói “có” với khả năng ấy.

Trở nên “con người mới”
Trong sự hoàn thiện Kitô giáo, mỗi chúng ta đều được mời gọi làm triển nở đời sống và phát triển những khả năng của mình theo mọi lãnh vực. Trong thư gởi giáo đoàn Êphêsô, thánh Phaolô nhắc nhở phải ý thức tầm quan trọng làm triển nở những ân ban chúng ta đã lãnh nhận:
“…Tôi khuyên nhủ anh em hãy sống xứng đáng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em. Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại, lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau… Mỗi người chúng ta đã nhận được Ân sủng tùy theo mức độ Đức Giêsu ban cho… Chính Người đã ban cho kẻ này làm Tông đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ khác nữa làm người coi sóc và dạy dỗ…
Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa…, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện”(Ep 4,1-12; 23-24).
Theo thánh Phaolô, những ân huệ chúng ta lãnh nhận được đều được có cùng một mục đích là xây dựng tình bác ái và đời sống Đức tin trong cộng đoàn. Và như vậy, nghiên cứu, học hành, sáng tạo, là làm triển nở những ân ban, giúp chúng ta sống tròn đầy và trở nên môn đệ đích thực của Đức Giêsu, đồng thời làm cho người khác được triển nở trong đời sống sung mãn, hiệp thông và huynh đệ.

ĐI MỘT ĐÀNG, HỌC MỘT SÀNG KHÔN
Trường học cuộc đời
Bể học thì vô chừng, sức người lại hữu hạn. Việc học có bao giờ là đủ. Ngoài môi trường học hành quy củ, còn có cánh cửa trường đời mở rộng thênh thang. Cứ cho là cuộc đời khoảng 60 năm, thì có khi một phần ba thời gian chúng ta dành cho việc học hành, sách vở. Nhưng như thế đâu đã là đủ, bể kiến thức thì mênh mông vô hạn, những điều ta biết chỉ như chút muối giữa đại dương; và như vậy con người phải học mãi, trường học cuộc đời sẽ cho chúng ta những bài học quý giá mà không vị thầy nào cung cấp đủ. Chúng ta có thể học trong mọi hoàn cảnh, lúc thành công, khi thất bại, lúc bình an, lúc khắc khoải kiếm tìm. Thêm một ngày được sống, lại có một điều gì đó mới lạ cần học tập. Trường học cuộc đời không có ngày bế giảng, và mở ra phương trời vô tận, cho đến khi chúng ta từ bỏ thế giới này bước vào thế giới mới, trời mới đất mới.
Trường học cuộc đời không có giáo án, không có chương trình, môn sinh luôn phải thích ứng với mọi tình huống, đối diện với những bất trắc có thể xảy ra. Trên tiến trình đó, điều căn bản chúng ta phải học được đó là chọn lựa sự sống và sự tự do. Nhiều lúc chúng ta tưởng mình đang sống, nhưng thực ra đã chết! Cứ nghĩ mình tự do, nhưng thực ra đang bị cầm tù; nhiều khi chúng ta bị nhốt kín bởi thành kiến, đầu óc hẹp hòi, ích kỷ, hay những đam mê, nhu cầu giả tạo… Muốn sống mạnh, sống tự do, chúng ta phải buông xả tất cả những xiềng xích đó. Dù có cột chân bằng sợi chỉ vàng, thì con chim vẫn bị tù túng, vẫn mất tự do
Chúng ta có mẫu gương của mọt con người sống bát ngát, tự do, tự tại, đó chínhlà Đức Giêsu, một con người không bám chấp, không níu kéo, không nơi tựa đầu, nhưng có tất cả; một con người hy hiến mạng sống nhưng là chủ tể sự sống; một con người chết tất tưởi nhục nhã nhưng chỗi dậy sáng ngời trong vinh quang Phục sinh. Hãy nghe Lời Người nhắn gởi chúng ta:
“Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống, thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?”(Mt 15,25-26).

Hoa trái của việc học tập
 Khi cất tiếng khóc chào đời, đó là lúc chúng ta bắt đầu bài học vỡ lòng. Và phải rất lâu, chúng ta mới cảm nhận được có đôi bàn tay ấp ủ mình. Khi đói, ngôn ngữ đơn giản là khóc thé lên, và lập tức chúng ta được no nê với bầu sữa mẹ; rồi dần dà, chúng ta cảm nhận được có đôi mắt trìu mến âu yếm nhìn mình, nghe được những âm thanh quen thuộc ngọt ngào. Tất cả đều phải học hết bạn ạ: Học nhìn, học nói, học đụng chạm, học lắng nghe, học mỉm cười và ngay cả học khóc nữa.
Trên tiến trình thành nhân, học hỏi trao tặng cho chúng ta cuộc sống. Học hỏi không phải chỉ là để tồn tại, nhưng còn để sống tròn đầy. Bởi vì:

Học hành giúp chúng ta biết chọn lựa
Bạn hãy tưởng tượng mình đang bước vào một căn phòng rộng mênh mông, trần nhà, tường nhà đều quét một mẫu hắc ín, không một tia sáng nào lọt vào, trong căn phòng trưng bày đầy những tranh ảnh đẹp. Bạn có thấy gì không? Dĩ nhiên bạn không thể thưởng thức, cũng chẳng thể chọn lựa. Tri thức, những điều bạn thu thập được, sẽ là ánh sáng mở mắt cho bạn (mặc dù trước đó, mắt bạn vẫn mở nhưng chẳng thấy gì), đưa bạn vào một thế giới kỳ thú, tha hồ chiêm ngắm, mặc sức chọn lựa. Không có thứ ánh sáng này ctga sẽ trở thành kẻ đui mù giữa ban ngày, mất định hướng trong cuộc sống. Cuộc đời như một căn phòng rộng mênh mông, trong căn phòng trưng bày đầy những bức tránh quý giá, chúng ta rất cần ánh sáng tri thức để ngắm nhìn và chọn lựa, nhiều khi cơ hội chỉ đến một lần, lỡ nhắm mắt vào, cơ hội vụt khỏi tầm tay.

Học hành giúp ta vượt qua sợ hãi
Xin bạn hãy tiếp tục tưởng tượng mình đang bước đi trong đêm tối, xung quanh đầy những âm thanh hỗn tạp pha lẫn một chút huyền bí, một chút hoang dã, và một chút tĩnh mịch. Chắc hẳn dù ít hay nhiều, một thoáng sợ hãi nào đó đè nặng tâm hồn bạn. Ánh sáng tri thức sẽ đẩy lùi bóng đen đó, hóa giải những âm thanh huyền bì đang ám ảnh, và lúc này chúng ta như đang bước đi giữa ban ngày trong sự huyên náo của buổi bình minh rực sáng, cảm giác sợ hãi sẽ tan biến mất. Nguyên nhân gây sợ hãi là do chúng ta không biết, còn khi biết rồi, sợ hãi không còn lý do hiện hữu nữa.

Học hành cung cấp những năng lực
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của thời trai trẻ là thủ đắc năng lực cần thiết để đảm nhận công việc trong cuộc sống. Năng lực là sức mạnh để chúng ta đạt đến mục đích quan trọng của đời mình. Những kiến thức về con người, xã hội, văn hóa, chính trị, tình bạn, tình yêu, lý tưởng cuộc sống… tất cả đều là những điều chúng ta phải học tập, có khi trên trường lớp, có khi trên trường đời.

Học hành giúp thích ứng với những thay đổi
Cuộc sống luôn biến động và thay đổi không ngừng. Một phút dừng chân là có nguy cơ chúng ta tụt hậu. Để thích ứng được với những thay đổi chóng mặt đó, chúng ta rất cần sự hiểu biết để có thể nhận định sự việc, cân bằng những xô lệch, xác định mối tương quan tình bạn, tình yêu, đáp ứng những đòi hỏi của công việc… Không có chìa khóa tri thức, làm sao chúng ta có thể mò mẫm tìm được giải đáp thích hợp cho những vấn đề trên và còn nhiều vấn đề quan trọng, phức tạp hơn nữa.

Học hành: phận sự riêng của mỗi người
Không ai có thể học thế chúng ta được. Học hành là phận vụ riêng của mỗi người. Những gợi ý sau sẽ giúp chúng ta định hướng cho việc học tập:
-Cần tập thói quen học hành nghiên cứu: Học hành phải là một thói quen tập nhiễm, được lập đi lập lại, dần dà thuần thục và yêu thích. Tập óc quan sát, đặt vấn đề và tìm hiểu nguyên nhân sự việc, từ đó chúng ta có được cái nhìn tinh tế, sâu sắc hơn. Nếu không tập được thói quen yêu thích việc học tập, thì chính việc học lại trở thành gánh nặng đè bẹp chúng ta.
-Phải xác định mục tiêu: Trước tiên là xác định mục đích hay định hướng cho cả cuộc sống của mình, đó là mục đích chúng ta phải tìm mọi cách để đạt tới. Và với định hướng chung đó, chúng ta có những mục tiêu cho từng giai đoạn; chia nhỏ khoảng thời gian này, ta có những việc làm cụ thể hằng ngày hướng về đích điểm ta đã chọn.
-Có có sáng tạo: Óc sáng tạo sẽ giúp ta vượt qua những tri thức gói gọn trong sách vở. Từ nhiều nguồn khác nhau: Sách vở, báo chí, thư viện, công việc, kinh nghiệm sống… chúng ta có thể học hỏi để có tầm nhìn rộng hơn, khách quan hơn.
-Cần có cái nhìn cởi mở: Người cởi mở là người có khả năng đón nhận những cái mới. Đừng bao giờ tự mãn với sở học của mình. Luôn mở lòng ra với thiên nhiên, với con người, với vạn vật, và những biến cố đang diễn ra xung quanh ta từng giây từng phút, chắc chắn sẽ có nhiều điều thú vị để chúng ta học hỏi.
-Linh động, đừng cứng nhắc: Đừng bao giờ cố chấp, khư khư giữ vững lập trường của mình, một khi đã nhận ra điều đó không còn phù hợp nữa. Kẻ cầu tiến là ngựời linh động, can đảm thay đổi lập trường, chọn lại hướng đi sao cho phù hợp. Cuộc sống vốn linh động, nếu chúng ta quá cứng nhắc thì khó bề có thể hội nhập mà không bị đào thải.
-Đừng làm chỉ vì muốn người khác hài lòng: Nếu thấy điều mình làm là đúng, phục vụ cho ích chung, phù hợp với mục đích đang hướng tới, thì chúng ta cứ làm. Đừng bao giờ làm chỉ vì để người khác hài lòng. Đừng để mình trở thành con rối cho người khác giật dây!
-Và cuối cùng chúng ta cần phải kiên nhẫn: Việc học hành không có kết quả liền ngày một ngày hai, nhưng đòi hỏi chúng ta phải kiên nhẫn liên lỉ. Hơn nữa chúng ta cần phải chuẩn ibj tinh thần để đối diện với những chống đối, cô lập, và ngay cả sự cô đơn nữa. Những điều chúng ta đang thai nghén và thành quả sẽ thế nào còn là một khoảng cách dài, chỉ có ai kiên nhẫn mới có thể xem thấy đứa con tinh thần của mình rạng rỡ; nếu nóng vội, đứa con đẻ no có thể sẽ què quặt, khiếm khuyết.

 LỚN LÊN NHỜ SÁNG TẠO
Câu truyện Sáng tạo trong Kinh Thánh cho chúng ta thấy con người được dựng nên “giống hình ảnh của Thiên Chúa”(St 1,27). Chúng ta có thể suy luận thêm: nếu Thiên Chúa là Đấng Tạo hóa và chúng ta được dựng nên theo hình ảnh của Người, thì như vậy một cách tự nhiên, giống Thiên Chúa, chúng ta cũng được mời gọi để sáng tạo. Một định nghĩa đơn giản về sáng tạo là Thiên Chúa cho một thụ tạo mới được hiện hữu.
Thực ra, mỗi chúng ta đều có khát vọng sáng tạo một điều gì đó tuyệt vời mà trước đây chưa từng có. Bản năng giới tính cho phép chúng ta thực hiện một cuộc sáng tạo, làm nảy sinh một mầm sống mời. Lịch sử khoa học công nghệ cung cấp bằng chứng cho thấy con người có khuynh hướng sáng tạo nên những sản phẩm mới và đó là yếu tố làm phát sinh và đẩy mạnh nền văn minh của nhân loại.
Những công trình khảo cổ cho thấy con người thời tiền sử cũng đã biết khắc vẽ những hình ảnh, văn hóa lên vách đá, đó là dấu tích của sự sáng tạo. Có những phát minh, sáng tạo làm thay đổi bộ mặt thế giới; có những con người như Đức Phật, Khổng Tử, Đức Giêsu… làm say mê bao con tim và khối óc của nhân loại.

Tinh thần sáng tạo
Rất nhiều khi chúng ta quên mình có khả năng sáng tạo. Thực ra, trong một khoảnh khắc nào đó, chỉ cần một chút cảm hứng chúng ta có thể bật ra những tư tưởng tuyệt vời mà lúc dày công suy tư chúng ta không có được. Như một nghệ sĩ có thể cưu mang một lúc bao đề tài, nhưng không thể chuyển đề tài đó thành ca khúc, thành thơ, thành nhạc… nếu không có những cảm hứng làm nền cho giây phút sáng tạo bột phát. Nhưng phát minh lớn của nhân loại cũng là kết quả của cảm hứng sáng tạo như thế.
Muốn sáng tạo, rất cần phải có:
-Thái độ ngạc nhiên: Nếu định nghĩa triết gia là người luôn biết ngạc nhiên trước sự vật, thì một tâm hồn cởi mở, luôn khao khát tìm kiếm cái mới, điều hay, sẽ rất dễ thán phục thế giới quanh mình. Tâm hồn như thế không ai có thể cầm tù họ được. Một tâm hồn tự do, nhạy cảm thì dù có bị cầm tù, họ vẫn có thể biến chốn đề lao thành khung trời sáng tạo. Nelson Mandela, vị tổng thống da đen đầu tiên của Nam Phi, đã trải qua hầu hết tuổi thanh xuân (27 năm) ở chốn lao tù. Trong số người đoạt giải Nobel văn chương, có những người chưa hề một lần tốt nghiệp trường lớp nào cả như John Steinbeck, William Faulkner, và Ernest Hemingway. Còn Emily Dickinson, một nhà thơ lừng danh ở Mỹ thì hầu như đã không ra khỏi nhà khi cô vừa tròn 20 tuổi. Người sáng tạo là người có tâm hồn và trí óc rộng mở, chính nhờ thái độ này, họ có thể học được nhiều điều, có cả những điều không trường lớp nào dạy được.
-Tinh thần trẻ trung: Tinh thần trẻ trung không hề giới hạn trong một độ tuổi nào. Có những người cao tuổi nhưng vẫn trẻ trung, sáng tạo; có người nhỏ tuổi nhưng lại già nua, xơ cứng. Một tinh thần già nua không có khả năng sáng tạo. Một thế giới già nua là thế giới không có sự sống. Vẻ đẹp, sự sáng tạo… luôn là sự sống, là sức tươi trẻ, là khả năng có thể mở ra với thế giới và dung nạp những điều mới lạ.

Những chuẩn bị cần thiết
Chỉ trong chốc lát, cảm hứng có thể bột phát và đó là giây phút sáng tạo tuyệt vời. Tuy nhiên, muốn được như vậy, tâm hồn nghệ sĩ phải cưu mang, ôm ấp mãi. Không có sự chuẩn bị, khó lòng có sứ sáng tạo đúng nghĩa. Hơn nữa, cần phải dồn tất cả tâm huyết tập trung vào ý tưởng hoặc vấn đề mình đang thực hiện. Thomas Edison nói: “Thiên tài chỉ có một phần trăm là thiên phú, còn chín mươi chín phần trăm là nỗ lực bản thân”
Tập trung vào công việc là tốt, nhưng cũng có lúc phải biết nghỉ ngơi, kéo dài ra khỏi sự lôi cuốn của công việc. Một bản nhạc hay không phải là bản nhạc liên tục dồn dập những hòa âm, mà cũng cần phải có những khoảng lặng, những khoảng lặng cần thiết.

Những nhân tố thúc đẩy sự sáng tạo
Nhiều khi chúng ta nghi ngờ khả năng trực giác và óc tưởng tượng của mình, nhưng nếu thiếu những khả năng này, sẽ khó lòng có sự sáng tạo. Nhưng làm thế nào để chúng ta sử dụng những khả năng đặc biệt này? Thưa, đó là chúng ta biết tận dụng quỹ thời gian, đừng để giây phút nào trở nên trống rỗng, dư thừa hay phí phạm. Thường thì sự sáng tạo được lớn lên trong thinh lặng, cô tịch; chỗ bạn có thể ngồi là chỗ chưa có ai ngồi. Đó là khung trời tự do sáng tạo của bạn.
Mỗi người cần tạo cho mình một khung cảnh, hay một nơi chốn phù hợp. Có những nghệ sĩ làm việc về đêm, có những người tận dụng những giây phút bình minh ấm áp… Bầu khí rất quan trọng, kích thích óc sáng tạo là chúng ta đang đi vào khúc nhạc dạo đầu của bản trường ca sáng tạo rồi đấy! Tuy nhiên, chúng ta cần phấn đấu vượt qua sự đơn điệu và nhàm chán nữa.
Nếu chỉ có một nốt son dàn đều trong dòng nhạc, thì đó chỉ là một chuỗi âm thanh liên tiếp, không thể là một bản nhạc hay. Trong cuộc sống, rất nhiều khi chúng ta cũng chỉ có những nốt son như thế. Phải vượt qua sự đơn điệu để khỏi nhàm chán, để dòng đời được sinh động như một dòng nhạc được hòa âm hay. Chúng ta được giao trách nhiệm hòa âm dòng đời của chính mình. Để làm được việc này, chúng ta cần đặt ra chỉ tiêu để phấn đấu đạt tới. Bạn có sáng kiến nhưng nếu sáng kiến không được đem ra thi hành, thì cũng bằng không. Người ta thường bảo khoảng cách xa nhất là khoảng cách từ đầu đến đôi bàn tay.
Đừng bao giờ để nguồn cảm hứng của chúng ta bị cạn kiện bởi thiếu lòng say mê học hỏi. Làm sao để sáng tạo phải là nỗi đam mê lớn nhất của chúng ta, khi ấy có cơ may chúng ta nhận ra những trục trặc và xung đột như cơ hội để sáng tạo. Thường chúng ta hay tránh né những gì khó khăn, rắc rối; thực ra có những điều chúng ta không thể tránh né được. Thái độ tốt nhất vẫn là đón nhận, nhưng không phải là đón nhận trong tâm trạng bị động, chịu vậy, mà tích cực xem đây là cơ hội để chúng ta có thể phát huy khả năng của mình.

Những khoảng lặng cần thiết
Hạt mầm sáng tạo phải được ươm trồng nơi thửa đất tốt. Một trong các yếu tố quan trọng nuôi dưỡng sự năng động sáng tạo là phải có những khoảng lặng, khoảng thời gian thư giãn không bị áp lực công việc đè nặng. Phút thư giãn này có khả năng làm mới lại những ý tưởng độc đáo và tạo thêm sinh lực cho chúng ta bước vào công việc.
Tuy nhiên, có nhiều người chẳng làm chi cả mà cứ “thư giãn” hết tháng này qua tháng khác. Thư giãn là người bạn thân của ta, nhưng biếng nhác lại là kẻ thù kéo chúng ta tụt dốc. Thời gian thư giãn thực ra là một thời gian rất linh động. Sau một tuần học hành, làm việc vất vả, bạn có ngày cuối tuần để nghỉ xả hơi, đi du lịch hoặc cắm trại… đây phải là khoảng thời gian vui tươi, sinh động, đầy sức sống chứ không phải là ù lì, ứ đọng. Nhà tâm lý Rollo May tóm tắt giá trị và lợi ích của thư giãn bằng những lời khôi hài, ông gọi đây là thời gian “uổng phí”. Trong cuốn Freedom and Destiny, tr.177, ông viết:
“Chúng ta có thể lãng phí thời gian cho những suy nghĩ vẩn vơ, mơ mộng, hay đi lòng vòng dạo phố. Tuy nhiên, bạn không thể nói đó là tất cả những thời gian vô bổ, uổng phí; ít ra nó cũng đem lại cho bạn một ý tưởng, một kinh nghiệm mới, một cái nhìn mới. Uổng phí nhưng thật không uổng phí chút nào, nó sẽ đem lại cho bạn tinh thần phấn chấn, tinh thần sáng tạo mới”.

KẾT LUẬN
Ai cũng một lần sinh ra, một lần chết đi, và chỉ có một thời để sống. Cuộc sống mỗi người là một hành trình, có khi dài ngắn khác nhau; nhưng dù chỉ là một khoảnh khắc sống, đó cũng phải là khoảnh khắc tròn đầy. Cuộc sống mời gọi mỗi người chúng ta phải không ngừng phấn đấu và vươn lên mãi. Chúng ta hãy đánh thức khả năng của mình và nỗ lực làm cho nó trở thành hiện thực. Đừng bao giờ cố ý hay vô tình chôn dấu những nén bạc chúng ta đã lãnh nhận. Đó là những khả năng, cơ hội học hành, những lời động viên khích lệ; đó là thời gian, là sức khỏe, là những thành công và kể cả thất bại. Tất cả đều là những nén bạc, chúng ta phải có trách nhiệm sinh lời. Trên tiến trình thành nhân, trách nhiệm hàng đầu vẫn thuộc về bản thân mỗi chúng ta.

LAO ĐỘNG LÀ NGUỒN SÁNG TẠO THẾ GIỚI MỚI
Cuộc sống con người mỗi ngày mỗi tiến triển, mỗi thăng hoa, và luôn có khuynh hướng vươn len mãi. Sở dĩ con người tiến triển được là nhờ có lao động sáng tạo; vắng bóng lao động, cuộc sống sẽ buồn tẻ, ngưng đọng và mất đi ý nghĩa sống. Có người coi lao động như một thứ hình phạt, do vậy phải tìm mọi cách để được an nhàn; thực ra, lao động là ơn huệ, là quyền lợi, là cách thức thể hiện phẩm giá và sự sáng tạo của con người. Lao động là cách thức chúng ta đi vào hành trình khám phá, định hình, và sáng tạo thế giới mới, sáng tạo chính cuộc đời của mỗi chúng ta.

Ý NGHĨA LAO ĐỘNG
Sáng tạo, đó là tên gọi khác của lao động. Không có lao động, bạn không thể đạt đến mục đích. Bạn muốn xây một căn nhà, bạn muốn là môt bác sĩ… tất cả đều là thành quả của lao động. Lao động kiến tạo thế giới này và làm cho nó sống động. Phần lớn thời gian con người trải qua trong cuộc đời mình đều là lao động. Từ tấm bé, bạn cắp sách đến trường, lớn lên bạn đảm trách những công việc của gia đình và xã hội… Tất cả đều là lao động. Lao động xây dựng chính cuộc đời của bạn và làm cho đời bạn có ý nghĩa. Bạn thử tưởng tượng:

Nếu thế giới không có lao động
Một thế giới không có lao động là một thế giới bất động, một thế giới chết. Ai trốn tránh lao động, chính là họ trốn tránh sự hiện hữu, bỏ rơi ý nghĩa cuộc sống của mình. Cuộc sống không có lao động cũng chẳng khác gì dòng sông bị chặn đứng trở thành ao tù hoi hám, ứ đọng, không sinh vật nào sống trong đó được và chính dòng sông ấy cũng chẳng còn ý nghĩa gì. Bản nhạc cuộc đời có thể tấu lên được chăng nếu những nốt nhạc vẫn nằm yên bất động, cung đàn vẫn còn nằm trong quên lãng? Bạn có trách nhiệm tấu lên khúc nhạc hoành tráng là chính cuộc đời của bạn; mỗi nốt nhạc là một lao tác, mỗi chuỗi lao tác làm nên bản trường ca cuộc đời của bạn.

