Làm thế nào tôi có thể sống một cuộc sống sung mãn? Bằng cách nào tôi được hạnh phúc? Làm sao