Vị trí của lao động

Vị trí của lao động trong cuộc sống là điều bạn không thể phủ nhận. Qua lao động, bạn khẳng định được vị trí của bạn. Người ta phân cấp xã hội cũng dựa vào vị thế lao động này. Tất cả mọi công việc lao động đều tốt, đều giá trị và cao quý, tất cả đều góp phần làm cho cuộc sống của chúng ta trở nên tròn đầy và thú vị hơn. Hẳn rằng cuộc đời ai cũng có mục đích, có khát vọng; lao động sẽ giúp chúng ta đong đầy khung trời khát vọng ấy. Và chợt khi nào cảm thấy chán nản, thất vọng, buông xuôi, chúng ta hãy mau mắn bắt tay vào một công việc nào đó, công việc sẽ giải thoát chúng ta khỏi tình trạng bế tắc. Có lẽ lúc này bạn vẫn chưa yên tâm, nhiều vấn nạn còn lảng vảng trong đầu bạn?

TẠI SAO PHẢI LAO ĐỘNG?
Có lẽ bạn đã có câu trả lời cho vấn đề này, chỉ xin đưa ra một vài gợi ý:

Lao động để kiếm tiền
Đó là mục đích gần và thiết thực nhất. Phần đông chúng ta dù muốn dù không cũng đang ngầm chấp nhận giải đáp này. Cuộc sống là cơm áo gạo tiền, thiếu một trong những điều này cuộc sống trở nên khô cằn, méo mó. Khi bạn chọn lựa một công việc, bạn cũng đã nhắm đến những lợi nhuận mình có thể thu được. Bao nhiêu người thất nghiệp, chỉ mong tìm một việc làm để có thể ổn định cuộc sống. Tuy nhiên, tiền không phải là tất cả; lao động để kiếm tiền, nhưng tiền không phải là mục đích, nó vẫn chỉ là phương tiện phục vụ cho đời sống con người mà thôi. Đừng bao giờ tôn đồng tiền lên làm ông chủ, tiền bạc sẽ đè bẹp cuộc đời bạn. Ngoài việc kiếm tiền, lao động còn là…

Để lấp đầy những khát vọng
Khát vọng của con người thì khôn cùng, biết bao người muốn lao vào công việc để lấp đầy những khát vọng đó. Có những khát vọng, tham vọng chính đáng, nhưng cũng không thiếu những tham vọng bất chính; nhưng dù là tham vọng nào chăng nữa, nếu không thông qua lao động, con người cũng không thể đạt tới được.
Điều quan trọng là chúng ta phải có định hướng đúng đắn, hướng tham vọng vào việc kiến tạo sự sống, tình yêu, sự công bằng và tình huynh đệ.
Lao động cũng còn là:

Biết nâng cao sự hiểu biết về chính mình
Công việc là cách thức tốt để chúng ta nhận biết mình là ai, và cũng có thể trả lời được những câu hỏi như:
-Tôi đã thực sự có được những khả năng hay năng khiêu nào, hoặc những khả năng nào tôi có thể phát huy?
-Những đặc điểm nào tôi được người khác ngưỡng mộ hay đề cao?
-Những tình huống bất ngờ xảy ra, tôi sẽ ứng xử thế nào?...
Công việc cho chúng ta những cơ hội để khám phá sức mạnh tiềm ẩn trong mình mà lúc bình thường chúng ta không hề biết. Ngoài ra lao động còn là:

Để tạo niềm vui, hứng thú
Có những người không phải lao động để kiếm tiền, để thỏa mãn những tham vọng, nhưng đơn giản lao động đối với họ là niềm vui, là lẽ sống, là cách thức tỏ bày chính mình với những mối tương quan với con người, với thiên nhiên và với thế giới. Lao động giúp bạn yêu đời hơn, thấy đời mình đẹp, đáng sống và hữu ích. Lao động còn là một thứ quyền, không ai có thể cướp đi quyền được lao động của bạn. Và dĩ nhiên, bạn cũng công nhận với tôi rằng, lao đông là:

Để xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn
Tất cả mọi công việc đều trực tiếp hay gián tiếp xây dựng thế giới này ngày một tốt đẹp hơn. Từ anh nông dân trên cánh đồng đến chị công nhân nơi xưởng thợ, từ phu quét đường, đến bác sĩ, kỹ sư… tất cả đều đang góp phần kiến tạo thế giới này.
Tuy nhiên, chúng ta cũng nhận ra rằng có rất nhiều việc làm đang phá hủy thế giới. Điều này rất cần con người phải ý thức từng hành vi cử chỉ, từng việc làm nhỏ nhất của mình, tất cả đều gây âm hưởng và tác động đến người khác, đến thế giới. Chúng ta nên nhớ rằng mục đích của lao động là sáng tạo, là xây dựng chứ không phải là phá hủy. Và cuối cùng, có người xem lao động như là cách thức đáp trả một lời mời gọi.

Để đáp trả lời mời gọi
Nhiều người xem lao động không đơn giản là công việc, nhưng coi đó như ơn gọi của mình. Một khi coi lao động như một ơn gọi, bạn sẽ có thái độ hoàn toàn khác với mọi công việc, bạn sẽ không bị cuốn hút bởi ma lực của đồng tiền, của tham vọng… vì điều thiện ích, bạn làm để phục vụ, để xây dựng, để trao ban.
Chính nhờ sự trao ban này, bạn càng lớn lên trong nhân cách, trong sứ mạng của một người Kitô hữu. Sống là đón nhận đồng thời cũng là biết cho đi. Lao động là cách thức bạn sống và cho đi đích thực, là cách bạn đang đáp trả lời mời gọi yêu thương.

QUAN NIỆM CỦA Kitô giáo VỀ LAO ĐỘNG
Chân giá trị của lao động
Lao động có giá trị rất lớn khi đáp ứng được những nhu cầu con người, khi mục đích của nó là đóng góp cho những công thiện, công ích và ki con người lao động được đối xử với lòng trân trọng. Như Đức Gioan Phaolô II đã nói:
“Nền tảng để xác định giá trị việc làm cảu con người không chủ yếu dựa trên loại công việc đó”(Thông điệp “Về việc lao động của con người”, số 6).

Lao động là tham dự vào công việc sáng tạo của Thiên Chúa
Truyền thống Kitô giáo luôn quan tâm đến ý nghĩa và chân giá trị của lao động. Lao động là đề tài đầu tiên được đề cập trong Kinh Thánh. Trình thuật về sáng tạo được ghi lại trong Sách Sáng Thế ngay ở chương đầu tiên, và đề cao vai trò cộng tác của con người:
“… Thiên Chúa ban phúc lành cho họ và Thiên Chúa phán với họ: Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất”(St 1,28).
Như thế, ngay từ đầu, đã có lao động; con người đã được trực tiếp cộng tác vào công trình tạo thành của Thiên Chúa. Trình thuật Sách Sáng Thế tiếp tục Mạc khải cho chúng ta thấy sự khốn khổ của con người khi rơi vào thảm họa tội lỗi, công việc bá chủ cá biển chim trời của con người trở nên khó khăn hơn, họ phải lao động cực nhọc để kiếm của nuôi thân, để sống và tồn tại. Thiên Chúa phán: “Ngươi sẽ phải đổ mồi hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về đất, vì từ đất ngươi đã được lấy ra…”(St 3,19). Từ đây con người dễ mang ác cảm về lao động, cho rằng lao động như một hình phạt; thực ra, từ nguyên thủy, bản chất của lao động, của sáng tạo là rất tốt đẹp. Và như vậy lao động là niềm vinh dự được cùng sáng tạo, cùng làm việc với Thiên Chúa. Trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa có việc Người tạo dựng chúng ta, như vậy khi lao động chúng ta cũng góp phần kiến tạo chính bản thân mình, giúp cho mình ngày càng thành toàn hơn. Không có công việc nào là xấu, là thấp hèn nếu mục đích của nó là kiến tạo cuộc sống, phục vụ cho ích chung, nâng cao phẩm giá con người. Một lần nữa nhắc lại tư tưởng của Đức Giáo Hoàng Phaolô II, giá trị của lao động không hệ tại ở việc làm, nhưng hệ tại ở chính chỗ con người làm công việc đó.

Đức Giêsu, con người của lao động
Lúc sinh thời, Đức Giêsu đã nói: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5,17). Cả cuộc đời của Đức Giêsu là hành động, từ những ngày thầm lặng nơi xưởng mộc Nadaret, đến những lúc bôn ba rao giảng Tin Mừng. Người trở nên gương mẫu cho cuộc đời cần lao. Đức Giêsu ý thức rất rõ sứ mạng cao cả của mình, Người làm việc không ngơi nghỉ: “Tôi còn phải rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho nhiều thành khác nữa, vì tôi được cử đến chính vì mục đích đó”(Lc 4,43).
Các môn đệ của Đức Kitô cũng vậy, các ông luôn hăng hái nhiệt thành loan truyền Tin Mừng Nước Thiên Chúa, và đỉnh cao của các ngài là hiến tế chính mạng sống vì Tin Mừng, vì ơn Cứu độ nhân sinh.

Giáo Hội xác định giá trị của lao động
Xác định giá trị của lao động là một thành phần trong truyền thống Kitô giáo kể từ thánh Phêrô cho đến Đức Giáo Hoàng Phaolô II. Trong Thông điệp “Về việc lao động của con người”, Đức Thánh Cha dạy rằng qua công việc, con người trở nên người hơn. Người còn nói thêm, công việc có giá trị vì qua đó, chúng ta được tham dự vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Xác định giá trị việc làm của con người, Đức Thánh Cha nhắc đến văn kiện của Công đồng Vatican II “Giáo Hội trong thế giới ngày nay”. Trong văn kiện này, các Giám mục trên thế giới công bố rằng trách nhiệm của người Kitô hữu là xây dựng chứ không phải lẩn trốn hay bỏ mặc thế giới.
Theo quan niệm chung của Kitô giáo, lao động có khả năng kiến tạo thế giới và đem lại sự thịnh vượng cho đời sống con người. Nói tóm lại, lao động mang một ý nghĩa sâu sắc.

Việc làm và ý nghĩa
Hầu hết mọi công việc đều có ý nghĩa và có khả năng diễn tả công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Chúng ta có trách nhiệm làm cho công việc trở nên có ý nghĩa. Cũng một công việc, nhưng mỗi người mặc cho nó một ý nghĩa khác nhau. Một khách bộ hành dừng chân hỏi thăm ba người thợ đục đá: “Các anh đang làm gì vậy?”
“Đập chút đá dăm ấy mà”, người thứ nhất trả lời.
Anh thứ hai bảo: “Kiếm gạo đấy bố ạ!”
Người thứ ba lại nói: “Xây nhà thờ chánh tòa đấy.”
Thì ra cùng một công việc mà mỗi người làm với một mục đích khác nhau, và như vậy nó mang một ý nghĩa rất chủ quan, tương đối.
Công việc có thể có ý nghĩa đối với chúng ta theo hai cách: một là loại công việc, hai là cách thức làm việc.

Loại công việc
Phần lớn các công việc đều có ý nghĩa, mang lại lợi tức cho con người và xây dựng thế giới, ngay cả những công việc không trực tiếp phục vụ những nhu cầu cần thiết của con người. Không nhất thiết tất cả chúng ta phải là bác sĩ, kỹ sư, việc làm của chúng ta mới có ý nghĩa. Xét về ý nghĩa cao cả, công việc của người phu quét đường và ông bác sĩ đều cần thiết và cao trọng như nhau. Tuy nhiên cũng cần phân biệt:
-Công việc tích cực: Đó là những công việc kiến tạo sự sống, xây dựng cuộc đời, nâng cao phẩm giá con người, nói chung là công việc dẫn đến chân, thiện, mỹ.
-Công việc tiêu cực: Đó là những công việc phá hủy sự sống, hạ thấp phẩm giá con người. Ví dụ như công trình chế tạo vũ khí hạt nhân, những lò hơi ngạt, hay ngay cả những nhà máy sản xuất thuốc lá, bao nguy cơ về bệnh tật: ung thư, tim mạch, hô hấp… tiềm ẩn trong điếu thuốc lá này. Có những công việc không trực tiếp phá hủy sự sống, nhưng nó bào mòn dần, và làm cho con người không sống tròn đầy được.
-Công việc làm mất phẩm giá của chính người lao động; chẳng hạn việc làm phạm pháp như trộm cướp, giết người, mại dâm… những việc làm này trực tiếp phá hủy nhân cách và phẩm giá con người. Không thể sống đẹp, sống tròn đầy bằng những công việc như thế. Chúng ta bàn đến khía cạnh thứ hai là:

Cách thức làm việc
Có ba khía cạnh giúp chúng ta làm thế nào đạt được hiệu năng công việc đó là: quan tâm đến chất lượng, quan tâm đến người khác, và quan tâm đến những người cộng tác với chúng ta.
-Quan tâm đến chất lượng: Quan tâm đến chất lượng là yếu tố trong mọi công việc; đặc biệt trong lãnh vực sản xuất, kinh doanh, chất lượng phải là tiêu chuẩn hàng đầu. Nhiều công ty bị phá sản vì chất lượng kém. Trong thế giới vàng - thau lẫn lộn, thật - giả chẳng biết đâu mà phân biệt, thì chúng ta cần phải quan tâm đến yếu tố chất lượng nhiều hơn nữa.
-Quan tâm đến người khác: Công việc sẽ trở nên ý nghĩa hơn nữa nếu ta không tập trung vào mình nhưng quan tâm đến người khác, vì người khác. Yếu tố này người ta đã khai thác triệt để trong lãnh vực kinh doanh: “khách hàng là thượng đế”. Tuy nhiên, vì do ma lực của đồng tiền, rất nhiều “thượng đế” bị lừa. Một khi biết quan tâm đến người khác, là bạn đang làm việc với động cơ tốt nhất.
-Quan tâm đến người cộng tác với chúng ta: Công việc phải làm nảy sinh tinh thần hiệp nhất, công tác làm việc với nhau và cùng hướng đến điều thiện ích. Chúng ta trưởng thành hơn trong đời sống tương quan xã hội, tương quan hiệp thông, khi chúng ta cộng tác làm việc đắc lực được với nhiều người. Chính lúc này cái tôi được bào mòn, gọt dũa tròn trịa hơn, có khả năng lắng nghe nhiều hơn, và như thế chúng ta đang tiến nhanh tiến trình thành nhân vậy.

CHỌN LỰA CÔNG VIỆC CHO CUỘC SỐNG
Có lẽ đây là điều bạn đang quan tâm, làm sao chọn cho mình một công việc phù hợp. Có người lao vào công việc chỉ vì kế sinh nhai; có người gắn bó với một công việc cả đời, và cha truyền con nối; có người xoay chuyển bách nghệ mà cũng chẳng thấy vinh thân. Thực ra, định hướng công việc ban đầu cho cả cuộc sống của mình là điều rất quan trọng. Đồng ý rằng chúng ta có thể thay đổi công việc, nhưng có lẽ điều ông bà ta dạy từ xưa vẫn còn rất đúng: “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”. Khuynh hướng xã hội ngày nay cũng vậy, người ta cần những chuyên viên hơn; cũng là bác sĩ, nhưng phải là bác sĩ chuyên khoa! Chính vì vậy, bước đầu tiên, chúng ta cần:

Chọn lựa sự nghiệp
Một vài gợi ý dưới đây như những phiến đá nhỏ lót đường để chúng ta mạnh dạn bước vào cuộc sống.

Lượng định chính mình
Người ta thường bảo: “Liệu cơm gắp mắm”. Đây cũng là một điều rất thực tế. Ai mà chẳng có cao vọng, chẳng muốn mình thành đạt ở địa vị cao trong xã hội; thế nhưng nhiều người lại thiếu có thực tế, không biết lượng định chính mình xem có đủ điều kiện để theo đuổi mục tiêu đó hay không. Nói vậy, không có nghĩa là làm cho nản lòng chiến sĩ, nhưng để chúng ta nhìn thấy vấn đề thực tế rõ nét hơn. Một khi biết được mình, biết những sở trường, sở đoản, chúng ta sẽ có những chọn lựa phù hợp và đúng đắn.

Sự thích thú
Một yếu tố không kém phần quan trọng là công việc chọn lựa phải là công việc bạn thích thú. Ngạn ngữ Pháp có câu: “Vouloir c'est pouvoir” - “muốn là được”. Nhiều bậc cha mẹ ép buộc con cái theo ngành nghề mình thích, mà lại không quan tâm xem con cái có yêu thích nghề ấy không. Cuối cùng con cái rơi vào tình trạng căng thẳng, dồn nén, chỉ để vui lòng cha mẹ. Chính chúng ta phải khám phá thực sự mình thích điều gì, từ sự thích thú, bạn có thể tìm tòi, học hỏi và dễ thành công trong công việc mình chọn.

Tính cách riêng
Mỗi người có một tính cách khác nhau, và mỗi tính cách phù hợp với một loại hình công việc. Làm sao để nhận rõ ra tính cách của mình? Có bao giờ bạn cảm thấy mình chỉ thích thú làm việc với một loại đối tượng nào đó thôi không? Có người thích thú làm việc với máy móc, có người say mê với những dữ kiện, số liệu. Nếu bạn thuộc vào típ người thứ nhất, bạn có thể chọn lựa cho mình những công việc như kỹ sư, tài xế…; nếu bạn thuộc típ người thứ hai, bạn có thể chọn ngành giáo dục, bác sĩ, hay thương mại; còn bạn thuộc típ thứ ba, bạn thích hợp với công việc sổ sách kế toán, in ấn hoặc thống kê chẳng hạn. Thực ra, cũng khó xác định bạn hoàn toàn thuộc típ người nào, có thể bạn vừa thích cái này lại thích cái khác nữa. Điều quan trọng là công việc bạn chọn phù hợp với khả năng và sở thích của bạn, có thể tương đối thôi. Bạn hãy để hết tâm trí vào công việc đó, cơ hội thành công đang chờ đón bạn.

Năng khiếu
năng khiếu cũng đóng một vị trí quan trọng trong việc định hướng nghề nghiệp. Nhiều người có năng khiếu bẩm sinh, đó là quà tặng quý giá của Thượng Đế. Đồng ý rằng thiên tài phần lớn do nỗ lực, nhưng năng khiếu là bước dậm chảy ban đầu giúp bạn nhảy xa hơn, mạnh hơn.
Bạn không thích, lại cũng không có năng khiếu về âm nhạc, thì cho dù học mãi, bạn cũng chỉ trở thành “thợ nhạc” mà thôi.
Khi phát hiện mình có năng khiếu gì, bạn nên quan tâm đến điều ấy hơn và làm cho phát triển. Thiên tài chính là biết phát triển đúng mức những năng khiếu của mình.

Không rập khuôn
Bạn phải chọ công việc chính bạn muốn chứ không phải để người khác hay xã hội chọn dùm cho bạn. Sống rập khuôn là đánh mất chính mình, và làm thui chột những tài năng quý báu. Bạn phải là bạn chứ không phải là ai khác, mỗi người là một ngôi vị độc đáo và riêng biệt. Chọn lựa công việc cũng chính là cách thức thể hiện con người của bạn. Có thể cùng một công việc, nhưng mỗi người làm việc với một cách thức khác nhau, tâm tình khác nhau và tất nhiên hiêu quả cũng khác nhau. Trong cái khác biệt này, sự độc đáo của mỗi người được tỏ lộ.

Gặp gỡ những người có cùng mối quan tâm với bạn
Sự gặp gỡ trao đổi sẽ mở mang thêm tầm nhìn của bạn, là cơ hội để bạn trao đổi và học hỏi lẫn nhau. Nên tâm niệm rằng, nơi bất cứ người nào cũng có điều gì đó hay chúng ta cần học hỏi. Trở về với định hướng ban đầu, một tâm hồn cởi mở, không tự mãn sẽ có khả năng dung nạp nhiều cái mới. Đặc biệt trong lãnh vực nghề nghiệp, kinh nghiệm giữ một vai trò quan trọng. Từ hiểu biết về lý thuyết đến kinh nghiệm thực tế còn là một chặng đường khá dài, bài học này không gì hơn là học hỏi người có kinh nghiệm đi trước chúng ta; và rồi chính bản thân, chúng ta phải rút tỉa được kinh nghiệm đó.

Thử nghiệm công việc
Làm sao để có thể biết được đâu là công việc hoàn toàn phù hợp với bạn? Thiết nghĩ ngoài những việc gợi ý trên bạn đã làm, bạn cần phải dấn thân cụ thể; có trải qua kinh nghiệm bạn mới có thể đánh giá được công việc một cách chính xác. Vào những dịp nghỉ hè, hay khoảng thời gian nào đó thuận tiện, bạn có thể bắt tay vào làm những công việc cụ thể, nhiều bài học rất bổ ích bạn học được mà không sách vở hay trường lớp nào cung cấp đủ.
Có rất nhiều lãnh vực để chọn lựa; và cũng lưu ý rằng có khi những việc thử nghiệm ban đầu lại có duyên gắn bó mãi và trở thành công việc bạn yêu thích. Một trong những cơ hội để thử nghiệm công việc là bạn tình nguyện dấn thân vào những công tác xã hội, nhận dạy lớp học tình thương, thăm viếng bệnh nhân trong bệnh viện…; nhưng công việc tình nguyện này có sức mạnh rất lớn làm triển nở nhân cách và cũng giúp chúng ta định hướng công việc trong cuộc sống.

Phát triển những kỹ năng nghề nghiệp
Để trở thành một người thợ lành nghề, bạn rất cần để ý phát triển ít là hai kỹ năng này: kỹ năng chuyên môn liên quan đến công việc, và khả năng thích ứng.

Kỹ năng chuyên môn
Mỗi công việc đòi hỏi một kỹ năng riêng biệt; do vậy, rất cần kỹ năng chuyên môn. Đành rằng vị giáo sư và ông bác sĩ đều giỏi, đều miệt mài đèn sách sáu bảy năm trời, nhưng mỗi người lại ở mỗi lãnh vực, mỗi chuyên môn khác nhau; nên không thể bắt bị giáo sư đi khám bệnh còn ông bác sĩ lên lớp dạy học được. Bạn muốn là thợ lành nghề, thì không thể miễn chuẩn cho mình khả năng chuyên môn này. Tuy nhiên, kỹ năng sau đây được đề cập lại như một điều nghịch lý đối với bạn:

Kỹ năng thích ứng
Chuyên môn và thích ứng dường như trái ngược nhau. Một đàng đòi hỏi sự chuyên biệt, một đàng đòi hỏi sự tổng quát, có thể thích ứng với mọi hoàn cảnh. Lẽ thường sự đời cũng lắm trớ trêu, nhiều khi bạn phải lãnh trách nhiệm, làm những công việc không phải chuyên môn của bạn.
Thế đấy, cứ khư khư chờ đợi phải có việc đúng chuyên môn bạn mới làm, thì e rằng bạn để vượt qua nhiều cơ hội. Khả năng thích ứng lúc này là cần thiết. Có lẽ bạn đã từng gặp chuyện giáo viên chuyên dạy văn bắt đi dạy toán; tốt nghiệp Học viện âm nhạc về, trường phân bổ cho dạy lịch sử… Thật là chuyện khôi hài nhưng có thật. Biết đâu trong hoàn cảnh một xã hội thay đổi chóng mặt như hiện nay, thì khả năng thích ứng vẫn là tấm thẻ thông hành để bạn bước vào cuộc sống.
Như vật, có lẽ bạn phải thủ đắc cả hai kỹ năng tưởng chường như đối lập này, thiết nghĩ sẽ chẳng bao giờ thừa trong gói hành trang vào đời của bạn.

KẾT LUẬN
Đứng trước viễn ảnh một thế giới toàn cầu hóa, nỗi ám ảnh thất nghiệp như một đám mây u ám bao trùm bao lớp trẻ, đặc biệt là giới trẻ ở những nước đang phát triển và chậm phát triển. Cơ hội nghề nghiệp như một đề tài nóng bỏng cho giới trẻ chúng ta hôm nay. Ai cũng lo làm thế nào để có một công việc tốt, một công việc ổn định cho cuộc sống.
Tuy nhiên, mối quan tâm của chúng ta không chỉ dừng lại ở một số công việc vì kế sinh nhai, nhưng còn là định hướng cho cả cuộc đời. Đi tìm ý nghĩa cuộc đời qua công việc mình chọn lựa, và ngược lại chính công việc làm cho cuộc đời chúng ta trở nên ý nghĩa.
Công việc đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện cuộc sống của chúng ta, làm sao sống mạnh, sống đẹp, sống có ý nghĩa. Đối với chúng ta công việc không phải chỉ là công việc, mà còn hơn thế nữa, nó là cuộc sống, là sự hiện hữu của mình, là công trình sáng tạo; Thiên Chúa trao vào tay mỗi người cây cọ, mỗi chúng ta có trách nhiệm vẽ nên cuộc đời của mình, vẽ nên thế giới này với những gam màu tươi sáng, hài hòa và sống động hơn.

TIỀN BẠC KHÔNG MUA ĐƯỢC HẠNH PHÚC

Có lẽ chúng ta đã rất quen với câu ngạn ngữ này: “Đồng tiền là tên đầy tớ tốt nhưng lại là ông chủ hà khắc”. Nếu chúng ta coi đồng tiền là phương tiện, thì tiền bạc rất hữu ích, là tên đầy tớ phục vụ chúng ta trong mọi công việc; nhưng nếu chúng ta coi đồng tiền là mục đích thì hỡi ôi, đã bao lần người ta sẵn sàng làm tất cả để đạt được mục đích này; tiền bạc trở nên ông chủ khắc nghiệt, tàn nhẫn, vùi dập cuộc đời ta. Vì đồng tiền, người ta sẵn sàng làm tất cả, bán rẻ lương tri, tán tận lương tâm của mình. Có lẽ chúng ta từng chứng kiến bao cảnh thương tâm, gia đình tan nát, huynh đệ tương tàn cũng vì sự tác oai tác quái của đồng tiền. Nếu mượn lời của thi hào Nguyễn Du ví von lúc này cũng có thể diễn tả được điều gì đó:
“Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.

ĐẶT ĐỒNG TIỀN ĐÚNG VÀO VỊ TRÍ CỦA NÓ
Việc chọn lựa và sử dụng tiền bạc là thách đố khôn cùng. Sống trong thế giới thời mở cửa, nền văn hóa hưởng thụ đang kích thích sự them khát của con người, bạn có thể dễ dàng nói “không”? Trong một thế giới đồng tiền đang được thượng tôn, đang là chìa khóa vạn năng có thể mở ra nhiều cánh cửa của cuộc sống, nhiều bậc thang giá trị bị đảo lộn, và người ta cứ ảo tưởng một âm vang ngọt ngào rót vào tai mỗi ngày: “Có tiền là có tất cả!”
Sự thực có phải là như thế?
 Biết thế nào là đủ?
Nhu cầu của con người thì vô chừng, biết thế nào là đủ! Nhà Nho Nguyễn Công Trứ quan niệm:
“Tri túc, đãi túc, tiện túc, hà thời túc,
Tri nhàn, đãi nhàn, tiện nhàn, hà thời nhàn”
Tạm dịch là:
“Biết là đủ, cho là đủ, thì nó là đủ
Biết là nhàn, cho là nhàn, thì nó là nhàn”.
Thì ra cái đủ của con người rất chủ quan, rất tương đối; nó phụ thuộc vào quan niệm và sự chọn lựa của bạn. Vốn thói đời, túi tham vẫn vô đáy, “có voi” lại “đòi tiên”, sở hữu bằng nào vẫn chưa đủ. Của cải lúc này không còn phải là một thứ nhu cầu cần thiết để sống nữa, không còn phải là phương tiện phục vụ cho cuộc đời, cho hạnh phúc nhân sinh nữa, mà nó biến thành ngục thất nhốt kín con người lại, ở trong đó con người lấy tự do của mình đổi lấy sự khoái lạc được sở hữu và những nỗi lo lắng, chỉ lo ngay ngáy trong lòng có ngày tiền bạc đội nón ra đi, chỉ sợ sự an toàn của mình bị phá vỡ.
Thực ra, tiền bạc chẳng bao giờ là sự an toàn cả. Chúng ta cần tiền bạc để trao đổi, để phục vụ cho đời sống; tự bản chất, tiền bạc không có gì là xấu. Tiền bạc trở nên xấu hay tốt là do con người sử dụng. Nếu bạn làm chủ được những nhu cầu của bạn, bắt đồng tiền phục vụ cho sự công bằng, lòng nhân ái, cho công thiện công ích, thì tiền bạc là người bạn thân, và lúc này bạn thực sự biết thế nào là đủ đối với bạn. Con tim sẽ mách bảo cho bạn biết phải làm gì với số tiền bạn có.

Những tham vọng thái quá
Cũng như tiền bạc, tham vọng tự nó chẳng có gì đáng trách; điều đáng nói ở đây là những tham vọng thái quá, người ta tìm mọi cách để đạt cho bằng được, kể cả những cách thức xấu xa nhất.
Có nhiều người lầm tưởng chiều cao hạnh phúc được đo bằng những hố sâu tham vọng được lấp đầy. Thực ra khát khao có bao giờ được hoàn toàn thỏa mãn. Giáo lý nhà Phật coi đây là căn nguyên của khổ lụy, muốn hạnh phúc phải triệt tiêu mọi tham vọng, mọi ước muốn, phải buông xả, phải lìa tất cả. Hạnh phúc không hệ tại ở những gì mình có, hạnh phúc không thể đổi chác hay mua bán bằng tiền bạc. Bạn có thể trang bị cho mình đầy đủ tất cả mọi tiện nghi, nhưng biết đâu tâm hồn bạn vẫn trống vắng, không thể lấy chi lấp đầy; và có lẽ lúc này chúng ta mới hiểu đối chút tại sao văn hào Nga, Lev Tolstoi, lại nói: “Con người sống bằng tình yêu”. Giả như bấy lâu nay thế giới trong tôi là thế lực của đồng tiền lên tiếng, thì trong khoảnh khắc tĩnh lặng nào đó, hãy để cho tình yêu ngỏ lời, biết đây những sợi dây tham vọng thái quá sẽ chùng lại, sự quân bình tràn trề và cung đàn hạnh phúc lại ngân lên. Nếu bạn đồng ý với tôi, cùng đích cuộc đời chúng ta là hạnh phúc, thì kinh nghiệm ngàn dời và sự khôn ngoan đích thực mách bảo cho chúng ta rằng những tham vọng thái qua chẳng bao giờ có thể dẫn đến nguồn hạnh phúc đích thực.

CẠM BẪY CỦA VIỆC SỞ HỮU TIỀN BẠC
Chúng ta rất dễ dàng ảo tưởng về tiền bạc và việc sở hữu, dễ có những lầm lẫn; do vậy rất cần phải phân biệt giữa ước muốn và nhu cầu, giữa quan niệm của xã hội và giá trị nội tại của sự vật, giữa việc tiêu xài và sự tự do.

Sự lẫn lộn giữa ham muốn và nhu cầu
Nhiều khi chúng ta rất dễ dàng đồng hóa ham muốn và nhu cầu là một. Thực ra, hai lãnh vực này có sự khác biệt rõ ràng.
Ham muốn của chúng ta có thể vươn đến vô cùng; có thể liệt kê ra đây hàng loạt ham muốn mà không phải chỉ riêng của tôi hay của bạn: Ham muốn được thành đạt ở địa vị cao trong xã hội, được mọi người yêu quý trọng vọng; ham muốn có thật nhiều tiền của, có nhà lầu xe hơi, có vợ đẹp con khôn… và có những ham muốn chẳng bao giờ đạt được. Còn nhu cầu, có lẽ khiêm tốn hơn; nhiều khi người ta bị cuốn hút vào nhu cầu giả tạo hơn là thỏa mãn nhu cầu thực sự của bản thân mình. Ví dụ lúc bạn đang đói, bạn cần có thức ăn; bạn đang khát, bạn cần có nước uống; bạn đang mỏi mệt, cần được nghỉ ngơi, đó là những nhu cầu thực sự cần thiết; nhưng chỉ cần bạn thay đổi một chút như: đói, nhưng phải đi ăn ở nhà hàng đặc sản, kiếm chút rượu Tây giải khát, và thuê đỡ căn phòng ở khách sạn năm sao để nghỉ ngơi… thì lúc này bạn đã đáp ứng quá mức nhu cầu của mình rồi; đó là nhu cầu giả tạo, là lòng ham muốn. Bạn ạ, một lần nữa chúng ta lại thấy lòng ham muốn thì vô chừng.
Điều quan trọng chúng ta phải phân định đâu là nhu cầu thực sự cần thiết cần phải đáp ứng, đâu là nhu cầu giả tạo đang đòi hỏi được thỏa mãn cái tôi ích kỷ của mình. Sống tròn đầy là sống thật, đáp ứng những nhu cầu thật và cũng biết khước từ thật! Khước từ lại là một cách tuyệt vời có thể ngăn chặn bớt những hố sâu tham vọng không làm cho nó tiếp túc bị bào mòn, tiếp tục thẳm thẳm hơn. Nhiều khi sự thỏa mãn về thể chất lại tỷ lệ nghịch với những sung mãn của tinh thần. Khi mọi nhu cầu của thân xác quá đầy đủ, coi chừng tâm hồn lại bị khoét sâu trong sự trông vắng ý nghĩa sống, trống vắng đời sống tinh thần. Một tâm hồn đói khát, cho dù thân xác có no thỏa thì cũng chẳng bao giờ có thể gọi là cuộc sống tròn đầy được.

Sự lẫn lộn giữa quan niệm xã hội và giá trị nội tại sự vật
Đành rằng sự vật có giá trị do quan niệm xã hội mặc cho, đồng tiền đơn giản chỉ là mảnh giấy, nhưng vì được xã hội công nhận nên có giá trị. Tuy nhiên, mỗi sự vật đều có giá trị nội tại của nó. Đặc biệt khi áp dụng cho con người, chúng ta không thể đánh giá một ai chỉ theo quan niệm xã hội, theo những gì người ấy sở hữu, theo cách thức người ấy tiêu xài. Mỗi người đều có giá trị tuyệt đối.
Cơn cám dỗ lớn của thời đại chúng ta là dễ dàng đánh giá người khác theo hiệu năng công việc, theo những gì người ấy sở hữu. Kiểu đánh giá này dễ dàng dẫn đến một thái độ loại trừ, khinh miệt, gạt ra bên lề những con người thấp cổ bé miêng, không địa vị, không tiền của…
Mặt khác, quan niệm của xã hội không phải lúc nào cũng nhất quán, bậc thang giá trị nhiều khi bị đảo lộn; bên cạnh đó còn biết bao áp lực khác ảnh hưởng đến; do vậy nếu không tỉnh táo, chúng ta rất dễ mắc phải sai lầm nghiêm trọng.

Sự lẫn lộn giữa tiêu xài và sự tự do
Muốn đánh giá đúng giá trị sự vật, giá trị một con người, chúng ta phải vượt qua hàng rào định kiến (dù là của xã hội hay là của riêng chúng ta), phải nhìn với tâm hồn trong sáng và óc phán đoán bén nhạy, phải nhìn sự vật như là sự vật, không trát phấn, tô màu.
Xã hội chúng ta đề cao việc tự do chọn lựa, điều này dễ gây rao ảo tưởng rằng việc mua sắm tiêu xài là một cách thức diễn tả sự tự do của mình. Tuy mua sắm là một hình thức tự do chọn lựa, nhưng đó là một khía cạnh rất giới hạn về tự do: tự do như một khả năng chọn lựa giữa muôn ngàn chọn lựa.
Nếu chúng ta quan niệm ý nghĩa sâu xa của tự do như một khả năng để cân nhắc, phản hồi, đặt vấn đề, quyết định và hành động một cách có trách nhiệm, thì quan niệm về tiêu xài mua sắm như thế, thay vì đề cao sự tự do, đã phá hủy mất sự tự do rồi.
Rất nhiều người không phải vì nhu cầu, nhưng có cái thú mua sắm. Nguy cơ cho ai không kiềm chế được việc tiêu xài quá độ của mình, tự do của họ bị bào mòn, họ bị lôi cuốn vào lối sống duy vật chất, thực dụng. Họ khó kháng cự lại những cám dỗ ngọt ngào, tự do bị thử thách mỗi ngày. Trên phương tiện thông tin báo chí, truyền thanh, truyền hình, nhiều sản phẩm được phơi bày kích thích lòng ham muốn của các “thượng đế”. Tất cả đều để phục vụ con người, giúp con người sống tốt hơn, nhưng mặt trái, nó cũng có thể biến con người thành một thứ nô lệ cho hưởng thụ, nô lệ cho một thứ tự do biến chất của mình.
Bên cạnh thú tự do mua sắm, có người còn nuôi tham vọng “làm giàu cấp tốc” bằng bài bạc, số đề… những hình thức này càng hạ thấp giá trị lao động của con người và bào mòn nhân cách cũng như tự do của họ. Đã vậy, họ còn làm khổ bao người khác, nhất là những người kề cận ruột thịt của mình. Có khi cả năm ky cóp vất vả, ăn chẳng dám ăn, mặc chẳng dám mặc, thế mà chỉ qua vài ván đỏ đen, của vợ công chồng đều tiêu ma hết. Điều chắc chắn, đây không phải là lối sống đẹp, nhưng là một lối sống vỡ vụn, không thể tròn đầy được.

HƯỚNG ĐI CỦA NGƯỜI KYTÔ HỮU: VẠCH TRẦN NHỮNG ẢO TƯỞNG
Bạn và tôi đang được mời gọi vạch trần những ảo tưởng, những cạm bẫy hào nhoáng của tiền bạc và việc sở hữu tiền của. Tin Mừng trình bày cho chúng ta một lối sống dẫn đến tự do, thoát khỏi vòng lẩn quẩn của ảo vọng, dĩ nhiên muốn sống được sự tự do đích thực này, chúng ta phải chấp nhận lột xác và mở lòng ra để đón nhận Ân sủng.

Hãy cảnh giác với sự giàu có
Thánh Phaolô, khi viết thư cho người môn đệ của mình là Timôthê, đã vạch ra cho thấy mối nguy hại của giàu có, và khuyên người môn đệ của mình chọn lựa một cuộc sống thanh đạm, khước từ những nhu cầu giả tạo. Lời chỉ bảo của thánh nhân còn rất hữu ích cho mỗi người chúng ta hôm nay:
“Đã hẳn, việc giữ đạo là nguồn lợi lớn đối với những ai lấy cái mình có làm đủ. Quả vậy, chúng ta đã không mang gì vào trần gian, thì cũng chẳng mang gì ra được. Vậy nếu có cơm ăn áo mặc, ta hãy lấp thế làm đủ, còn những kẻ muốn làm giàu, thì sa chước cám dỗ, sa vào cạm bẫy và nhiều ước muốn ngu xuẩn độc hại; đó là những thứ làm cho con người chìm đắm trong cảnh hủy diệt tiêu vong”(1Tm 6,6-10).
Quả thực, chúng ta vào trần gian với đôi bàn tay trắng, và khi vĩnh biệt cuộc đời, kết quả con người lại trở về trắng tay. Thánh Giacôbê cho thấy rõ sự bấp bênh và chóng qua của tiền bạc và cũng cho thấy sức mạnh hủy hoại của nó. Ngài cảnh cáo những người giàu có:
“Giờ đây, hỡi những kẻ giàu có, các ngươi hãy than van rên rỉ về những tai họa sắp đổ xuống trên đầu các ngươi. Tài sản của các ngươi đã hư nát, quần áo của các ngươi đã bị mối ăn. Vàng bạc của các ngươi đã bị rỉ sét; và chính rỉ sét ấy là bằng chứng buộc tội các ngươi; nó sẽ như lửa thiêu hủy xác thịt các ngươi”(Gc 5,1-3).
Kinh Thánh mở ra cho chúng ta thấy mối bận tâm sâu xa của con người về tiền bạc và việc sở hữu. Mặc dù giàu sang tự nó không xấu, nhưng vì của cải dễ làm mờ mắt con người, làm họ không còn nhận ra được chân giá trị đích thực và bám víu vào của cải như là cứu cánh đời mình, thay vì tin tưởng phó thác cho tình thương quan phòng của Thiên Chúa. Con người dễ núp bóng trong tiền của như là sự bình an giả tạo, chạy trốn tự do, và chạy trốn cả Thiên Chúa; chính vì vậy, chúng ta mới hiểu điều đã được Mạc khải trong Kinh Thánh: người nghèo vì họ biết mình không tự xoay sở được đời mình và họ cần Thiên Chúa; còn người giàu có thì cứ nghĩ mình sẽ làm được tất cả, Thiên Chúa không có chỗ đứng trong cuộc đời của họ.

Quà tặng tự do
Tự do là món quà cao quý nhất Thiên Chúa trao vào tay con người. Sứ điệp Kitô giáo cũng nhắn nhủ chúng ta phải giữ mình tự do, đừng bao giờ để mìn trở thành nô lệ cho của cải vật chất. Hơn ai hết, Đức Giêsu hiểu rõ cạm bẫy tiền của:
“Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được”(Mt 6,24).
Cuộc đấu tranh bản thân với cơn cám dỗ tiền của thật không đơn giản. “Vũng lầy êm ái” người ta lại cứ thích ngả vào, và càng khó hơn khi tiền của đội lốt tự do, con người tôn thờ nó lúc nào cũng không hay nữa.

Một cách thức mới hướng tới việc sở hữu
Theo cái nhìn Kinh Thánh, tất cả mọi sự trên thế gian này, trước tiên và sau cùng, đều thuộc về Đấng Tạo Hóa. Trái đất và tất cả những gì trên trái đất đều là của Chúa. Thánh Giáo phụ Cyprianô nói với chúng ta: “Tất cả những gì thuộc về Chúa, thì cũng thuộc về mọi người”. Trong Thông điệp “Về quyền lao động của con người”, Đức Giáo Hoàng Phaolô II nhắc lại lời của Thánh Giáo phụ Cyrianô khi ngài viết: “Quyền sở hữu riêng tư phụ thuộc vào quyền sử dụng chung, vì của cải là tài sản chung của mọi người”(số 14). Quan niệm về cách sở hữu tài sản như thế sẽ dẫn đến một số hệ luận:
-Quyền hành đối với tài sản riêng không phải là thứ quyền tuyệt đối; những gì chúng ta có đều do lãnh nhận từ Thiên Chúa, và chúng ta có trách nhiệm phải sinh ích cho mọi người. Chúng ta không được tự do sử dụng những gì mình đang sở hữu để làm phương hại đến tha nhân hoặc trái đất này.
-Việc tích lũy của cải của một số người trên thế giới này đã phản bội lại ý nghĩa quà tặng của Đấng Sáng Tạo.
Như vậy, với quan niệm của Kinh Thánh, của cải trên thế giới này là tài sản chung của mọi người, người Kitô hữu chúng ta được mời gọi sở hữu của cải trong tinh thần mới, tinh thần chia sẻ, giản dị và bình đẳng.

Tinh thần chia sẻ
Tinh thần chia sẻ là một trong những nét đặc sắc của Kitô giáo, đó là lòng bác ái, và hơn nữa, đó là cách thể hiện niềm tin. Sách Công vụ Tông đồ cho chúng ta thấy các tín hữu thời sơ khai đã sống triệt để tinh thần này: “Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mọi người tùy theo nhu cầu”(Cv 2,44-45). Và kết quả xem thấy là: “Trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn”(Cv 4,34). Đây là một nếp sống hết sức lý tưởng và trở thành gương mẫu để cho chúng ta sống sao cho cân bằng, hợp lý.

Sự cân bằng
Ngay từ buổi sơ khai, cộng đoàn các môn đệ Đức Giêsu là cộng đoàn chia sẻ huynh đệ. Và đây cũng là điều các cộng đoàn tín hữu tiên khởi không khỏi bận tâm, họ sống trong sự giằng co, do dự. Côrintô là một thành phố cảng giàu có, thế mà các Tông đồ dạy họ phải chia sẻ, hạn chế quyền sở hữu; thật là một thách thức không nhỏ! Thánh Phaolô đã viết trong thư hướng dẫn cộng đoàn này sống tinh thần bác ái:
“Vấn đề không phải là bắt anh em sống eo hẹp để cho người khác bớt nghèo khổ. Điều cần thiết là phải có sự đồng đều. Trong hoàn cảnh hiện tại, anh em có được dư giả, là để giúp những người đang lâm cảnh túng thiếu, để rồi khi được dư giả, họ cũng giúp đỡ anh em, lúc anh em lầm cảnh túng thiếu. Như thế sẽ có sự đồng đều, hợp với lời đã chép: kẻ được nhiều thì không dư, mà người được ít thì không thiếu”(2Cr 8,13-15)
Và cũng trong lá thư này, đoạn khác thánh nhân nhắc nhở phải chia sẻ nhưng với tấm lòng vui tươi chứ không phải là miễn cưỡng: “Mỗi người hãy cho tùy theo quyết định của lòng mình, không buồn phiền, không miễn cưỡng, vì ai vui vẻ dâng hiến thì được Thiên Chúa yêu thương”(2Cr 9,7).
Điều quan trọng chúng ta thấy ở đây, tất cả mọi việt làm phải xuát phát từ đức ái, không thể có sự áp đặt hay miễn cưỡng; chúng ta cũng thế, một khi chia sẻ, hãy làm với lòng hân hoan, vì cũng có lời rằng: “Cho thì có phúc hơn nhận”.

Người anh em trong cơn hoạn nạn
Ngạn ngữ Anh có câu: “A friend in need is a friend in deed” - “Bạn khi hoạn nạn mới là bạn thân”. Tuyền thống Việt Nam cũng mang đậm những nét tinh túy và yêu thương như thế:
“Một miếng khi đói bằng một gói khi no”
Hay: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”.
Chỉ xét trên bình diện con người, lòng bác ái tự nhiên cũng không cho phép chúng ta lãng quên người anh em trong cơn hoạn nạn; hơn thế nữa, lòng bác ái Kitô giáo lại không dạy chúng ta phải yêu thương người đồng loại như chính mình sao?
Thánh Giacôbê dạy chúng ta không những phải chia sẻ cho người nghèo mà còn phải yêu thương và kính trọng họ (Gc 2,1-9); chính thái độ yêu thương kính trọng này là một lời tuyên xưng Đức tin cụ thể và sống động nhất:
“Thưa anh em, ai bảo rằng mình có Đức tin mà không hành động theo Đức tin, thì nào có ích gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: ‘hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no’, nhưng lại không cho những thứ thân xác họ cần, thì nào có ích lợi gì? Cũng vậy, Đức tin không có hành động quả là Đức tin chết.”(Gc 2,14-17).

Tinh thần giản dị
Một đặc tính khác của cách thức Kitô hữu sở hữu của cải đó là tinh thần giản dị. Đời sống giản dị không có nghĩa là bần cùng đói rách, không phải là cung túng cái nghèo. Tinh thần giản dị chính là lối sáng đạm bạc, sống những nhu cầu tối thiểu, khước từ xa hoa phung phí và hoàn toàn tin tưởng phó thác vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa. Một trong những nét của tinh thần giản dị là trung dung.

Trung dung
Trung dung nghĩa là vừa đủ, không thừa, không thiếu. Lời sách Châm Ngôn sau đây mô tả cho chúng ta một lối sống trung dung, quân bình:
“Xin đừng để con túng nghèo,
Cũng đừng cho con giàu có;
Chỉ xin cho con cơm bánh cần dùng,
Kẻo được quá đầy dủ,
Con sẽ khước từ Ngài mà nói:
“Đức Chúa là ai vậy?”
Hay nếu phải túng nghèo,
Con sinh ra trộm cắp,
Làm ô danh Thiên Chúa của con.”(Cn 30,8-9)
Trung dung là nhân đức trong cuộc sống!

Sống giản dị, tự do
Sống giản dị là một nếp sống quân bình, không dư thừa cũng không thiếu thốn, có tâm hồn hào phóng và nồng nàn, lấy sự sung mãn của người khác làm niềm vui của mình hơn là cứ loay hoay tích cóp. Lý tưởng là vậy, nhưng thể hiện điều này thật không chút dễ dàng. Chúng ta phải phân định đâu là nhu cầu thực sự cần thiết, đâu là điều xa hoa phung phí, và đâu chỉ là trò lố bịch.
Hơn nữa, lối sống giản dị cũng đòi hỏi chúng ta phải có tinh thần cởi mở, phóng khoáng, hành động có chọn lựa, chư không kéo lê đời mình theo những ham muốn hay muôn ngàn thứ mà ngôn ngữ quảng cáo bày ra.
Ngày nay, chúng ta đang sống trong một thế giới choáng ngợp những ngôn từ mơn trớn, ru ngủ, kích thích sự thèm khát của con người, và hàng loạt sản phẩm tung ra như muốn thỏa mãn cơn thèm khát tưởng là chính đáng đó. Thực ra, con người có thể lạc vào mê hồn trận, đánh mất tự do của mình lúc nào không biêt. Với lối sống tự do của bậc thánh hiền, của người quân tử, những ngôn ngữ thực dụng như trên thật xa lạ với họ. Còn chúng ta thì sao?

Sự công bằng
Một đặc tính khác trong cung cách của người Kitô hữu sở hữu của cải đó là quan niệm về đức công bằng. Trong nhãn quan Thiên Chúa, mọi người đều bình đẳng, đều được hưởng trọn vẹn tình yêu thương. Với cái nhìn Đức tin, không thể có sự phân biệt đối xử, phân cấp sang - hèn, giàu - nghèo. Thánh Giacôbê, trong thư gởi cho cộng đoàn tín hữu, ngài viết:
“Thưa anh em, anh em đã tin vào Đức Kitô, Chúa chúng ta, là Chúa vinh quang, thì đừng đối xử thiên tư. Quả vật, giả như có một người bước vào nơi hội họp, tay đeo nhẫn vàng, áo quần lộng lẫy, đồng thời có một người nghèo khó, ăn mặc tồi tàn, cũng bước vào, mà anh em kính cẩn nhìn người ăn mặc lộng lẫy và nói: ‘Xin mời ông ngồi vào chỗ danh dự này’, còn với người nghèo, anh em lại nói: ‘Đứng đó!’ hoặc ‘Ngồi dưới bệ chân tôi đây!’, thì anh em đã chẳng tỏ ra kỳ thị và trở thành những thẩm phán đầy tà tâm đó sao?... Đã hẳn, anh em làm điều tốt, nếu anh em chu toàn luật Kinh Thánh đưa lên hàng đầu: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Nhưng nếu anh em đối xử thiên tư, thì anh em phạm một tội và bị Lề luật kết án là kẻ vi phạm”(Gc 2,1-4; 8-9).
Một lần nữa chúng ta nhắc lại giới luật căn bản của người Kitô hữu là yêu thương tha nhân như chính mình; và hơn nữa yêu thương tha nhân như chính Chúa yêu ta, đây phải là sợi chỉ hồng thống nhất, xuyên suốt đời sống chúng ta.

KẾT LUẬN
Trong thế giới quyền lực, đồng tiền đóng vai trò sức mạnh. Thế lực đồng tiền đang khuynh đảo cả bộ mặt thế giới này. Bao nhiêu giá trị sống bị lật nhào và được xếp bậc theo những gì bạn đang sở hữu. Dù muốn dù không, bạn vẫn phải nghe mãi những lời đường mật: “Sống là hưởng thụ!”. Ngôn ngữ quảng cáo hứa hẹn cho bạn một thiên đường tại thế tuyệt vời với điều kiện bạn chấp nhận được tôn là thượng đế!
Đó có phải là sức mạnh của chúng ta? Sức mạnh của chúng ta có lẽ phải là sức mạnh phi quyền lực, sức mạnh tình thương, sức mạnh trao ban và chia sẻ.
Chúng ta được trao ban tự do, tự do để chọn lựa kho tàng đích thực. Lời Đức Giêsu dạy bảo chúng ta thật là thấm thía:
“Anh em đừng tích trữ cho mình kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư mất, nơi kẻ trộm khoét vách và lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, nơi kẻ trộm không đào ngạch mà lấy đi được. Vì kho tàng của anh ở đây thì lòng anh ở đó”(Mt 6,19-21).

NHỮNG NỖI ĐAU NGỌT NGÀO

Nói đến thân phận con người, chúng ta không thể không nói đến đau khổ, chán nản, thất vọng… Những nỗi đau này có ý nghĩa gì không? Đau khổ từ đâu mà đến? Con người phải có thái độ nào đối với đau khổ?... Những dòng suy tư này phần nào gợi mở một hướng đi cho các vấn nạn muôn thuở đó.

“TRẢI QUA MỘT CUỘC BỂ DÂU”
Triết lý nhà Phật bảo: “đời là bể khổ”. Đau khổ là những tiếng chẳng dễ nghe chút nào. Người ta hết sức tìm cách để tránh đau khổ, và ngay cả tránh nghĩ về đau khổ. Nhưng nào có ai tránh khỏi đau khổ trên đời; đau khổ như người bạn không mời mà đến. Đau khổ thường xảy đến với hình thức, thường là những mất mát, thua thiệt.

Những mất mát cần thiết
Mang thân phận con người, chúng ta phải chấp nhận giới hạn, chấp nhận mất mát trong cuộc sống. Và sự mất mát lớn nhất có lẽ là cái chết. Suy nghĩ về những mất mát không thể tránh khỏi này, chẳng lẽ chúng ta không rút ra được kinh nghiệm nào sao? Những mất mát, đau khổ, cũng có những cấp độ khác nhau:
-Khi ra khỏi cung lòng mẹ, một nơi êm ấm và an toàn, bạn phải đối diện với một thế giới lạnh lẽo và đầy bất trắc.
-Khi cắp sách đến trường, bạn phải rời bỏ môi trường thân thương của gia đình.
-Khi là một sinh viên, bạn phải chấp nhận từ bỏ những cuộc chơi, những ngày tự do rong ruổi.
-Khi chuyển đến một môi trường khác, bạn lại phải nói lời chia tay với những người thân, những bạn bè, và có khi hiếm cơ hội nào bạn gặp lại được họ.
-Khi giã từ tuổi hồng để bước vào xã hội với tư cách một người trưởng thành, bạn để ại sau lưng bao kỷ niệm hồn nhiên của một thời thơ ấu.
Và càng lớn lên, bạn càng có nhiều kinh nghiệm với những mất mát khác. Qua mỗi biến cố của cuộc sống, bạn có thể gọi tên từng nỗi mất mát của mình đã trải qua, có khi là tê tái đau khổ. Một phút trầm lặng, bạn sẽ thấy cuộc đời là một chuỗi mất mát như thế, những mất mát giúp ta trưởng thành và nên người hơn. Chúng ta không tránh né, nhưng biết đối diện, đón nhận, và đọc ra ý nghĩa những mất mát trong cuộc sống. Con tằm không chui ra khỏi kén, chẳng bao giờ có thể hóa bướm, có thể bay xa, bay cao và thưởng thức hương sắc cuộc đời. Bạn và tôi, mỗi người đã và đang đi vào hành trình đó.

Những đau khổ dường như vô nghĩa
Điều khó khăn là nhiềukhi chúng ta phải đối diện với những đau khổ dường như vô nghĩa và điên rồ. Chẳng hạn như:
-Cha mẹ quá đau buồn, hối hận về cái chết của con mình chỉ vì một chút bất cẩn.
-Cô thiếu nữ phải mang mãi trong lòng nỗi đau trầm cảm với bao biến cố dồn dập mà không sao giải thích nổi.
-Bao nhiêu người, trong chốc lát, phải chết cháy một cách thảm thương, không ai còn nhận dạng được nữa…
Còn nhiều nỗi đau dường như vô nghĩa và điên khùng như thế nữa. Đau khổ như một mầu nhiệm nằm sâu ngay trong thân phận con người. Đối diện với đau khổ như thế, nhất là với cái chết thê thảm, thật khó ai có thể cầm lòng, bình tĩnh; có chăng chỉ còn là thái độ chia sẻ, cảm thông, thinh lặng. Nhiều khi người ta dễ dàng đưa ra lời an ủi rẻ tiền, rỗng tuếch, mang đầy vẻ đạo đức: “Thiên Chúa không để ai gánh nặng quá sức mình đâu” hoặc “Thiên Chúa chỉ thử thách bạn chút xíu thôi mà”… những kiểu nói như thế vô tình gán cho Thiên Chúa một trái tim chai đá, một Thiên Chúa thích thú với nỗi đau của người khác, thách thức người khác. Đổi lỗi cho Thiên Chúa có lẽ không phải là thái độ tích cực lúc này. Thiên Chúa không hề là tác nhân của sự dữ.

Một cảm giá hoàn toàn sụp đổ
Dẫu biết rằng để trở nên một con người tròn đầy thì phải kinh qua nhiều đau khổ. Nhưng sự thường, người ta dễ thấy mình hoàn toàn sụp đổ, dường như không thấy một tia sáng nào le lói trong đống đổ nát đen tối đó. Một thần học gia khi viết về đau khổ đã giải thích điều này:
“Đau khổ thường kéo theo nhận thức của con người về một sự sụp đổ kinh khủng. Đó là nỗi buồn đi liền sau những biến cố, và nó đe dọa sự nguyên vẹn, sự thông hiệp… của con người; người ta co cụm lại, rút vào vỏ ốc của mình.”(Nelson, Body Theology, P.125).
Khi chúng ta đau khổ tột cùng, thế giới chung quanh dường như sụp đổ tất cả, tất cả trở thành thừa thãi vô nghĩa. Nếu thi vị như nhà thơ Nguyễn Du thì: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Nếu không là những người trong cuộc, chúng ta không thể cảm nhận hết được nỗi đau của người khác; tệ hơn nữa còn là kẻ bàng quan trước nỗi đau mà người khác dường như không sao mang vác nổi. Nỗi đau không phải là điều có thể miêu tả, mà cần phải cảm thông, phải đụng chạm tới.
Đứng trước huyền nhiệm về sự đau khổ như thế, có lẽ mỗi người chúng ta không khỏi đặt câu hỏi: Tại sao? Tại sao điều đó lại xảy ra, tại sao con người lại phải đau khổ như thế? Tại sao người đau khổ lại là tôi?...

MỘT VẤN NẠN LỚN: TẠI SAO?
Nguyên nhân đau khổ
Những qui luật tự nhiên
“Dưới bầu trời này, mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời”(Gv 3,1). Chính cái “lúc”, cái “thời” đó là nguyên nhân gây bao đau khổ cho con người. Nào là hạn hán, mất mùa, thiên tai, lụt lội, núi lửa, động đất… những điều này xảy ra ngoài tầm dự kiến, ngoài khả năng chống đỡ của con người. Thiên nhiên vẫn biến chuyển từng ngày từng giờ, và luôn luôn có những bất trắc. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận rằng, con người đã tác động một phần rất lớn lên môi trường thiên nhiên, nên nhiều khi chính mình phải gánh chịu hậu quả. Đúng là “gậy ông đập xuống lại dần lưng ông”.
Nhiều khi đau khổ ngay trong tiến trình phát triển của con người, bóng tối nằm ngay dưới đế đèn đang chiếu sáng. Nếu có một mùa xuân cuộc đời đầy vui tươi tăng trưởng, sức khỏe dẻo dai thì cũng có một mùa đông tuổi già, bệnh tật, mệ mỏi… Nếu xét đau khổ như một sự khiếm khuyết, sự bất toàn, thì điều đó nằm sâu ngay trong thân phận của mỗi chúng ta. Và có lẽ, đỉnh cao là cái chết, điều mà không ai có thể từ chối và trốn tránh khỏi.

Những chọn lựa của con người
Một nguyên nhân khác có thể gây đau khổ đó là những chọn lựa của con người. Có những chọn lựa làm cho cá nhân đau khổ, nhưng cũng có những chọn lựa lmà cho cả tập thể đau khổ, hay cả xã hội đau khổ. Ví dụ: có người chỉ biết chọn lựa của mình, không cần quan tâm đến ai, trái tim băng giá, sống thờ ơ, lãnh đạm… đó là nguyên nhân gây đau khổ cho chính bản thân người ấy (có thể họ cảm thấy mình bị cô lập, cô đơn…) và gây đau khổ cho người khác nữa.
Có chọn lựa gây đau khổ khôn lường. Ví dụ: bạo lực, lạm dụng tình dục trẻ em, hiếp dâm, giết người, phá thai, diệt chủng, bóc lột sức lao động… và còn muôn vàn chọn lựa khác nữa chống lại phẩm giá, nhân phẩm, chống lại quyền căn bản nhất của con người.
Có chọn lựa gây hậu quả xấu về mặt luân lý, và có chọn lựa gây tác hại cả về mặt thể lý nữa. Ví dụ: biết rằng hút thuốc lá không có lợi cho sức khỏe, nhưng con người vẫn vui vẻ đốt cuộc đời mình trên đầu điếu thuốc. Hệ quả thế nào, bạn đã rõ! Hệ quả là không thể hoàn toàn đổ lỗi cho sự may rủi, nhưng chính con người phải có trách nhiệm trên cuộc đời mình. Hoặc chúng ta từng chứng kiến bao tai nạn khủng khiếp, đau thương, nào có phải tất cả là ngẫu nhiên đâu, nhiều khi do con người bất cẩn, cẩu thả, thích làm anh hùng xa lộ… hậu quả không ai lường hết được.
Như vậy, nỗi đau như một điều bất chợt luôn rình rập chúng ta, dù là tự nhiên may rủi hay do chính con người chọn lựa. Vấn đề đau khổ vẫn là điều nóng bỏng chúng ta cần tìm hiểu.

Có phải Thiên Chúa cho phép xảy ra đau khổ?
Là người có Đức tin, chúng ta có thể nhìn vấn nạn “tại sao có đau khổ?” dưới một khía cạnh khác: Phải chăng Thiên Chúa lại cho phép đau khổ xảy ra như thế? Nếu Thiên Chúa là Đấng tốt lành và quyền năng, tại sao Ngài lại để một đứa trẻ sơ sinh chết vì bệnh AIDS ngay khi lọt lòng mẹ, sao Ngài không chữa căn bệnh ung thư nơi bà mẹ đang cho con bú, sao Ngài không ngăn chặn cô bé mười mấy tuổi đầu thất vọng đến nỗi tự tử?... Hay là Thiên Chúa chẳng tốt lành và Ngài cũng chẳng có quyền năng?
Có lẽ đây không phải là câu hỏi mới mẻ gì, từ ngàn xưa con người đã đặt ra các vấn nạn như thế! Trong Kinh Thánh Cựu ước, chúng ta cũng bắt gặp những tư tưởng tương tự như vậy:
“Lạy Chúa, sao Chúa nỡ đứng xa
Ngày khốn quẫn, sao Ngài đành ẩn mặt?” (Tv 10,1)
“Mắt của Ngài thật quá tinh tuyền, không thể chịu được điều gian ác. Ngài không thể nhìn xem cảnh khốn cùng, tại sao Ngài cứ đứng nhìn quân phản bội, sao Ngài lặng thinh, khi kẻ gian ác nuốt chửng người chính trực hơn mình?” (Kha-ba-cúc 1,13)
Và còn nhiều câu chất vấn như thế nữa vang vọng trong Kinh Thánh. Thiên Chúa dường như vẫn lặng thinh không đáp trả? Thiên Chúa thích im lặng!
Vào thế kỷ XX, Thiên Chúa dường như bỏ mặc cho sự ác, sự đau khổ hoàn hành qua biến cố Shoah đau nhói: Hitler và Đức Quốc Xã tiêu diệt hàng ngàn người. Elic Wiesel là nhân chứng sống đọng về sự kiện này. Khi ấy còn là một thiếu niên, cậu bị Đức Quốc Xã bắt cùng với gia đình và một số người Do thái ở thị trấn Roma nhỏ bé, tống vào xe chở xúc vật và đưa đến trại tập trung chờ chết. Họ bị bỏ đói, đánh đập đến nỗi mất trí nhớ, may thay Wiesel còn sống sót.
Lục lại ký ức kinh hoàng của thời niên thiếu, ông kể lại cách thức dã man bọn Đức Quốc Xã đã hành hình ba tội nhân - hai người đàn ông và một cậu bé. Bọn lính ra lệnh cho các tù nhân khác chăm chú nhìn các nạn nhân đang bị treo cổ, và sau đó đi diễu hành qua những thân thể họ. Wiesel còn nhớ rõ:
“Một dấu hiệu ở đầu phát ra, ba chiếc ghế lật nhào. Toàn trại tập trung bao trùm sự im lặng đáng sợ. Ở cuối chân trời hừng đông vừa ló dạng. Hai người đàn ông chết trước, lưỡi căng phồng, lè ra, tím ngắt. Người thứ ba vẫn còn động đậy; thì ra cậu bé chưa chết. Quằn quại trên sợi dây thòng lọng cả nửa tiếng sau cậu mới chết được.
Phía sau, tôi nghe một giọng nói đàn ông:
‘Thiên Chúa đâu rồi?’
Đêm ấy, trong bát cháo, tôi thoảng và tôi nghe như có tiếng trả lời câu hỏi đau xót đó:
‘Thiên Chúa ở đâu ư? Ngài đang hiện diện ở đây, Ngài đang bị treo trên cái giá treo cổ đó…’
Thấy mùi tử thi. Tôi thốt lên giận dữ: ‘Lạy Chúa, Ngài làm trò gì vậy? Ngài không thấy nỗi đau khổ của đám dân này? Họ đã tin vào Ngài, sao Ngài để họ giận dữ, nổi loạn, thất vọng? Ngài là Đấng cao cả, là Chúa của vũ trụ mà phải chấp nhận yếu đuối, bị xỉ nhục, và bị giết chết như thế này sao?”
(Xc. Elic Wisel, Night, New York: Bantam Books, 1960, tr. 61-63)
Qua biến cố Shoah, vấn nạn tại sao Thiên Chúa lại để cho những sự dữ xảy ra, vẫn là điều bí ẩn.
Gần chúng ta hơn, biến cố 11-09-2001 ở Mỹ, Trung Tâm Thương Mại thế giới bị khủng bố, hàng ngàn người thiệt mạng; còn ở Việt Nam, ngày 29-10-2002 cuộc hỏa hoạn khủng khiếp xảy ra ở Trung Tâm Thương Mại Quốc Tế, hàng trăm người thiệt mạng, có người cháy đen không còn có thể nhận diện. Sự dữ và đau khổ vẫn là nỗi ám ảnh con người.

Thiên Chúa muốn tôi phải đau khổ?
Cách chung, người ta thường nhìn đau khổ như cách thức Thiên Chúa thử luyện con người. Sự giải thích này đem lại nguồn an ủi nào đó cho những người đang gặp mất mát, tuy nhiên cũng dễ làm cho người ta hiểu Thiên Chúa như một người nhỏ mọn, ích kỷ.
Thiên Chúa của Kinh Thánh, Thiên Chúa của Mạc khải, không hề muốn con người hải đau khổ. Thiên Chúa chúc lành cho Abraham, để qua ông một dòng dõi đông đúc ra đời. Thiên Chúa đã cứu Môisê, và qua Môisê, dân được giải thoát khỏi ách nô lệ Aicập. Thiên Chúa ban lề luật để hướng dẫn dân. Ngài yêu thương mọi người, đặc biệt là những cô nhi, quả phụ. Thế nhưng con người khước từ Thiên Chúa, và như thế con người đau khổ. Các ngôn sứ đã cảnh báo dân về hành vi xấu xa của họ, hành vi này tự bản chất sẽ dẫn con người đến khổ đau. Thiên Chúa đã nói qua miệng ngôn sứ Isaia: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ”(Is 49,15).
Thiên Chúa như người mẹ hiền, chẳng lẽ Người lại gởi đau khổ đến thử thách chúng ta hay sao?
Kinh Thánh cho chúng ta thấy dân Israel thường kêu cầu Thiên Chúa khi họ gặp thử thách, gian nan và thậm chí có khi họ còn kêu trách Thiên Chúa nữa. Tuy nhiên, sâu xa họ vẫn nhận thấy rằng Thiên Chúa hằng nâng đỡ, yêu thương và quan phòng họ.
Thánh Vịnh 22 là một điển hình. Mở đầu là lời than trách Thiên Chúa:
“Lạy Chúa con thờ, muôn lạy Chúa
Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con sao?
Dù con thảm thiết kêu gào
Nhưng ơn Cứu độ nơi nao xa vời”.
Sau những lời kêu than đó, tác giả lại kêu cầu Thiên Chúa và xin Thiên Chúa Cứu độ mình:
“Chúa là sức mạnh con nương
Cứu mau, lạy Chúa, xin đừng đứng xa.
Xin cứu mạng khỏi sa lưỡi kiếm
Gỡ thân con thoát miệng cho rừng
Khỏi nanh sư tử hãi hùng
Phận hèn khốn khổ thoát sừng trâu điên.
Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa
Cho anh em tất cả được hay
Và trong đại hội dân Ngài
Con xin dâng tiến một bài tán dương”.
Tác giả Thánh Vịnh có thể cảm thấy mình hoang mang, nhưng luôn luôn gắn bó với Thiên Chúa và biết rằng Người luôn yêu thương và đồng hành với mình.
Tóm lại, Thiên Chúa không hề muốn con người phải đau khổ. Đôi khi, chính con người gây đau khổ cho mình, có khi vì chọn lựa sai lầm của bản thân, có khi phải hứng chịu hậu quả do việc làm của người khác… Thế nhưng, những điều đó xảy ra, không có nghĩa là Thiên Chúa muốn con người phải đau khổ.

Đừng đổ lỗi cho Thiên Chúa
Để hiểu được vai trò của Thiên Chúa trong nỗi đau khổ của con người, có lẽ chúng ta phải xem lại những hiểu biết của mình về Thiên Chúa. Thiên Chúa toàn năng, phải chăng được hiểu là Người điều khiển tất cả mọi việc? Nếu Thiên Chúa toàn năng, tốt lành, điều khiển mọi chuyện, tại sao vẫn xảy ra bao điều bất công, đau khổ? Đây là câu trả lời của một Rabbi Do thái, Harold Kushner, ông đã quan niệm đau khổ đến từ những nguyên nhân tự nhiên khác.
Tại sao người lành phải chịu bao điều đau khổ? Một nguyên nhân lý giải điều này là do con người đôi khi đã sử dụng tự do của mình mà xúc phạm đến người khác. Tự do là điều cao quý Thiên Chúa ban tặng cho con người, nên dù con người có lạm dụng, Người cũng không rút lại tự do đó. Con người tự do đến độ có thể khước từ cả Thiên Chúa! Do vậy Thiên Chúa chỉ xót thương chứ không ra tay chận đứng tự do của con người (Xc. When bad things happen to good people, tr. 81).

Thiên Chúa không can thiệp trực tiếp vào những định luật tự nhiên
Từ khi tạo dựng, Thiên Chúa đã đặt để nơi thiên nhiên những định luật riêng của nó. Mặt trời là phát nhiệt và chiếu sáng; lửa có khả năng thiêu đốt… Nếu ta quan sát kỹ, dù là một sinh vật nhỏ bé nhất, ta vẫn thấy bên trong đó là một bộ máy tinh vi, Thiên Chúa đã “lập trình” sẵn cho từng loài. Và cứ theo lập trình đó, muôn sư vận hành, Thiên Chúa không trực tiếp can thiệp vào quy luật tốt lành Người đã đặt để đó.
Và như vậy, chúng ta không thể quy trách nhiệm cho Chúa về vụ động đất cả hàng ngàn người vô tội thiệt mạng, về những trận lũ lụt khủng khiếp tàn phá thiên nhiên và con người. Động đất, thiên tai lũ lụt… không phải là hành động nổi khùng của Thiên Chúa. Những điều này xảy ra là do những vận hành của quy luật tự nhiên mà thôi.
Thiên Chúa vẫn công bằng, yêu thương, không hề bất công và ruồng bỏ con người. Thiên Chúa vẫn quan tâm đến con người bằng cách cho họ can đảm để vượt qua những gian nan; và có thể qua khó khăn, lòng người sát lại gần nhau hơn (Xc. Sđd tr. 58-60)

Cuối cùng: đau khổ vẫn là một mầu nhiệm
Chúng ta có thể loại Thiên Chúa ra khỏi bức tranh ảm đạm về đau khổ, thế nhưng vấn nạn về đau khổ vẫn còn đó. Vậy đau khổ từ đâu đến?

Câu trả lời từ sách Gióp
Chúng ta trở về câu chuyện của Thánh Kinh, sự đau khổ của ông Gióp là một điển hình. Thiên Chúa không trực tiếp trả lời nguyên nhân nào Gióp đau khổ. Không phải Thiên Chúa lẩn tránh, nhưng dường như sứ điệp Kinh Thánh dẫn chúng ta đến điều cao hơn, sâu hơn: chương trình và ý định Thiên Chúa vượt quá giới hạn của con người. Khoảng cách từ con người đến Thiên Chúa là vô biên. Ngay cả những thực tại trần gian, con người còn chưa hiểu hết, huống chi là đòi hiểu chương trình của Thiên Chúa! Như vậy, vấn nạn sự dữ, đau khổ vẫn còn đó; đau khổ vẫn là một huyền nhiệm. Câu trả lời cho vấn đề là: con người tích cực, chủ động đón hận những biến cố xảy ra, và biết mở lòng cảm thông hơn với anh em đồng loại, hơn là cứ khăng khăng tìm hiểu cho được đau khổ là gì.

Không phải là tại sao, nhưng là làm gì với biến cố đau khổ
Chúng ta cùng học gương của một nữ tu Dòng Phan Sinh, Thea Bowman, một con người nổi bật về nhiều lãnh vực như thuyết trình, ca hát, giảng dạy và giảng thuyết nữa. Số phận nghiệt ngã đã khiến mang căn bệnh ung thư mãn tính. Điều đáng nói ở đây, thay vì thất vọng, chán nản, thì chị luôn vui tươi, yêu đời, và quy tụ quanh mình hàng ngàn người cùng sống linh đạo vui tươi của chị, cùng học cách thức truyền thông vẻ đẹp và sức khỏe của tinh thần Phi Châu. Không bao lâu trước khi qua đời, một phóng viên của tờ báo “Công Giáo Mỹ” phỏng vấn chị về vấn đề “tại sao con người phải đau khổ?”. Chị trả lời:
“Tôi cũng không biết nữa. Tại sao lại có chiến tranh? Tại sao có người nghèo đói? Tại sao có đau khổ? Có lẽ đó là sự khích lệ cho những ai đang phải phấn đấu để đến gần người khác, để giúp đỡ người khác, để yêu thương người khác, để được chúc lành và tiến triển trên tiến trình thành nhân. Có lẽ đó là sự khích lệ để chúng ta gặp gỡ Đức Giêsu trong thế giới của mình, để nhìn ra công việc của Người, và cảm nhận những đau khổ Người đã chịu.
Tôi biết rằng đau khổ sẽ mở ra cho chúng ta một viễn cảnh mới và giúp chúng ta nhận ra rõ hơn giá trị thực sự của mình. Đau khổ cũng giúp tôi nhận ra rõ những mối tương quan của mình… Có thể đau khổ cũng chặn đứng những bước chân của chúng ta, nhưng lại thúc đẩy chúng ta đương đầu với những thực tại trong chính bản thân và trong môi trường mình sống”.
Từ những cảm nghiệm của chị Thea, những cảm nhận xuát phát từ ranh giới mỏng manh giữa sự sống và sự chết, vấn đề đau khổ thực sự không còn hỏi là tại sao, mà là chúng ta làm gì với những biến cố đau khổ đó. Cuối cùng, đau khổ cũng không thể giải thích được. Tuy nhiên, khi chúng ta tích cực đối diện, đón nhận và để đau khổ biến đổi mình thành những con người mẫn cảm, nhân ái hơn, thì đau khổ lại trở thành khí cụ có sức mạnh Cứu độ chúng ta.

ĐỨC GIÊSU, ĐẤNG CỨU ĐỘ BẰNG CON ĐƯỜNG ĐAU KHỔ
Kitô hữu không lẩn tránh, nhưng đối diện với đau khổ và coi đau khổ như trung tâm của mầu nhiệm vượt qua, mầu nhiệm vượt qua và Phục sinh vinh hiển. Người Kitô hữu tin rằng, qua mầu nhiệm này chúng ta được Cứu độ, được cứu khỏi tội lỗi và quyền lực của sự dữ, được chung hưởng vinh quang bất diệt.

Lòng trắc ẩn của Đức Giêsu
Đức Giêsu không muốn con người phải đau khổ. Trong suốt hành trình thi hành sứ mạng, Người luôn cố gắng đẩy lui mọi đau khổ nơi con người. Đức Giêsu trích dẫn lời ngôn sứ Isaia, và nói cho dân chúng biết, những lời đó nay đã được ứng nghiệm, Người chính là Đấng Thiên Chúa sai đến:
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi,
vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi,
để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.
Người đã sai tôi đi
công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha,
cho người mù biết họ được sáng mắt,
trả lại tự do cho người bị áp bức,
công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4,18)
đau khổ của con người đã đụng chạm đến lòng thương cảm của Đức Giêsu. Người đã chữa lành cho người bị bại tay (Mc 3,5), đã chữa lành cho nhạc mẫu ông Phêrô (Mc 1,30-31),đã cho người phong hủi được sạch (Mc 1,41-42), Đức Giêsu luôn “chạnh lòng thương” những ai đau khổ. Tình thương luôn đi trước, luôn thắng thế, vượt qua mọi rào cản và có sức giải phóng con người.
Đức Giêsu đã tự đồng hóa mình với đám lê dân, với người thấp cổ bé họng, những kẻ đói khát, tù tội, bệnh tật (Mt 25,31-46). Đây là những người đầu tiên được Cứu độ, được nghe loan báo Tin Mừng. Đức Giêsu căn dặn các môn đệ: “Dọc đường, anh em hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần, anh em hãy chữa lành những người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ” (Mt 10,7-8).

Đức Giêsu luôn đồng hành với chúng ta, ngay trong cái chết
Đức Giêsu, cả nhân tính và Thiên tính, đã chia sẻ trọn vẹn kiếp người với chúng ta. Là một con người, Đức Giêsu đã không được miễn thứ cho khỏi cô đơn, sợ hãi, bị từ chối, bị hiểu lầm, chống đối, đau khổ… và cuối cùng là cái chết. Như thế, chẳng có chi của con người còn có thể xa lạ với Người nữa. Đức Giêsu đã đồng hội đồng thuyền với kiếp người trong cõi nhân sinh này.
Nếu như cái chết là chướng kỳ ghê gớm nhất đe dọa con người, thì Đức Giêsu không những đã chọn đi qua cửa chết đó, mà còn chết một cách nhục nhã nữa. Người đã tự do đón nhận cái chết với một Tình yêu mãnh liệt. Người không hề lẩn trốn cho dù có sợ hãi, xao xuyến. Trong nỗi cùng cực nhất, con người vẫn gặp được nơi đấy người bạn đồng hành là chính Đức Giêsu.

Đời sống mới sau cái chết
Cái chết, đối với Đức Giêsu, không phải là chấm dứt tất cả. Sau khi chịu đóng đinh vào thập giá và nhận lưỡi đòng đâm thấu trái tim, Đức Giêsu cũng chỉ nghỉ yên ba ngày trong lòng đất. Cái chết và sự Phục sinh của Người chứa đựng một sự thực Cứu độ vĩ đại: ai chịu đau khổ vì Tình yêu sẽ cảm nhận một đời sống mới, một đời sống sung mãn, không phải ở cuộc đời nào khác, mà ngay ở cuộc sống trần gian này. Ai chết vì Tình yêu thì sẽ hiểu được thế nào là cuộc sống vinh quang bất diệt. “Đời sống vĩnh cửu” không phải chỉ sau cái chết, nhưng chúng ta có thể cảm nhận được ngay ở cuộc sống hôm nay.
Như vậy, ý nghĩa của đau khổ đối với mỗi Kitô hữu là: đau khổ có thể trở thành phương tiện để Cứu độ con người. Xuyên qua đau khổ, con người được biến đổi, được thăng hoa, và hoàn trọn nhân cách của mình. Vấn đề còn lại không phải là “Tại sao” chúng ta đau khổ, mà là chúng ta đã đón nhận đau khổ “như thế nào?”.
Đối với các Kitô hữu, ai biết liên kết sự đau khổ của mình với sự đau khổ của Đức Giêsu và tin rằng Đức Giêsu luôn ở bên mình trong cả những khoảnh khắc đen tối nhất, thì những nỗi đau khổ có thể biến đổi chính họ thành con người trắc ẩn hơn, sâu sắc hơn. Đối với họ, cái chết đã mất đi nọc độc, và đây chính là “giờ chiến thắng”(1Cr 15,54).

BIẾN ĐỔI SỰ ĐAU KHỔ
Thành nhân chẳng phải là tiến trình tự nhiên ắt có, mà là hoa trái trổ sinh từ những đau khổ. Thế nhưng, không phải qua đau khổ, ai cũng được thành nhân. Có kẻ đã phải ngậm đắng nuốt cay và đã ngã gục, bởi lẽ, trong đau khổ ấy vắng bóng Tình yêu. Hơn nữa, phải chấp nhận đau khổ là một thành phần trong đời sống con người, đơn giản chỉ vì không ai tránh khỏi. Có nhiều người lẩn tránh đau khổ bằng cách vùi đầu vào khói thuốc, vào men rượu, vào tình ái… Cuối cùng nỗi đau lại càng xoáy mòn sâu thêm. Thái độ tích cực có lẽ là đón nhận đau khổ và biến đổi nó, đừng để nó quật ngã mình, đừng đánh mất đi giá trị và định hướng đời mình.

Chấp hận những rủi ro
Rủi ro là điều chẳng ai mong mỏi, nhưng ai có thể từ chối được. Chấp nhận sự may rủi không phải là buông theo số phận, mà là mở ngõ lối vào và cho phép khổ đau có thể biến đổi chúng ta. Một điều thật nghịch lý: nếu muốn tận hưởng cuộc sống, chúng ta phri biết mở lòng với đau khổ; nếu muốn yêu thương, chúng ta phải chấp nhận mất mát!
Cuộc sống tròn đầy đòi hỏi chúng ta phải biết đón nhận cả những điều không hay đó. Một khi chúng ta chấp nhận đau khổ như cái giá sự hiện hữu của con người, chúng ta cần đặt vấn đề với chính bản thân: “Được rồi, tôi sẽ làm gì với nỗi khổ này đây? Làm thế nào để nỗi khổ này có thể trở thành điều tích cực cho tôi? Chúng ta không thể kiểm soát được hết những nguyên nhân gây đau khổ, nhưng chúng ta có thể chọn lựa và có trách nhiệm với chính nỗi đau của mình.

Lạc qua trong đời sống
Chúng ta thường cảm thấy chán nản, buồn sầu, tiếc nuối khi đối diện với những mất mát: một kế hoạch bị bỏ dở, một mối tương quan thân thiết bị phá vỡ, cái chết của người thân… Để phản kháng lại khoảng trống đó, người ta thường hay co cụm mình lại hoặc là giận dữ, ê chề, buông xuôi tất cả. Tất cả những thái độ đó đều tiêu cực, phá hủy sự trọ vẹn của đời sống. Cần lạc quan hơn để phát hiện ra than hồng vẫn ủ trong đống tro tàn. Đó là thái độ tích cực mỗi người cần phải có.
Chúng ta không lạc qua ngây thơ mà từ chối hay coi những biến cố đó như không xảy ra hoặc không ảnh hưởng gì tới mình. Thái độ như thế cũng dễ biến ta thành con người hời hợt, vô tình, vô cảm với cuộc sống. Như vậy ta không thể phủ nhận mất mát, nhưng không để những điều này quật ngã chúng ta.
Thế nhưng, thường khi chúng ta cố tình trốn chạy nỗi ê chề của mình, lẩn trốn người khác, và có khi lẩn trốn cả chính nữa. Hãy tập đối diện và đón nhận tất cả như một tiến trình của đời sống, một cuộc sống đích thực.

Thừa nhận những mất mát
Phần đông chúng ta hay được dạy: mất mát là điều không có thật, nó chỉ như áng mây trôi qua mà thôi; hoặc cũng chỉ như nhắm mắt nhổ cái răng sâu, thế thôi, chẳng mất mát gì. Nói như thế là không dám đối diện với sự thật. Bố tôi mất, người yêu bỏ tôi… đó là nỗi đau rất thực không thể nào phủ nhận.
Chỉ khi nào tôi dám chấp nhận sự thật về những mất mát đó, lấy khoảng cách với chính cái đang tác động lên tôi, lúc đó tôi mới có thể cảm thấy được trong nỗi đau vẫn có vị ngọt, và từ đó tôi có thể thanh thản đón nhận. Nỗi đau cũng có sức mạnh riêng của nó. Bài học quý giá ở đời, người ta ít khi có được do thành công mà phần lớn là rút ra từ những lần thất bại.

Thể hiện cảm xúc của mình
Nỗi mất mát làm nên cảm xúc con người va cảm xúc này rất cần được biểu lộ bằng một thứ ngôn ngữ riêng biệt. Nếu cảm xúc không được biểu tỏ, cứ phải dồn nén, đóng kịch, con người dễ căng thẳng, trầm cảm, bất mãn kinh niên hoặc nổi khùng, bạo lực.
Thiên Chúa tạo dựng con người với cảm xúc. Nếu chúng ta biết lắng nghe, biết trở nên “bạn hữu”, và diễn tả những cảm xúc ấy, chúng ta có thể vượt qua được nhiều bế tắc. Chối từ cảm xúc, cũng là chối từ một phần hiện hữu của mình. Bạn diễn tả cuộc đời mình thế nào, nếu không phải là bằng việc làm và cảm xúc? Những nỗi buồn vui, bình tĩnh,nóng giận… không tự nhiên đến rồi đi một cách vô thưởng vô phạt, nhưng làm nên nhân cách của chúng ta. Nếu điều này không được thể hiện đúng đắn, sẽ biến thành những vô thức đeo đẳng chúng ta mãi.

Đừng ngồi yên chờ sung rụng
Sau khi đã đối diện với nỗi mất mát và tích cực diễn tả cảm xúc của mình, chúng ta phải tiếp tục lên đường, đừng ngồi yêu chờ sung rụng, phải làm một điều gì đó để kiện toàn phần còn lại cuộc đời chúng ta. Nói như thế không có nghĩa là khi đã lên đường, nỗi đau không còn nữa. Đôi khi nỗi mất mát hằn sâu trong lòng mình, trở thành một phần của ký ức mà ta mãi phải mang theo. Tuy nhiên, biến cố đó trở nên nhẹ nhàng hơn, cho phép ta vươn mình băng tới, tương lai phía trước vẫn luôn đợ chờ. Hãy đặt ra cho mình những dự phóng và nỗ lực tìm cách thực hiện. Cuộc sống luôn năng đọng và biến chuyển không ngừng, chúng ta không được phép dừng chân tại chỗ, chỗ đất chân mình đứng hôm qua, hôm nay đã khác rồi; còn chần chừ gì nữa, cuộc sống đang mời gọi ta vươn tới.

KẾT LUẬN
Với đề tựa: “Những nỗi đau ngọt ngào”, bạn có thể cảm giác lời văn như mơn trớn bạn. Thực ra chẳng có nỗi đau nào tự bản chất là ngọt ngào cả. Tất cả mọi nỗi đau đều mang vị đắng. Bởi vậy, chẳng ai tự nhiên thích tìm đau khổ, người ta muốn trốn tránh bao nhiêu có thể. Nhưng điều người ta không tìm vẫn tự dưng mà đến. Bạn đã có kinh nghiệm về đau khổ, tôi cũng thế, đau khổ như một phần của cuộc đời ta. Dù muốn hay không, chúng ta vẫn phải đối diện. Vấn đề là ta tích cực đón nhận, và tìm ra nơi mỗi đau khổ ấy một ý nghĩa. Qua đau khổ, ta có cơ hội nhận ra điều gì là căn cốt nhất của đời mình. Cũng chính qua đau khổ, ta học được bài học trắc ẩn, cảm thông, để có thể cùng đồng hành bên người khác, cùng khao khát với họ, cùng họ xây dựng một thế giới hòa bình, huynh đệ và công bằng hơn.
Như thế, đau khổ hẳn không hoàn toàn vô ích, nhưng nó đang thanh luyện ta, và có sức mạnh Cứu độ con người. Làm sao chúng ta nhận được phúc lành ngay trong nỗi sầu đau mất mát? Làm sao chúng ta bước trọn cuộc đời với những bước xiêu vẹo, tập tễnh của phận người? Khi kinh nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa bên đời và thực sự Người đang cùng lầm lũi với chúng ta, thì chúng ta sẽ cảm nhận được trong nỗi đau có đượm vị ngọt.

SỰ DIỆU KỲ CỦA NĂNG LỰC GIỚI TÍNH

Đã đến Rôma, không ai lỡ bỏ qua việc thăm viếng nguyện đường Sixtine. Vào thế kỷ XVI, Đức Giáo Hoàng Clemente VII đã nhờ danh họa tài ba là Michel Ange vẽ một bức tranh về ngày phán xét cuối cùng trên trần của nguyện đường này.
Michel Ange đã vẽ một bức tranh rộn ràng các loại hình thể con người trần truồng, với một Đức Giêsu cũng trần truồng ở giữa họ. Ngay sau khi khánh thành, tác phẩm này đã gây ra một vụ tai tiếng lớn. Người ta không thể chấp nhận được một bức tranh lõa lồ, dung tục như vậy trong một nơi thánh thiêng. Làn sóng phản đối trong dân chúng và ngay cả trong giáo triều nổi lên kinh khủng…
Ba thế kỷ sau, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tuyên bố trong thánh lễ long trọng kết thúc công cuộc trùng tu bức tranh “Ngày phán xét”: “Nguyện đường Sixtine là một thành điện thần học về cơ thể con người (…). Chúng ta thán phúc cũng như khiếp sợ khi chiêm ngắm những thân thể này được tôn vinh, những thân thể kia bị lên án tử đời đời”.
Như vậy, cùng một vấn đề, nhưng có nhiều quan điểm khác nhau. Có được một cái nhìn đúng đắn về thân thể con người, về tính dục quả là một thử thách.

HIỂU BIẾT VỀ BẢN NĂNG GIỚI TÍNH

Bản năng giới tính thường bị coi là một điều xấu xa và cấm kỵ. Người ta tò mò khám phá, có khi thì sợ hãi trốn chạy, hoặc lại phóng túng tìm lạc thú. Bản năng là một điều sâu thẳm nơi mỗi con người, ai cũng cảm thấy, cũng có kinh nghiệm ít nhiều. Tuy nhiên, để hiểu và sống đúng với nguồn năng lực này, con người cần được khai mở, cần được giáo dục; nếu không, người ta sẽ sống với bản năng “rừng rú”, “hoang dã” của mình, và như vậy sẽ thể hiện một nhân cách méo mó lệnh lạc.
Trước tiên, chúng ta tìm hiểu vấn đề giới tính từ góc độ Thánh Kinh.

Lối nhìn của sách Sáng Thế về bản năng giới tính
Chúng ta được sáng tạo ra như những thụ tạo mang bản năng giới tính, có nam và có nữ. Chính yếu tố giới tính này nằm trong mỗi người và định hình họ là ai. Giới tính như là thành phần cơ bản, cốt yếu, trung tâm của con người, một con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa. Trình thuật Sáng Thế diễn tả: “Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ”(1,27). Như vậy, nét đầu tiên chúng ta thấy:

Con người là tương quan
Tương quan là nét độc đáo đầu tiên làm con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Ba Ngôi Thiên Chúa là tương quan, và con người “không ai là một hòn đảo”, con người là tương quan; mối tương quan đó được diễn tả rất cụ thể nơi từng người nam, người nữ; hay nói cách khác là diễn tả qua chính nét đặc trưng giới tính của mỗi người. Giống Thiên Chúa, con người được dựng nên để yêu và được yêu. Chúng ta là những con người mang giới tính không đơn giản chỉ vì đó là con đường tốt đẹp để duy trì nòi giống, nhưng bởi vì chúng ta được sáng tạo giống hình ảnh Thiên Chúa. Con người được đặt để nơi sâu thẳm lòng mình nỗi khát khao tương quan với chúng ta và với toàn bộ công trình sáng tạo của Người. Năm 1991, trong một tài liệu các Đức Giám mục Mỹ nói về giới tính, chúng ta tìm được một cái nhìn sâu sắc về tính dục hàm chứa trong trình thuật Sáng Thế:
“… Chúng tôi tin rằng bản năng giới tính của con người là một món quà của Thiên Chúa, là chiều kích nguyên sơ của mỗi con người, là sự kết hợp mầu nhiệm giữa tinh thần và thể xác, là sự tham dự vào chính sự sống và Tình yêu sáng tạo của Thiên Chúa”.
(Human Sexuality: A Catholic perspective for education and lifelong learning, p.7).
Như vậy trong khi sáng tạo con người, giới tính có thể là ý tưởng đầu tiên của Thiên Chúa. Người dựng nên con người cụ thể là nam và nữ. Theo sách Sáng Thế đoạn 1, câu 31, chúng ta được dựng nên hoàn hảo về mọi phương diện, vậy chẳng lẽ bản năng giới tính của con người lại xấu hay sao?

Quà tặng giới tính
Chương 2 sách Sáng Thế tiếp tục cho thấy rằng bản năng giới tính của con người là tốt đẹp và được Thiên Chúa chúc phúc. Thiên Chúa đã dựng nên Ađam và Evà, và: “Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt, con người và vợ mình cả hai đều trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau” (2,24-25). Ađam và Evà trải qua kinh nghiệm giới tính của mình như sự hòa hợp trọn vẹn của đời sống. Họ tận hưởng cuộc sống và mỗi người đem lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho nhau món quà Đấng Tạo Hóa trao tặng.
Và rồi tất cả chúng ta đều biết câu truyện Ađam và Evà sa ngã, mọi sự đều xáo trọn, tội lỗi len lỏi vào trần gian phá hủy cuộc sống con người, những ham muốn và khuynh hướng tính dục đã bị tội lỗi làm biến dạng. Tuy thế, chúng ta không khinh miệt bản năng giới tính của mình, nhưng khinh miệt bản năng giới tính của mình, nhưng được mời gọi để đảm nhận, thăng tiến và sống hạnh phúc nhờ vào sự trợ giúp của Ân sủng nữa.
 Nền tảng của những mối tương quan
Tôi tương quan với người khác qua chính thân xác tôi. Với cái bắt tay thân thiện, nụ cười đồng cảm, lời nói chân thành… tôi thể hiện mối tương quan cụ thể của mình với người khác. Rồi giận, rồi yêu, rồi nhớ, rồi thương… tất cả cũng chẳng là gì khác hơn là chính những biểu hiện của tôi trong nét đặc trưng giới tính của mình.
Tôi thể hiện ra mình là một người bạn, một người anh, hay một người tình; tôi vui chơi, làm việc, cầu nguyện… đó cũng là tất cả mối tương quan giữa tôi và xã hội, tôi với chính tôi, hay tôi với Thượng Đế. Tất cả như là vũ điệu làm cho cuộc sống tôi nhịp nhàng, sống động; và năng lực để tôi làm nên vũ điệu này không gì khác hơn là chính năng lực dục tính của tôi. Nếu không có năng lực này, chúng ta không thể nào tương quan được với người khác. Như thế, năng lực dục tính là kho tàng quý giá, là nền tảng xây dựng tất cả mối tương quan của chúng ta. Chính nhớ tương quan, chúng ta có thể vượt qua nỗi cô đơn và ra khỏi thế giới ích kỷ của mình để sống một cuộc sống tràn đầy và ý nghĩa.

Sức mạnh của bản năng tính dục
Chúng ta không khơi gợi, mơn trớn những cảm xúc đớn hèn ở đây khi bàn về bản năng giới tính. Đặc biệt đối với các bạn trẻ, những người đang mang giữ nguồn năng lực hăng nồng, yếu tố thể lý đang thay đổi từng ngày, các mối tương quan đang được đan dệt, nhân cách ngày càng được định hình rõ nét, thì việc hiểu rõ được bản năng giới tính cảu mình là điều rất cần thiết và đúng đắn. Làm sao để chúng ta có thể cảm nhận và có trách nhiệm với nguồn năng lực này, nguồn năng lực giúp ta định hình nhân cách và sống các mối tương quan trong xã hội.
Mỗi chúng ta đều nhận thấy rằng hấp lực của bản năng lôi cuốn con người mãnh liệt, nếu được định hướng tốt, người ta có thể trở thành thiên tài, thành bậc vĩ nhân; nếu để bản năng lộng hành theo lẽ tự nhiên, con người có thể bị biến chất, tha hóa, và trở thành những kẻ đồi bại. Nhờ sức mạnh của dục tính, người ta có thể kết hợp chung thủy với nhau suốt đời thành vợ thành chồng, và nhờ vậy mới có những gia đình hạnh phúc. Cũng nhờ sức mạnh này, người ta có thể yêu thương mãnh liệt và hy sinh cả đời mình cho người khác, cho lý tưởng. Vấn đề là làm sao chúng ta làm chủ được nguồn năng lực này, biết hướng vào mục đích tốt. Chúng ta không có con đường nào khác là phải sống chính cuộc đời của mình, với chính thân xác của mình, và thân xác đó mang bản năng tính dục như chính là quà tặng Tình yêu.

Quà tặng Tình yêu
Kinh Thánh là một tập tình thư gởi riêng cho bạn. Có lẽ bạn sẽ không nghi ngờ về sự tốt lành, và quà tặng sự sống được trao ban qua chính năng lực dục tính của bạn. Bạn sẽ chẳng biết yêu thương là gì nếu bạn không biết đón nhận quà tặng Tình yêu, mà quà tặng đó chính là nguồn năng lực quý giá của bạn. Trong Kinh Thánh, Cựu ước cũng như Tân ước, không thiếu những đoạn nói với bạn về điều đó. Chẳng hạn trong sách Châm Ngôn:
“Hãy hưởng thú vui bên người vợ son trẻ.
Nàng là nai vàng đáng yêu,
là sơn dương kiều diễm.
Ước chi tấm thân nàng
luôn làm con vui sướng thỏa thuê,
và Tình yêu nàng mãi mãi làm con ngây ngất” (Dc 5,18-19).
Và bạn có thấy đoạn tình nào cháy bỏng yêu đương như những tâm tình Diễm Ca diễn tả:
“Tiếng người yêu tôi văng vẳng đâu đây,
kìa chàng đang tới,
nhảy nhót trên đồi, tung tăng trên núi…
Người yêu của tôi lên tiếng bảo:
Dậy đi em, bạn tình của anh
người đẹp của anh ra đây nào!
Tiết đông giá lạnh đã qua
Mùa xuân đã dứt, đã xa lắm rồi.
Sơn hà nở rộ hoa tươi
và mùa ca hát vang trời về đây…
Người tôi yêu thuộc trọn về tôi,
tôi thuộc trọn về chàng”(Dc 2,8-16).
Thưa bạn, cũng cần nói ở đây kẻo có thể gây chút gì ngộ nhận: dĩ nhiên đây là những đoạn Kinh Thánh tuyệt vời diễn tả Tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại, đặc biệt là của Giavê đối với dân Israel của Người; tuy nhiên ngôn ngữ để diễn tả là ngôn ngữ của con người, ngôn ngữ của Tình yêu. Nếu Tình yêu của con người không thánh thiện, không thánh khiết, thì làm sao có thể dùng để diễn tả Tình yêu Thiên Chúa được!
Và trong Tân ước, thánh Phaolô cũng cho chúng ta cái nhìn về thân xác con người. Thân xác ấy được tạo dựng là vì và cho Tình yêu chứ không phải để phục vụ cho mục đích ích kỷ, hưởng lạc hay chà đạp phẩm hạnh của mình và của người khác. Trong thư thứ nhất gởi cho giáo đoàn Côrintô, thánh Phaolô cho chúng ta thấy sự cao trọng của thân xác:
“Anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là đền thờ của Thánh Thần sao? Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em. Như thế anh em đâu còn thuộc về mình nữa, Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa trong thân xác của anh em”(1Cr 6,19-20).
Trải qua bao thế kỷ, Giáo Hội không bao giờ khinh rẻ thân xác con người. Thân xác ấy với trọn vẹn giới tính, xung lực, và ngay cả khiếm khuyết vẫn là quà tặng tuyệt vời của Thiên Chúa, quà tặng Tình yêu.

TRÂN TRỌNG CHÍNH MÌNH VỚI GIỚI TÍNH RIÊNG BIỆT
Dù chúng ta là ai, nam hay nữ, với khuynh hướng tính dục như thế nào, chúng ta vẫn đáng được tôn trọng. Như đã phân tích ở trên, chúng ta chẳng thể là mình khi tách khỏi giới tính; chẳng thể tương quan với ai nếu không có nguồn năng lực tính dục. Biết được điều đó, chúng ta trước tiên phải tôn trọng chính mình, để rồi có thể đón nhận và tôn trọng tha nhân. Muốn được như thế, chúng ta cần:

Có cái nhìn tích cực về thân xác con người
Có cái nhìn tích cực về thân xác con người, là chúng ta cảm thấy thoải mái với chính con người của mình, đồng thời chúng ta biết yêu mến và chăm sóc thân xác chúng ta cho phù hợp.

Bằng lòng với chính mình
Nhiều khi chúng ta không cảm thấy thoải mái hay không bằng lòng với chính thân xác chúng ta đang có. Ngày nay phương tiện truyền thông với đủ mọi thứ thủ thuật quảng cáo luôn cung cấp cho chúng ta những “mẫu người lý tưởng” và tỉ mỉ liệt kê từng màu da, ánh mắt, kiểu tóc, dáng đi, số đo, trọng lượng… Điều này có thể gây cảm tưởng rằng, nếu không được như thế, chúng ta sẽ không hạnh phúc. Và người ta thấy mặc cảm, nổi loạn ngay trong thân xác của mình. Đặc biệt là phái nữ, nếu không sửa mũi, cắt mí, không “tân trang” lại con người của mình thì sẽ chẳng có giá trị gì! Và hậu quả có khi là một cái đẹp hào nhoáng, giả tạo… Có lẽ bông hoa dại ngoài đồng vẫn tỏa hương thơm và sống động hơn bông hoa giả trưng trong tủ kính!
Không phủ nhận thành tựu khoa học phục vụ hạnh phúc con người, tuy nhiên nhiều khi con người chạy theo nhu cầu giả tạo và đánh mất mình lúc nào không biết. Nên nhớ rằng, mỗi chúng ta khi được sinh ra đã là một tuyệt tác của Thượng Đế. Thánh Phaolô nói: “Thật thế, chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Giêsu Kitô, để sống và thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta”(Ep 2,10).
Qua tấm gương là Đức Giêsu, mỗi chúng ta có thể soi mình và luôn thấy mình là tuyệt vời trong kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa.

Chăm sóc thân thể
Nói rằng chấp nhận con người thật với trọn vẹn thân xác của mình, không có nghĩa chúng ta mặc kệ, bỏ bê thân xác, nhưng phải biết yêu thương, quý trọng và chăm sóc thân xác mình nữa. Một khi không biết chăm sóc cho chính mình, thì đó là dấu hiệu mình đang có vấn đề nhân cách, tâm lý hay tâm thần… và dĩ nhiên cuộc sống như thế không phải là tròn đầy, trọn vẹn.
Chăm sóc thân xác không phải là nuông chiều, tô điểm, mà là biết cách làm cho mình phát triển lành mạnh, luyện tập sức khỏe dẻo dai, điều độ trong ăn uống, ngủ nghỉ; không đắm mình trong khói thuốc, men say; không nô lệ những nhu cầu giả tạo… Nói tóm lại là có một lối sống đẹp, quân bình, có tâm hồn thoải mái, sảng khoái; bởi vì chúng ta chỉ có thể làm việc, học hành, tương quan… khi có một tinh thần minh mẫn trong một thân thể tráng kiện.

Những nét khác biệt và hòa hợp trong giới tính “Ta với mình tuy một mà hai”
Thường thì nam và nữ đều có nét đặc trưng khác biệt nhau. Người nam hay cộc cằn, ít nhạy cảm, hay lý luận; người nữ thường ngược lại. Người nam là cột trụ của gia đình, còn người nữ thì quan tâm chăm sóc con cái. Người nam thường nhìn xa trông rộng, người nữ thấy ngay điều trước mắt phải làm. Người nam thích làm kỹ sư, bác sĩ; người nữ thích lãng mạn, nghệ thuật… Sự khác biệt này không phân rẽ, nhưng bổ túc và hỗ trợ cho nhau. Ngày nay, nhiều phong trào phụ nữ đòi bình quyền với nam giới, bình quyền là điều chính đáng, nhưng không có nghĩa là cào bằng. Phải tôn trọng sự khác biệt đặc trưng của mỗi giới. Tuy nhiên, không hẳn lúc nào cũng có sự khác biệt rõ ràng như vậy, có những lúc:

“Mình với ta tuy hai mà một”
Không hẳn cứ nàm là cộc cằn, nữ là thùy mị nết na. con người vượt xa những gì là khuôn mẫ. Ngày nay, các nhà tâm lý cho thấy con người là một tổng thể hài hòa. Theo tâm lý gia Carl G.Jung, thì trong mỗi con người đều có sự pha trọn cả hai giới tính. Trong người nam có đặc tính của người nữ, và ngược lại. Một người rất nam tính nhưng cũng pha trộn chút gì đó là nữ tính; một người rất nữ tính, thùy mị, nhẹ nhàng, nhưng cũng có chút gì đó là nam nhi. Và theo triết lý Á đông, có hai nguyên lý căn bản hình thành nên thế giới là âm và dương, nhưng âm - dương không hoàn toàn cách biệt nhau, trong dương có âm, trong âm có dương.
Như vậy, sự khác biệt trong giới tính không phải làm cho người nam và người nữ đối chọi nhau, nhưng bổ túc cho nhau, làm cho nhau trở nên thống nhất, hài hòa, phong phú. Hai câu thơ của Tản Đà diễn tả điều này thật ý nghĩa:
“Mình với ta tuy hai là một
Ta với mình tuy một là hai”.

Đức Giêsu, một con người trọn vẹn
Đức Giêsu là Thiên Chúa, đã làm người và chia sẻ trọn vẹn kiếp người với chúng ta. Người Mạc khải cho chúng ta một Thiên Chúa là Cha có trái tim người mẹ. Hiện thân của Thiên Chúa là Tình yêu, là chính Đức Giêsu Con Một. Nếu như nhạy cảm, lệ rơi là đặc tính của người nữ, thì nơi Đức Giêsu, không phải Người là nam giới mà mất đi đặc điểm này. Người đã khóc thương người bạn là Lazarô đã chết (Ga 11,32-36), khóc thương thành Giêrusalem vì thành sẽ có ngày bị tàn phá (Lc 19,41)… Trái tim Người luôn thổn thức, trắc ẩn đối với những người đau khổ, bệnh tật.
Và rồi cũng có lúc, Người thể hiện sức mạnh của một bậc nam nhi: đánh đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ, mạnh mẽ lên án những người Luật sĩ và Biệt phái… Tóm lại, vì nhiệt tâm với sứ mạng và tuỳ vào từng hoàn cảnh cụ thể, Đức Giêsu đã hành xử với trọn vẹn con người của mình, vượt qua những quy luật tâm lý khuôn mẫu như người ta thường nghiên cứu, phân loại.

KHI DỤC TÍNH LỆCH LẠC
Năng lực hay sức mạnh dục tính phải được biến đổi,và thể hiện cách có trách nhiệm trong các mối tương quan và chọn lựa yêu thương. Dục tính tác động trực tiếp tới mối tương quan, tới công việc lao động sáng tạo của con người. Mất nguồn xung lực này, con người như chiếc xe hết xăng, xì lốp.
Tuy nhiên, khi chúng ta không kiểm soát được sự bột phát của xung năng, thì những đổ vỡ xảy ra nơi chính bản thân ta và nơi xã hội là điều không thể tránh được. Năng lực tính dục như con dao hai lưỡi, nó có thể bảo vệ cũng như có thể giết chết chính bạn. Tính dục không phải là một trò đùa, càng không phải là một ngày lễ nghỉ xả hơi, nhưng là chính con người chúng ta với tất cả những hành xử tự do và trách nhiệm. Chính vì quan niệm lệch lạc về tự do, con người sống phóng túng, thiếu trách nhiệm, nên hậu quả của hành vi dục tính đã phá hủy xã hội và làm tha hóa con người. Chúng ta cùng điểm qua vài nét tiêu cực này.

Những hành vi dục tính bị lên án
Chúng ta chưa xét tới khía cạnh luân lý Kitô giáo ở đây. Tội lỗi theo Kitô giáo còn mang nhiều chiều kích khác nữa, không đơn thuần chỉ là những hành vi lệch lạc bị xã hội lên án.
Hằng ngày trên báo Công an, trên những thiên phóng sự, hay nhiều điều chúng ta có thể mắt thấy, tai nghe, đó là những tệ nạn như hãm hiếp, dâm loạn, khiêu dâm, mại dâm, mang thai ở tuổi vị thành niên, lạm dụng tình dục trẻ em… Có những người cha hãm hiếp con gái, thầy hãm hiếp trò, có kẻ biến người khác thành một thứ dụng cụ để thỏa mãn thú tính của mình, có người bán trôn nuôi miệng, có kẻ bỏ tiền mua thân xác phụ nữ như một món hàng, có những “papa” lạm dụng trẻ em như một trò giải trí an toàn (“papa”: một hiện tượng xảy ra ở thành phố Hồ Chính Minh, những người nước ngoài mua chuộc các bé trai, với danh nghĩa là những “papa”, những ông bố, nhưng thực chất là lạm dụng tình dục các em). Chúng tôi không làm một thống kê xã hội ở đây với con số cụ thể rõ ràng, nhưng chỉ xin nêu lên những trường hợp điển hình cho thấy mặt trái của đời sống tính dục, hay hậu quả của một đời sống tính dục bừa bãi, thiếu trách nhiệm, lệch lạc, bệnh hoạn.
Chúng ta đề cập thêm về những hành vi lệch lạc khác:

Những lệch lạc tính dục nơi người lớn
Có thể nói, mọi lệch lạc tính dục nơi người lớn đều bắt đầu từ những lệch lạc tính dục tuổi thơ. Chúng ta có thể kể tên ra đay hàng loạt lệnh lạc đang chế ngự và bào mòn nhân cách của một số đông người: lệch lạc tính dục đồng giới (đồng tính luyến ái), thị dâm (thích ngắm nhìn thân thể người khác phái), ác dâm (phải hành hạ người khác mới thấy khoái cảm), khổ dâm (thích được người khác hành hạ), thích phô bày “của quý” của mình, thích giao hợp với thú vật, giao hợp qua hậu môn, giao hợp với trẻ em, giao hợp với xác chết, sưu tầm, sùng bái và khoái cảm với đồ lót của người khác…
Những điều trên đây được viết ra không phải để kích thích thêm tính tò mò, nhưng chỉ muốn trình bày về nhưng lệch lạc, đam mê của con người, để chúng ta có được cái nhìn toàn diện, và phấn đấu sống một cuộc sống viên mãn, tròn đầy. Xin trích lời Công đồng Vatican II nhắn nhủ chúng ta: “Không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng người môn đệ Đức Kitô”(GS. Số 1).

ĐỜI SỐNG KHIẾT TỊNH: CÁCH THỨC DIỄN TẢ TÍNH DỤC TRỌN VẸN
Với nhãn qua Kitô giáo, khiết tịnh như một nhân đức kiện toàn đời sống, và cũng là cách thức diễn tả dục tính nghiêm túc và trọn vẹn. Thường khi người ta chỉ hiểu khiết tịnh như là sự kiêng khem trong đời sống tính dục. Dĩ nhiên, trong thực tế đời sống, muốn sống khiết tịnh, đòi buộc phải nỗ lực lướt thắng những nhu cần bản năng; nhưng khiết tịnh không chỉ là thế, không chỉ là sự tiết chế, mà là một nhân đức trổi vượt hơn. Người sống ơn gọi vợ chồng, người sống độc thân như Linh mục, tu sĩ… đều được mời gọi sống khiết tịnh theo bậc sống của mình. Sự khiết tịnh bao gồm trọn vẹn đời sống con người, làm nên một sự thống nhất hài hòa giữa tâm hồn và thể xác, giữa cảm xúc và ngôn ngữ biểu hiện.

Sự nồng nàn trong thân xác và tâm hồn
Có nhiều người cho rằng khiết tịnh chẳng qua chỉ là sự dồn nén, sự chịu đựng bất đắc dĩ hay đơn giản là không có khả năng để có được một cuộc hẹn hò. Cách nhìn tiêu cực đó có lẽ không phù hợp với một số rất đông người sống đời sống dâng hiến, họ dâng trọn tâm hồn, thân xác để phục vụ con người, phục vụ Thiên Chúa, hay đơn giản là một thái độ dấn thân triệt để, say mê với một công việc nào đó, chẳng hạn như những người nghiên cứu khoa học… Giới tính không phải chỉ có một cách thể hiện duy nhất là hành vi tính giao, mà nó còn là khả năng yêu thương, cảm thông, phục vụ và hy sinh cho người khác. Người sống khiết tịnh không phải là trốn chạy chính bản năng giới tính của mình, mà là người dám dấn thân trọn vẹn cho lý tưởng sống cao đẹp.
Ở mỗi bậc sống, cách thức thể hiện khiết tịnh khác nhau. Không thể bắt những người sống đời vợ chồng giữ khiết tịnh như một bà sơ dòng kín được! Như chúng ta đã nói ở trên, tính dục không phải là điều gì xấu xa chúng ta phải lẩn tránh, nhưng đó là năng lực giúp ta biết sống yêu thương đích thực, vấn đề là biết hướng năng lực ấy vào mục đích sống cao cả. Khiết tịnh đích thực là sống hồn nhiên, nồng nàn trong thân xác và tâm hồn, biết ra khỏi sự ích kỷ của mình để biết cho đi và yêu thương thực sự.

Tại sao phải khiết tịnh?
Có thể bạn sẽ cho là ngớ ngẩn khi thực hành lời khuyên phải sống khiết tịnh! Chủ nghĩa hưởng thụ và khoái lạc không có chỗ dành cho lối sống này. Hơn nữa, dục tính cũng là một trong những nhu cầu cơ bản như ăn uống, ngủ nghỉ… nên phải đáp ứng thỏa mãn nhu cầu đó. Có thể còn nhiều quan điểm khác nữa, nhất là người trẻ chúng ta, hơn một lần cảm nhận sự thôi thúc ngay trong chính bản thân mình.
Tuy nhiên, phải nói rằng không ít người đã cảm thấy ngán ngẩm và thất vọng ê chề với những kiểu thỏa mãn “mì ăn liền”. Con người sống không phải chỉ thỏa mãn nhu cầu bản năng, vì nếu chỉ như vậy, con người không hơn gì con thú; sâu xa nơi con người là nhu cầu yêu thương, nhu cầu sống một cuộc sống tròn đầy, cuộc sống có ý nghĩa. Những đáp ứng tích dục cấp thời không phải là cách thể hiện một tình yêu sâu sắc. Bạn còn là một thanh niên độc thân, bạn muốn có một mái ấm hạnh phúc, bạn muốn trao tình yêu của mình cho người bạn đời yêu quý, hay bạn có thể tự do phung phí cho bất cứ ai bạn gặp? Bạn có gia đình, có người vợ hiền và những đứa con ngoan, bạn có muốn duy trì và vun đắp hạnh phúc ấy bằng cách thủy chung yêu thương, hay bạn có thể tan vỡ? Bạn đang dấn thân theo tiếng gọi tu trì, bạn có muốn tín trung đến cùng hay thất trung phản bội hoặc gẫy cánh giữa đường? Nghiêm túc trả lời những gợi ý trên, chúng ta thấy lý do siêu nhiên nữa. Khiết tịnh không làm thui chột đời sống chúng ta, nhưng làm cho viên mãn và có khả năng mở ra với mọi người và với vô biên nữa.

Khiết tịnh trong đời sống vợ chồng
Nhiều người lầm tưởng rằng, trong đời sống vợ chồng không thể có khiết tịnh. Khiết tịnh bậc hôn nhân cũng là một nhân đức điểm tô đời sống hạnh phúc của đôi bạn. Khiết tịnh không có nghĩa là chối từ nhau, nhưng yêu thương và thấu hiểu nhau hơn. Bởi Kinh Thánh đã nói: “và cả hai nên một xương một thịt”(St 2,24). Hơn thế nữa, đó là nên một trong Tình yêu, trong sự cảm thông, trong tâm đầu ý hợp, trong sự trao ban trọn vẹn, và trong sự hiểu biết lẫn nhau. Cái “biết” theo nghĩa Kinh Thánh là nên một, là trao thân gởi phận, là trọn vẹn cho nhau, thuộc về nhau.
Khiết tịnh vợ chồng không phải là việc từ chối ân ái, nhưng thi hành nghĩa cử ấy như đón nhận hoa trái của một Tình yêu thực sự, trong sự tôn trọng lẫn nhau, biết ơn nhau, chia sẻ với nhau mọi thành công thất bại, mọi vui buồn trong cuộc sống và biết dùng thời gian thích hợp để hai người thuộc về nhau trọn vẹn. Đây phải là giờ khắc của việc thể hiện tình yêu trong tự do của cả hai người, tự do khỏi những lo lắng mệt mỏi, khỏi áp lực của cuộc sống. Để có được tự do đó, đòi hỏi cả hai người phải nỗ lực, và một trong những yếu tố không thể thiếu đó là sự khiết tịnh trước và trong đời sống hôn nhân. Hoa trái của đời sống khiết tịnh này sẽ đem đến tự do và hạnh phúc.

KẾT LUẬN
Bạn là ai, nếu không phải là chính thân xác của bạn với một giới tính riêng biệt. Bạn được phú bẩm năng lực diệu kỳ để bạn có thể đón nhận Tình yêu và trao ban Tình yêu. Tuy nhiên, khi năng lực ấy được trao ban vào tay như một quà tặng, thì đồng thời đó cũng là một trách nhiệm và thác thức gay go. Bạn có thể thành toàn hay vong thân, trở thành vĩ nhân hay kẻ đồi bại.
Bạn và tôi đều được trao trách nhiệm làm chủ đời mình, trong đó có việc làm chủ và thăng hoa nguồn năng lực quý giá. Dù chúng ta là ai, ở độ tuổi nào, ở bậc sống nào, năng lực dục tính vẫn gắn liền với chúng ta, thúc đẩy chúng ta hành động, và nhờ đó chúng ta có được mối tương quan thắm thiết, tình huynh đệ chân thành, tình yêu đích thực. Chúng ta không thể sống trọn vẹn, sống tròn đầy nếu phủ nhận năng lực giới tính của mình hoặc sợ hãi trốn chạy, hay bừa bãi phóng túng. Sống tròn đầy vẫn là sự hài hòa tất cả những mối tương quan của chúng ta.

HUYỀN NHIỆM TÌNH YÊU

Một trong những nhu cầu căn bản nhất của con người là yêu và được yêu. Thiếu tình yêu, người ta không thể lớn lên được, không thể quân bình và không thể sống tròn đầy.
Tình yêu là điều cần thiết, tự nhiên như khí trời; biết bao nhiêu thi nhân đã định nghĩa về tình yêu, bao nhiêu giấy mực đã tốn kém để nghiên cứu, nhưng chúng ta vẫn chưa có được một định nghĩa nào trọn vẹn cả. Tình yêu xưa như trái đất, nhưng vẫn mới tinh khôi làm rung động vạn vạn trái tim con người.
Bạn có thể không định nghĩa được tình yêu, nhưng cảm được tình yêu là điều rất thật. Tuy nhiên, có những biểu hiện người ta cứ tưởng đó là tình yêu, nhưng kỳ thực lại không phải; có khi cứ ngỡ mình đang yêu, nhưng thực ra lại đang làm khổ người khác… Tình yêu có muôn mặt, rất nhiều khi ta lầm tưởng và chẳng hiểu tình yêu là gì nữa. Và đây là vấn đề chúng ta cần đặt ra.

TÌNH YÊU LÀ GÌ?
Có lẽ không có gì bí ẩn hơn tình yêu. Tình yêu là một huyền nhiệm! Tình yêu là hồn của âm nhạc, của thi ca, của văn chương nghệ thuật…, nói tóm lại, tình yêu là hồn của cuộc sống. Vì tình yêu, người ta có thể điên cuồng, lăn lộn với cuộc sống, hy sinh quên mình, và có khi chấp nhận cả cái chết. Tình yêu chỉ là một, nhưng có muôn ngàn hình thái và cách thế thể hiện khác nhau, chẳng khác nào mỗi loài hoa tỏa ra cho đời những sắc hương riêng biệt.

Hương sắc mỗi loài hoa
Có thứ tình yêu nồng nàn say đắm, lãng mạn đợi chờ; có thứ tình yêu thâm trầm sâu lắng, lo toan và trách nhiệm; có thứ tình yêu chia sớt cảm thông, đồng hành trong cuộc sống; có thứ tình yêu bao la lồng lộng, chẳng đắp xây chi cho cá nhân mình; có thứ tình yêu dốc cạn hành trình, từ bỏ, hy sinh, dâng mình cho Thượng Đế… Bạn muốn gọi tên tình yêu đó là gì cũng được: là tình yêu đôi lứa, là tình máu mủ gia đình, là tình bạn thân tình, là tình yêu đất nước quê hương, là tình yêu của đời tận hiến. Tình yêu nào cũng đẹp, cũng cao khiết, cũng phản ánh một tình yêu vĩ đại là mối tình Thiên Chúa dành cho con người. Chúng ta hãy phân tích sau những tình yêu hương sắc của cuộc đời, có lẽ chúng ta nên tìm về suối nguồn Tình yêu trước đã.

Suối nguồn Tình yêu
Thánh Gioan chỉ dẫn cho chúng ta thấy Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa (1Ga 4,7), “Tình yêu cốt ở điều này, là Thiên Chúa yêu thương chúng ta trước”(1Ga 4,10). Tình yêu là trọng tâm ý nghĩa của lối sống Kitô giáo. Thiên Chúa yêu thương chúng ta nhưng không, vô điều kiện, nhưng chúng ta chẳng tự nhiên hay dễ dàng yêu thương Thiên Chúa, yêu thương anh chị em mình. Đối với con người, yêu thương là một thách đố, là sự chọn lựa liên lỉ, quyết liệt. Cả đời sống người Kitô hữu là một chọn lựa yêu thương. Yêu thương là lời mời gọi tự do, nhưng cũng là luật sống căn bản của mỗi Kitô hữu.

Luật yêu thương
Một vị kinh sư lên tiếng hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều nào đứng đầu?” Đức Giêsu trả lời:
“Điều răn đứng đầu là… ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: người phải yêu thương thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác hơn các điều răn đó”(Mc 12,29-31).
Câu trả lời của Đức Giêsu không vòng vo, nhưng đi thẳng vào trọng tâm, Tình yêu là lề luật duy nhất. Đức Giêsu chính là hiện thân của Tình yêu này, Người đã yêu thương đến cùng và chết cho người mình yêu. “Không có Tình yêu nào cao quý cho bằng Tình yêu của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”(Ga 15,13).
Kitô giáo là đạo Tình yêu. Trọng tâm sứ điệp Tin Mừng cũng chẳng khác là gì khác hơn sứ điệp yêu thương. Tình yêu thương luôn luôn mới mẻ: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”(Ga 13,34). Khi biết yêu thương nhau thực sự là chúng ta chu toàn lề luật vậy (x. Rm 14,10).

Thiên Chúa là Tình yêu
Trong thư thứ nhất, thánh Gioan đã định nghĩa cho chúng ta:
“Thiên Chúa là Tình yêu: ai ở lại trong Tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy… Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy”(1Ga 4,16-20).
Tất cả truyền thống Kitô giáo đều sáng lên điều này là không thể tách rời Tình yêu Thiên Chúa và Tình yêu con người được. Yêu thương con người không phải là phương tiện để yêu mến Thiên Chúa nhưng đó là thành phần không thể thiếu của một Tình yêu hoàn hảo.

Tất cả là vô nghĩa nếu không có Tình yêu
Thánh Phaolô, trong thư thứ nhất gởi giáo đoàn Côrintô, đã nhấn mạnh giá trị tuyệt vời của Tình yêu; Tình yêu có giá trị tuyệt đối, đến nỗi nếu thiếu Tình yêu, thì tất cả đều trở nên vô nghĩa:
“Giả như tôi có nói được các thứ tiếng
của loài người và của Thiên Thần đi nữa,
mà không có đức mến,
thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng,
chũm chọe xoang xoảng.
Giả như tôi được ơn nói tiên tri,
và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu,
hay có được tất cả Đức tin đến chuyển núi dời non,
mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì.
Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí,
hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt,
mà không có đức mến,
thì cũng chẳng có ích gì cho tôi”(1Cr 13,1-3).
Còn thánh nữ Têrêxa thì nói: “Nếu không có Tình yêu, các thánh tử đạo sẽ không dám đổi máu mình nữa, các nhà truyền giáo sẽ thôi rao giảng, sẽ chẳng còn thánh hiển tu, chẳng còn thánh tiến sĩ, và cũng chẳng còn thánh trinh nữ…”. Như vậy, nếu thiếu vắng Tình yêu, thì tất cả đều trở nên vô nghĩa.
Và trong đời thường, có lẽ hơn một lần chúng ta cũng đã cảm nghiệm được điều này, nếu không có tình yêu, thì làm sao bà mẹ có thể thức khuya dậy sớm, còng lưng tần tảo để kiếm tiền nuôi con; làm sao người cha dám hy sinh hạnh phúc của mình chỉ vì tương lai của con cái; làm sao người ta có thể dấn thân phục vụ mà hy sinh lợi ích của bản thân mình… Tình yêu kỳ diệu là thế đấy bạn ạ!

Đi tìm định nghĩa cho Tình yêu
Bạn đã thấy được Tình yêu là thế nào, bây giờ chúng ta thử đưa ra một định nghĩa cho tình yêu nhằm định hướng cho con người trong cuộc sống. Karl Kock định nghĩa: “Yêu thương chính là tìm kiếm và thăng tiến những điều thiện hảo nơi tha nhân trong những tình trạng riêng biệt của họ”. Có thể định nghĩa này hơi khô khan, không lãng mạn, nhưng khả dĩ cung cấp cho chúng ta những chỉ dẫn thiết thực trong cuộc sống.

Tìm kiếm và thăng tiến
Trước tiên, yêu thương có nghĩa là tìm kiếm và thăng tiến. Tình yêu luôn năng động. Tìm kiếm và thăng tiến không phải là điều gì thụ động, nhưng là những hành vi tích cực yêu thương. Người yêu thương đích thực là người ra khỏi chính mình, nhìn thấy nhu cầu của anh em. Đó có thể là nhu cầu về vật chất, nhưng quan trọng hơn là nhu cầu của tâm hồn, là sự cảm thông, lòng tôn trọng, sự tha thứ, sự lắng nghe…
Rất thường khi, chúng ta chỉ biết yêu mình, chỉ tìm hạnh phúc cho riêng mình; và tệ hại hơn, còn dùng người khác như một phương tiện để thỏa mãn tham vọng của chúng ta. Nói một cách lãng mạn: “Yêu là chết ở trong lòng một ít” là như vậy; và những ai muốn yêu cho đến tận cùng, thì không phải chỉ là “chết một ít”, mà là chết tất cả, cho tất cả, hy sinh tất cả.

Những điều thiện hảo nơi tha nhân
Kế đến, bản chất yêu thương là không hướng về mình, không tìm lợi ích cho bản thân, nhưng là hướng về người khác, làm cho họ được thăng tiến, và mưu cầu hạnh phúc cho họ. Sile, một nhà văn người Đức, đã định nghĩa: “Tình yêu là niềm say mê làm cho người khác được hạnh phúc”. Hạnh phúc, những điều thiện hảo nơi tha nhân, cũng như chính hạnh phúc, những điều thiện hảo mà chúng ta khao khát tìm kiếm cho bản thân mình. Đức Giêsu đã dạy chúng ta rất rõ điều này: “Ngươi phải yêu thương người thân cận như chính mình”(Mc 12,31). Ai trong chúng ta cũng muốn được yêu thương, muốn được kính trọng, muốn thấy người khác thán phục sự thành công của mình…, tại sao chúng ta lại không yêu thương người khác, không kính trọng họ, không chấp nậhn, không tán dương sự thành công của họ? Chúng ta thấy mình bị xúc phạm, bị hạ giá, bị lép vế khi người khác thành công hơn chúng ta ư? Có ai trong chúng ta thích người khác bàn tán, bới móc về những tật xấu của mình không? Thế thì tại sao chúng ta lại thích đem lỗi lầm của anh em mình ra bàn tán để làm trò tiêu khiển?
Bạn ơi, yêu thương thật dễ và cũng quá khó phải không bạn? Có lẽ khi chúng ta hoàn toàn chấp nhận tha nhân với trọn vẹn con người của họ, trong tình trạng riêng biệt của họ, khi ấy chúng ta mới biết thế nào là yêu thương đích thực.

Những tình trạng riêng biệt

Yêu thương đích thực là yêu thương vô điều kiện. Thiên Chúa không chờ chúng ta phải thật tốt lành, thật thánh thiện, rồi Người mới yêu chúng ta! Yêu thương là đón nhận người khác như chính con người của họ. Mỗi người đều được Chúa tạo dựng và có một phẩm giá cao quý, bất khả thay thế, và phải được mọi người tôn trọng, dù bản thân con người đó có như thế nào đi chăng nữa. Con người vốn “nhân vô thập toàn”, nhưng “nhân chi sơ bản thiện”, không ai tự bản chất là xấu xa cả. Đón nhận và tin tưởng con người là khởi đầu cho một hành trình yêu thương. Và chỉ có yêu thương một cách có điều kiện, khi ấy chúng ta mới có thể làm cho người khác nhận ra chính giá trị của bản thân họ, từ đó có thể giúp họ thăng tiến hơn.

Tình yêu theo lối nhìn của thánh Phaolô
Thánh Phaolô đã tóm tắt nhiều nét đặc trưng của Tình yêu trong những lời khuyên nhủ ngài gởi cho giáo đoàn Côrintô:
“Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu,
không nghen tương, không vênh vang, không tự đắc,
không làm điều bất chính, không tìm tư lợi,
không nóng giận, không nuôi hận thù,
không mừng khi thấy sự gian ác,
nhưng vui khi thấy điều chân thật.
Đức mến tha thứ tất cả,
tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả”(1Cr 13,4-7).
Tình yêu luôn đòi hỏi sự kiên nhẫn, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện. Tình yêu là vô biên. Nói như thánh Bênađô: “Giới hạn của Tình yêu là yêu không giới hạn”. Thế mà trong thế giới của chúng ta hôm nay, người ta lại thích đi tìm những giải pháp tức thời, những kinh nghiệm ngay tức khắc, những mối tương quan dễ dãi chiều chộng, những kiểu yêu vội sống cuồng… Tất cả những hình thức trên đều không thỏa mãn khát vọng yêu thương sâu thẳm của lòng người; con người ngày nay vẫn khát khao những chứng tá của một Tình yêu sâu thẳm.

Tình yêu Cứu độ thế giới
Rất nhiều khi con người bị thúc bách bởi một thứ tình yêu hạ đẳng. Yêu thương được xem như một cách thức để lấp đầy những khoảng trống, những nhu cầu của tâm hồn. Càng cô đơn, càng trống vắng, người ta càng có nhu cầu bù đắp; lúc này nhiều khi yêu thương bị đồng hóa với sự thỏa mãn ích kỷ, hay đơn giản như một thứ rượu bia, xì ke, ma túy kích thích ru ngủ con người. Tình yêu đích thực không thể nào là một thứ bù đắp như thế.
Tình yêu đích thực có sức Cứu độ. Đức Giêsu yêu thương bạn hữu của mình là anh Lazarô, Người đã kéo anh ra khỏi huyệt mộ và cho trở về với cuộc sống(x.Ga 11). Trong thời đại chúng ta hôm nay, Tình yêu vẫn có sức Phục sinh kẻ chết, đó là những người chết về mặt tinh thần, xã hội, tôn giáo… Bao bạn trẻ lầm lạc rời vào con đường sai trái, nào là nghiện ngập, chơi bời, trộm cắp… rồi chán nản thất vọng, tìm cách quyên sinh… Phần lớn do các bạn ấy thiếu thốn tình yêu, hay được yêu không đúng cách. Chỉ có Tình yêu đích thực mới có thể làm cho họ trở về, Tình yêu có sức Cứu độ là vậy.
Đức Giáo Hoang Gioan XXIII căn dặn chúng ta: “Bất cứ đi đến đâu, bạn hãy mang trái tim theo đó”. Cuộc sống sẽ tươi đẹp hơn, bạn hãy mang trái tim theo đó”. Cuộc sống sẽ tươi đẹp hơn, tương quan giữa người với người sẽ thân thiện, nồng thắm hơn nếu mỗi người đều biết cho đi, đều yêu thương đích thực. Nói như thánh Phaolô, nếu không có Tình yêu, đời sống chúng ta sẽ vô nghĩa, và bản thân chúng ta cũng chẳng nói lên được giá trị gì.

TÌNH YÊU MUÔN VẺ
Như muôn nhánh sông đều chảy ra từ thượng nguồn, muôn cách thế khác biệt nhưng cũng chỉ diễn tả một tình yêu khác biệt nhưng cũng chỉ diễn tả một tình yêu duy nhất. Trước tiên, yêu thương thể hiện qua chính việc yêu mình.

Yêu mình
Yêu thương chính mình là điều cần thiết trước khi chúng ta có thể yêu thương tha nhân. Đức Giêsu đã chẳng dạy chúng ta “hãy yêu thương người thân cận như chính mình”(Mc 12,31) đó sao. Theo cách nhìn này, có thể nói, bạn chỉ yêu thương người thân cận một khi bạn biết yêu thương chính bản thân mình. Yêu mình cũng có nghĩa là phải biết mình, biết những sở trường, sở đoản; không biết mình, không hiểu mình, thì chúng ta cũng khó biết và hiểu được người khác.
Yêu mình khởi đi từ việc biết chấp nhận và tôn trọng bản thân, biết khám phá và thăng tiến những giá trị của chính mình. Tuy nhiên, bậc thang giá trị của mỗi người rất khác nhau, đâu là quy chuẩn để mỗi người chọn lựa và thăng tiến? Đâu là giá trị đích thực của bản thân tôi? Rất nhiều khi chúng ta lầm tưởng điều này.
Chúng ta có thể sai lầm khi chọn lựa những bậc thang giá trị. Yêu mình là tốt, nhưng có người chỉ biết yêu mình, đến nỗi trở thành ích kỷ, chẳng còn biết quan tâm đến ai khác nữa. Một trong những nguyên nhân dẫn đến điều này có lẽ do tác động của nền văn hóa chúng ta đang sống: nền văn hóa tiêu thụ, hưởng thụ, khoái lạc, đề cao tự do cá nhân… Theo đó, thước đo giá trị của mỗi con người được tính trên những gì họ sở hữu, những điều họ được hưởng thụ, hiệu năng công việc, vị thế trong xã hội, quyền hành xử trên người khác; hay cụ thể hơn, giá trị con người được đánh giá theo bộ đồ người đó mặc, chiếc xe người đó đi, thứ nước hoa đắt tiền người đó xài, hoặc đánh giá trên sức khỏe, sắc đẹp… Toàn những thứ bên ngoài, nay còn mai mất. Giá trị của con người không hệ tại ở những điều chóng qua đó. Thiên Chúa sáng tạo và yêu thương mỗi người chúng ta như chúng ta đang là. Đó là giá trị đích thực của mỗi con người. Và như vậy mọi người dù sang hay hèn, đẹp hay xấu… đều có giá trị như nhau.

Tình bạn
Ta đã nói đến những kiểu tình yêu ích kỷ, tình bạn không phải là thứ tình yêu ấy. Bạn đã nghe nói đến tình bạn của Bá Nha và Tử Kỳ trong văn học Trung Quốc, tình bạn của Nazis và Hesse, hay Lưu Bình và Dương Lễ trong văn học Việt Nam…? Ta gặp một điểm chung nơi những tình bạn này là sự trung thành, cảm thông và chia sẻ. Tình bạn đích thực sẽ không ích kỷ, không tìm cách loại trừ nhau, nhưng chia sớt với nhau những nỗi niềm trong cuộc sống và giúp nhau cùng thăng tiến.
Thiên Chúa thích làm bạn với con người, Đức Giêsu gọi các môn đệ là bạn hữu (Ga 15,15), thế sao con người lại không thể là bạn của nhau? Chỉ khi nào là bạn, chúng ta mới có thể bộc lộ hết nỗi niềm, mới không đeo mặt nạ, mới có thể cảm thông cả những yếu đuối, sai lầm của nhau trong cuộc sống. Có thể nói tình bạn là nền tảng căn bản của mọi thứ Tình yêu trong cuộc sống.
Chúng ta tìm hiểu một thứ tình yêu khác, nhẹ nhàng, quyến rũ hơn.

Tình yêu đối lứa
Rất nhiều điều phải bàn đến trong khía cạnh tình yêu đối lứa này. Ở đây chỉ xin đề cập đến sự hòa hợp giữa hai thân xác, hai tâm hồn. Đến tuổi trưởng thành, người nam và người nữ có khuynh hướng thu hút nhau, hấp dẫn lẫn nhau, và rồi nên vợ nên chồng, nên một thân xác, một tâm hồn. Nhưng tương quan giới tính làm cho hai người phát triển sung mãn, và làm nẩy sinh sự sống mới.
Thường người ta hay e ngại, hoặc đánh giá thấp những hành vi ân ái vợ chồng; trong đời sống lứa đôi, hành vi đó không có gì là xấu xa, nhưng là thánh thiện, tốt đẹp. Chính vì thế trong bài giáo huấn về đời sống gia đình, thánh Phaolô đã nhắc lại đoạn văn trong sáng Sáng Thế: “Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt”(Ep 5,31).
Tuy nhiên, con người ta vì tội lỗi làm suy yếu, nên rất khó vượt qua những đòi hỏi của bản năng, nên nhiều khi tình yêu trong hôn nhân bị lạm dụng, bị xúc phạm. Hành vi ân ái không còn là việc thiêng liêng giữa vợ và chồng, mà nhiều khi chỉ là việc làm thỏa mãn bản năng bên ngoài phạm vi hôn nhân. Và như thế, đây không phải là tình yêu đích thực nữa, ma là một sự biến thái, lạm dụng, mua bán hay trao đổi thân xác.

Tình yêu lãng mạn
Khi nói đến tình yêu, có lẽ trong đầu bạn nghĩ ngay đến loại tình yêu này. Hơn bất cứ loại đề tài nào, tình yêu lãng mạn là đề tài muôn thuở của tiểu thuyết, thi ca, và nhiều loại hình nghệ thuật khác nữa.
Người ta thích nói đến tiếng sét ái tình, đến những cảm giác tuyệt vời khó tả của kẻ đang yêu, và cả đến những chuyển biến tâm lý khác thường của họ nữa. Sau đây là tâm trạng của một cô gái đang yêu được thổ lộ:
“Anh yêu,
Giờ đây em mới hiểu thế nào là tiếng sét ái tình. Em đã yêu anh ngay từ cái buổi gặp gỡ ban đầu ấy. Tất cả những gì em có thể làm lúc này là nhớ về anh. Bóng hình anh đã chiếm trọn trái tim em đến nỗi dường như em nghẹt thở! Em nghĩ rằng có lẽ chẳng có phút giây nào mà anh không hướng về em, có phải thế không anh? Chỉ cần nghĩ đến anh thôi là trái tim em rộn rã, ruột gan em bồi hồi thổn thức. Em làm sao sống được nếu không có anh! Anh là lý tưởng của em, là sức sống của em, là tình yêu của em.
Em yêu anh mãi mãi”.
Rất có thể tình yêu đôi lứa khởi đi từ sự rung cảm đầu đời, từ tiếng sét ái tình như thế. Những cảm xúc của cô gái kể trên là điều rất thực, nhưng thường không bền. Tình yêu lãng mạn chợt đến rồi chợt đi, đó không phải là điều tất yếu để tình yêu lứa đôi nên bền chặt. Một chút lãng mạn làm cho cuộc sống uyển chuyển, nhẹ nhàng, nhưng không hẳn phải lúc nào cũng có.
Chúng ta cần lưu ý những cạm bẫy của sự lãng mạn quá, sẽ làm cho cuộc sống trở nên không thực tế, và sau một phút choáng ngợp, người ta có thể thất tình hóa nên điên dại là như vậy. Cuộc sống không chỉ có bánh mì nhưng còn có hoa hồng nữa, nhưng nếu chỉ toàn hoa hồng thì đó cũng chẳng còn là cuộc sống. Cạm bẫy đầu tiên là:

Sự say đắm
Sự say đắm nhiều khi làm chúng ta trở nên mù quáng, mất đi sự nhận thức rõ ràng và khả năng phán đoán đúng đắn. Khi yêu, thấy cái gì cũng đẹp, cũng hợp nhãn, nhưng nếu một khi tình yêu không được lý trí hướng dẫn, sẽ là tình yêu mù lòa, nông nổi. Sống trong tình yêu lãng mạn say đắm, có thể ví tựa như bạn đang ngồi trên toa xe vun vút trên con đường siêu tốc trải dài từ đỉnh xuống triền núi, mọi vật xung quanh bạn trở ênn mờ nhạt, và bạn chỉ còn một cảm giác chóng mặt, choáng váng. Sự say đắm có thể đem lại cho bạn những giây phút xúc động, nhưng bạn lúc nào cũng như kẻ đang đi trên dây, từng nỗi hồi hộp run run nằm ngay dưới bàn chân của mình.
Cạm bẫy thứ hai của tình yêu lãng mạn đó là dễ làm cho bạn thần tượng hóa người khác.

Thần tượng hóa
Có bao giờ bạn đã coi ai khác như một thân tượng? Một khi bạn đã thần tượng hóa một ai, thì trong mắt bạn, người ấy là tuyệt hảo, tuyệt vời, là câu trả lời cho mọi thắc mắc, mọi ước mơ đời bạn. Và nhiều khi bạn còn thấy đời mình chẳng có ý nghĩa gì nếu không có người ấy, không trở nên giống người ấy. Bạn từ từ thay đổi mình theo khuôn mẫu người ấy nhưng bạn không hề ý thức mình đang thay đổi. Bạn nghĩ rằng mình yêu thương người ấy thực sự, nhưng thực ra bạn chỉ yêu hình ảnh của bạn có trong người ấy mà thôi.
Bỗng một ngày kia, bạn phát hiện ra những khuyết điểm của thần tượng, thế là thần tượng sụp đổ. Những điều trước đây bạn từng yêu quý trân trọng, giờ đây như một gánh nặng, như một điều gì giả dối đối với bạn. Bản cảm thấy mình bị xúc phạm, bị tổn thương. Lúc này bạn mới thấy rằng tình trường quả lắm nhiêu khê, nhiều trắc trở, nào đâu có thuận gió suôi buồm như bạn vẫn ước mơ. Và bạn cũng ngộ ra rằng tình yêu lãng mạn phải chăng cũng chỉ như chút hương gởi gió.

Tình yêu gia đình
Trước khi bạn biết yêu mình, biết thế nào là tình bằng hữu, tình yêu đôi lứa, tình yêu lãng mạn… thì bạn đã được sinh ra, được nuôi dưỡng, và cảm nhận tình yêu của gia đình trước hết. Chỉ trong gia đình, bạn mới hiểu được thế nào là một tình yêu vô điều kiện. Dù bạn là ai, là một con người như thế nào đi chăng nữa, thì cha mẹ vẫn đón nhận bạn một cách vô điều kiện. Có nhiều cha mẹ lên tiếng từ chối những đứa con hư hỏng, không chấp nhận những đứa con này như thành viên trong gia đình, thế nhưng khi chúng gặp hoạn nạn, hoặc tù đầy, thì chính cha mẹ lại là người đầu tiên xách giỏ đi thăm nuôi!
Trong gia đình, bạn cảm nhận được mầu nhiệm Tình yêu một cách rõ nét hơn cả: người ta không so đo tính toán, không tìm tư lợi; đặc biệt hình ảnh người mẹ, người cha, suốt đời lam lũ lo cho con cái từng miếng cơm manh áo, coi sự thành đạt và hạnh phúc của con là hạnh phúc của mình. Những ai được sinh ra, được nuôi dưỡng trong một bầu khí gia đình yêu thương như thế, nhân cách của người đó sẽ phát triển sung mãn và thành toàn.
Và cũng từ gia đình, người ta học được bài học yêu thương trắc ẩn. Tình yêu được nuôi dưỡng và lớn lên từ chính thái độ biết quan tâm đến người khác, nhất là những người bất hạnh. Từ phạm vi một gia đình máu mủ ruột thịt, người ta có thể mở rộng ra những gia đình lớn hơn, gia đình thiêng liêng, đoàn thể, giáo xứ, quê hương… và mở ra với cả gia đình nhân loại. Segundo Galilea, một thần học gia Châu Mỹ Latinh đã nói:
“Kitô giáo chỉ trở thành một tôn giáo khi người ta tìm thấy hình ảnh Thiên Chúa nơi con người, nhất là những con người nghèo khổ, yếu đuối, bị bỏ rơi… Không có Kitô giáo, thì cũng không tìm thấy ý nghĩa nào của sự nghèo khổ”(Following, Jesus, p.31).

Tình yêu thiên nhiên
Những ai đã tìm hiểu về văn hóa Đông Phương, chắc hẳn không xa lạ gì với cách sống của những bậc hiền nhân quân tử, những con người thích giao du sơn thủy, thơ túi rượu bầu, cả chốn dương gian hết thảy đều là nhà, tất cả đều là anh em, “tứ hải giai huynh đệ”.
Quả thực trái đất này là ngôi nhà để con người trú ngụ. Trong ngôi nhà ấy, muông thú, cỏ cây, cá biển, chim trời… là anh em, là bạn hữu của con người. Chẳng phải ngẫu nhiên mà ngôn sứ Đanien mời gọi muôn loài muôn vật cùng ca tụng Thiên Chúa:
“Chúc tụng Chúa đi, mọi công trình của Chúa
Chúc tụng Chúa đi, nguồn nước tận cao xanh,
Chúc tụng Chúa đi, mọi cơ binh thượng giới,
Chúc tụng Chúa đi, mặt trời với mặt trăng,
Chúc tụng Chúa đi, hỡi tinh tú muôn ngàn…”(Đn 3,57-88.56).
Thánh Phanxicô Atxidi đã gọi mặt trời là anh, mặt trăng là chị,… Còn Raymond Hamilton thì có bài thơ tuyệt vời nói về quan hệ khắng khít giữa mình với thiên nhiên:
“Trái đất là mẹ của tôi
Mẹ sát bên tôi từ hồi thơ ấu
Mặt trời là cha tôi đấy
Bộ dạng bề ngoài…, ấy vậy hiền khô.
Ngôi sao tôi gọi là cô
Mặt trăng là chị tha hồ dung dăng…”(Carl Koch, p.135).
Chúa không dựng nên con người một mình trơ trọi, nhưng Người đặt thụ tạo cao quý của mình vào vườn Êđen, trao cho con người quyền cai quản thiên nhiên, bá chủ chim trời cá biển. Có thể nói, trong chương trình tạo dựng va Cứu độ của Thiên Chúa, thiên nhiên và muôn vật là những người em nhỏ bé của chúng ta, chúng ta đang chờ ngày Thiên Chúa Cứu độ như chúng ta.
Vì vậy, khi yêu thương và bảo vệ thiên nhiên, là chúng ta đang yêu thương và bảo vệ chính mình. Con người không thể sống tách rời khỏi thiên nhiên, cho dẫu người ta có thể sinh ra trong lồng kiếng. Con người ngày càng trở nên cằn cỗi, thô kệch, nóng nảy, vì con người không sống hòa điệu với thiên nhiên, đã trở nên thù địch với thiên nhiên. Một khi con người sống thuận, sống hòa điệu với thiên nhiên, con người mới là mình trọn vẹn.
Tình yêu Thiên Chúa
Chúng ta chỉ có thể nói được mình yêu Thiên Chúa khi chúng ta biết yêu thương chính mình, yêu thương đồng loại, và yêu thương công trình sáng tạo của Người. Như thánh Gioan đã nói: “Ai không yêu thương người anh chị em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy được”(1Ga 4,20). Vì vậy, tìm kiếm và thăng tiến những điều thiện hảo nơi tha nhân và nơi công trình sáng tạo, là trường học dạy ta biết yêu mến Thiên Chúa, Đấng sáng tạo muôn vật muôn loài. Chúng ta cùng đi vào nẻo đường khám phá này.

Hành trình khám phá
Tình yêu là điều rất tự nhiên nơi Thiên Chúa, vì Thiên Chúa chính là Tình yêu. Thiên Chúa còn như một người bạn, người yêu, người cha, người mẹ, là Đấng Tạo Hóa, và hơn thế nữa, chúng ta không thể hình dung hết về Người được, Người vượt xa nhữn gì chúng ta có thể tưởng tượng ra và gán cho Người. Muốn yêu mến Thiên Chúa, mỗi người phải lên đường khám phá, phải tìm ra một cách riêng cho mình. Nẻo đường đó vạn dặm, chẳng giống ai, mỗi người mỗi cảm nhận khác nhau, mỗi kiếm tìm độc đáo.
Có người khởi đi từ những nẻo đường trần thế, từ đó khám phá ra Thiên Chúa và yêu mến Người (Đại diện cho nẻo đường khám phá này là thánh Tôma Aquinô); có người khởi đi từ căn nhà nội tâm, từ đó khám phá Thiên Chúa hiện diện và yêu mến Người (Có thể coi đây là con đường của thánh Augustinô). Điểm xuát phát của mỗi người mỗi khác, nhưng tất cả họ đều gặp nhau ở điểm khám phá ra rc là Đấng yêu thương con người, và một khi đã cảm nhận được Tình yêu này, con người không thể không đáp trả.

Một cách thức đáp trả: hiện diện và lắng nghe
Như hai người yêu nhau, những phút giây hiện diện bên nhau, lắng nghe nhau, làm cho tình yêu của họ càng thêm bền chặt. Càng đi vào mối thâm giao, họ càng dành nhiều thì giờ cho nhau hơn. Thiên Chúa cũng vậy, Người luôn hiện diện với chúng ta, và Người mời gọi chúng ta đi vào mối tương quan thâm giao với Người.
Mối tương quan này thể hiện cả cuộc sống, nhất là những phút giây chúng ta hiện diện và lắng nghe Ngài, đó là những phút giây cầu nguyện, những giờ khắc chúng ta sống thân tình với Chúa. Thiếu đời sống cầu nguyện đích thực, khó lòng chúng ta có thể nói mình đang sống trong mối tương quan Tình yêu. Có thể nói, cầu nguyện là ngôn ngữ của Tình yêu (rất nhiều khi chúng ta chỉ dừng lại ở mức độ cầu nguyện như một việc xin ơn), chỉ có ai biết yêu, đang yêu, mới hiểu tình yêu là thế nào; cũng vậy, chỉ những ai đang yêu mới biết cầu nguyện đích thực, và những ai biết cầu nguyện đích thực mới chứng tỏ mình đang yêu thực sự.

TÌNH YÊU LÀ MỘT THỬ THÁCH
Quả thực, nẻo đường Tình yêu vạn dặm, và diệu vợi vô cùng. Tình yêu là một thử thách. Trên lộ trình này, chúng ta phải vận dụng tất cả mọi tài năng của mình để thi thố tình thương, lòng trắc ẩn, sự cảm thông, sự nâng đỡ, sự thứ tha… Nhưng rất thường, ngôn ngữ yêu bị lạm dụng, bị hiểu sai. Chướng ngại thử thách đã mở ra…

Khi chữ yêu được dùng như một ngôn ngữ rẻ tiền
Trước khi tìm hiểu sâu xa những thử thác của tình yêu, chúng ta thử nhìn lại xem trong hy vọng, ngôn ngữ hằng ngày của chúng ta, từ ngữ này bị lạm dụng như thế nào. Nhiều khi từ ngữ “yêu” bị mất đi tính trong sáng và người ta không hiểu hết được ý nghĩa của từ ngữ này. Hằng ngày, trong giao tiếp, trên các phương tiện truyền thông như báo chí, truyền thanh, truyền hình… đặc biệt các trang mục quảng cáo, nhiều khi chúng ta thấy tình yêu bị hạ giá, bị rao bán, trở thành món đồ trang sức cho những kẻ cho mình là sành điệu… Xin nêu vài ví dụ điển hình:
Có bao giờ tình yêu thiêng liêng, riêng tư giữa hai người lại đưa lên loa phát thanh mà gào thét không? Thế mà ta vẫn nghe: “Ế ồ ồ ế ô, yêu em nhất trên đời… Chỉ một mình em thôi…” Đó là thứ tình yêu nào vậy? Có lẽ đây là loại “tình yêu đến anh không mong đợi gì, tình yêu đi anh không hề hối tiếc…”?
Và có bao giờ bạn nghe nói có những kẻ yêu xe, yêu tiền, yêu bóng đá…? Không biết người ta hiểu “yêu” là như thế nào nhỉ? Thực ra, ý nghĩa tròn đầy của tình yêu có một sức mạnh phi thường, tình yêu không phải như những điều chúng ta vừa kể. Nên thận trọng khi sử dụng từ “yêu” này, tình yêu chẳng bao giờ là một trò giải trí hay là một chuyện đùa cả.

Khi tình yêu bị chối từ
Nền tảng căn bản nhất của thách đố trong tình yêu là chọn lựa hay chối từ, điều này diễn tả trong từng khoảnh khắc của cuộc sống. Mặc dù trọng tâm đời sống của người Kitô hữu là yêu thương, nhưng rất nhiều khi chúng ta đã chọn lựa ngược lại. Từng phút giây, xung quanh chúng ta vẫn diễn ra bao nỗi bất hòa, bạo động, loại trừ nhau… nói tóm lại, chúng ta từ khước yêu thương, chúng ta phạm tội.
Tội chính là chúng ta quay đầu lại với Thiên Chúa, khước từ tình yêu, mà Thiên Chúa là Tình yêu. Nếu yêu thương là tìm kiếm và thăng tiến những điều thiện hảo nơi tha nhân, thì tội lỗi chính là làm tổn hại, tổn thương người khác. Tuy nhiên, tội lỗi không chỉ đến từ những yếu đuối, từ những hoàn cảnh, nhưng quan trọng là ta đã không sử dụng tự do để chọn lựa yêu thương.
Tội lỗi có khi đến từ những việc làm sai trái gây thiệt hại và tổn thương người khác, nhưng tội lỗi cũng còn đến từ những việc chúng ta sao nhãng, thiếu quan tâm, không biết chia sẻ cho người khác. Tin Mừng Mátthêu chương 25 nói rõ cho chúng ta điều này. Tình yêu không chỉ dừng lại ở sự công bằng, mà còn vươn lên tới đức ái nữa.
Trong từng khoảnh khắc, với vô số những chọn lựa hằng ngày của đời thường, làm sao để mỗi chọn lựa ấy đều là những chọn lựa yêu thương. Đó là một thách đố không nhỏ đối với mỗi người chúng ta.

Chọn lựa từng cử chỉ yêu thương
Dẫu cho chúng ta có nỗ lực hết sức, có thể xây dựng được mối tương quan yêu thương, nhưng chẳng bao giờ chúng ta có thể đạt được mối tương quan yêu thương hoàn hảo. Thế nhưng Đức Giêsu vẫn mời gọi chúng ta mỗi ngày phải trở nên hoàn hảo như Cha ở trên trời là Đấng hoàn hảo. Chính điều này thúc bách chúng ta phải chọn lựa từng nghĩa cử yêu thương trong cuộc sống. Những nghĩa cử đó là:
-Nỗ lực để hiểu người khác: nếu chúng ta không thấu hiểu sâu xa được nỗi lòng của nhau, thì mãi mãi chúng ta cũng chỉ là những con người hời hợt, khó lòng cảm thông, khó có thể đáp ứng được nhu cầu thực sự của họ. Muốn hiểu biết được người khác, chúng ta phải:
-So dây lòng mình với dây lòng người: hiểu biết còn là bắt gặp sự rung cảm, hòa điệu giữa hai tâm hồn, biết cách làm cho mình trở nên hữu dụng đối với người khác. Chính sự hiểu biết này làm cho hai tâm hồn thấu cảm nhau, bớt đối xử với nhau bằng những nguyên tắc cứng nhắc, nhưng:
-Biết linh động và uyển chuyển: linh động sẽ làm cho cuộc sống trở nên nhẹ nhàng và sinh động hơn. Tâm hồn con người không phải là cái gì xơ cứng, nhưng rất nhạy cảm; chính sư nhạy cảm này dệt nên giai điệu của tình yêu.
-Gỡ mình ra khỏi những xung đột: một điều rất thật là dù hai người có hiểu nhau mấy đi chăng nữa, thì mỗi người đều có những khác biệt căn bản. Những khác biệt này không làm rạn nứt mối tương quan, nhưng bổ túc và làm cho cuộc sống phong phú hơn. Tuy nhiên, sự khác biệt cũng là nguyên cớ gây xung đột; điều quan trọng là chúng ta phải gỡ mình ra khỏi mối xung đột đó và nhận ra giá trị đích thực của nhau. Hành trình này rất dài, và không thể thiếu vắng một điều quan trọng, đó là:
-Biết kiên nhẫn: kiên nhẫn là người thầy giúp ta giải quyết những khó khăn trong cuộc sống. Để tiến đến sự hoàn thiện, mỗi người đều cần có thời gian, cần một tiến trình liên tục, tiệm tiến. Chúng ta không được phép đốt giai đoạn, điều quan trọng là kiên nhẫn chờ cái phút giây thành toàn ấy.
-Sống thực: bạn không cố tình sống giả dối, nhưng nếu muốn sống thực sự con người bạn, không phòng vệ, không mặt nạ, không tô màu chét phấn… bạn phải trả giá đắt đấy. Tuy nhiên, chỉ có sự trung thực mới có thể làm cho mối tương quan trở nên bền vững. Chắc hẳn chẳng bao giờ bạn muốn xây dựng mối tương quan giả tạo và ngày một ngày hai là tan vỡ? Tương quan thực sự rất cần có điều này:
-Tin tưởng lẫn nhau: nếu không tin người khác, làm sao bạn có thể tiến xa hơn trong mối tương quan được. Bất cứ mối quan hệ nào: cha mẹ, con cái, vợ chồng, bạn hữu, nghề nghiệp… chữ tín vẫn phải coi trọng. Tin tưởng là người bạn thân thiện của yêu thương đấy. Thế nhưng muốn tin tưởng nhau được, chính bản thân chúng ta phải tỏ ra thiện ý trước.
-Tỏ ra mình đáng tín nhiệm: người xưa từng nói: “Một lần bất tín, vạn lần không tin”. Muốn tạo được mối tín nhiệm lẫn nhau, chính bản thân mình phải tỏ ra cho người khác thấy là họ có thể tin chúng ta được. Giữa một xã hội vàng - thau lẫn lộn, sự tín nhiệm đang bị nghi ngại nặng nề. Bao nhiêu kẻ bị mắc lừa chỉ vì dễ tin người khác. Trong bối cảnh này để tỏ ra mình đáng tín nhiệm, thật khó khăn bội phần.
-Thái độ khiêm tốn: khiêm tón không có nghĩa là phủ nhận những khả năng của mình, không dám lãnh nhận trách nhiệm, lúc nào cũng “dạ, em không dám, em chẳng biết gì, em nhỏ bé…” Khiêm tốn là nhìn nhận khả năng thực sự của mình, biết sở trường sở đoản của mình; đồng thời biết chân nhận khả năng của kẻ khác. Ngược với thái độ khiêm tốn là tự cao tự đại, không biết mình, và cũng không biết tôn trọng người khác. Kẻ tự cao chẳng bao giờ là mẫu người lý tưởng để chúng ta học hỏi cả.
-Sống hy vọng: kẻ thù nguy hiểm nhất của con người là thất vọng. Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người, và con người cũng không bao giờ có quyền thất vọng về nhau, không có quyền thất vọng về chính mình. Dẫu biết rằng cuộc sống không phải lúc nào cũng như mình tưởng, nhưng nếu chúng ta có tâm hồn lạc qua, cuộc sống sẽ tươi sáng hơn. Cuộc sống như một tấm gương, nếu ta cười với nó, nó sẽ cười với ta; nếu ta mếu với nó, nó cũng sẽ mếu với ta. Sống hy vọng, lạc quan, chúng ta sẽ tiến bước đến những chân trời mới.
-Sống can đảm: bạn không được khuyến khích để chùn chân, thối lui, hay hoảng loạn khi đối diện với những bất trắc trong cuộc sống. Can đảm chính là chúng ta mạnh dạn đối diện với thực tại, cho dù thực tại ấy phũ phàng. Đặc biệt trong tương quan yêu thương, không có chỗ dành cho bạn sợ sệt. Chúng ta không lãnh nhận được Thần Khí để thành nô lệ, nhưng trở nên tự do, một thứ tự do tuyệt vời của con cái Chúa.
-Thứ ba: có thể nói yêu thương và tha thứ là hai mặt của một thực tại. Không thể có yêu thương thật nếu không có tha thứ. Trong cuộc sống, ai cũng có lầm lỗi. Chúng ta chỉ có thể yêu thương thực sự khi biết tha thứ cho chính mình và tha thứ cho người khác nữa. Thiên Chúa luôn kiên nhẫn và tha thứ cho chúng ta, chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau.

KẾT LUẬN
Chỉ cần một chút dừng chân để chiêm ngắm cuộc sống, bạn sẽ khám phá ra muôn điều kỳ diệu; và có lẽ điều kỳ diệu nhất chính là huyền nhiệm Tình yêu. Vì yêu, Thiên Chúa sáng tạo thế giới này; vì yêu, chúng ta mới được hiện hữu; vì yêu, Thiên Chúa đã làm người, đã chịu chết nhục nhã để Cứu độ chúng ta; vì yêu, con người tiến lại gần nhau, hy sinh cho nhau… Tóm lại, Tình yêu là sự sống, là sự sáng tạo, là ý nghĩa của kiếp nhân sinh này. Tình yêu có sức Phục sinh con người và Cứu độ thế giới.
Thiếu vắng Tình yêu, trần gia sẽ là hỏa ngục, con người sẽ trở thành lang sói của nhau. Kiếp nhân sinh ba vạn sán ngàn ngay là mấy, mong sao từng khoảnh khắc ngắn ngủi của cuộc sống ấy sẽ là những khoảnh khắc yêu thương. Giai điệu yêu thương chỉ có được, khi từng nốt nhạc yêu thương được tấu lên; mỗi chúng ta phải là một nốt nhạc yêu thương trong bản trường ca cuộc sống mến thương này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1-Adrian Van Kaam, C.S.Sp. Religion and Personnality. Prentice Hall Englewood, Cliffs N. J. 1964, bản dịch Việt ngữ: Nhân Cách Tôn giáo.
2-Elie Wiesel, Night. New York, Bantam Books, 1960.
3-Harold S. Kushner, When Bad Things Happen to Good People. New York, Avon Books, 1981.
4-James B. Nelson, Body Theology. Louisville, KY: Westmister / Jhon Knox Press, 1992.
5-Karl Kock, Creating a Christian Lifestyle. Saint Mary’s Press, 1996.
6-Mary Perkins Ryan and John Julian Ryan, Love and Sexuality: A Christian Approach, New York: Holt, Rinehart and Winston, 1967.
7-Rollo May, Freedom and Desnity. New York: W.W: Norton and Company, 1981.

MỤC LỤC
Lời nói đầu…
1-Những nẻo đường diệu vợi: tìm một lối đi…
Những chân trời mới…
Biến mình…
Đi trên đôi chân của mình…
2-Một thời để sống…
Hành trình khám phá…
Đi một ngày đàng, học một sàng khôn…
Lớn lên nhờ sáng tạo…
3-Lao động: nguồn sáng tạo thế giới mới…
Ý nghĩa của lao động…
Tại sao phải lao động?...
Quan niệm của Kitô giáo về lao động…
Chọn lựa công việc cho cuộc sống…
4-Tiền bạc không mua được hạnh phúc…
Đặt đồng tiền vào đúng vị trí của nó…
Cạm bẫy của việc sở hữu tiền bạc…
Hướng đi của người Kitô hữu:
Vạch trần những ảo tưởng…
5-Những nỗi đau ngọt ngào…
“Trải qua một cuộc bể dâu”…
Một vấn nạn lớn: Tại sao?...
Đức Giêsu, Đấng Cứu độ bằng con đường đau khổ…
Biến đổi sự đau khổ…
6-Sự diệu kỳ của năng lực giới tính…
Hiểu biết về bản năng giới tính…
Trân trọng chính mình với giới tính riêng biệt..
Khi dục tính lệch lạc…
Đời sống khiết tịnh:
Cách thức diễn tả tính dục trọn vẹn..
7-Huyền nhiệm Tình yêu…
Tình yêu là gì?...
Tình yêu muôn vẻ…
Tình yêu là một thử thách…
Tài liệu tham khảo…
Mục lục…

Share on Google Plus

About Unknown

This is a short description in the author block about the author. You edit it by entering text in the "Biographical Info" field in the user admin panel.

0 nhận xét :

Đăng nhận xét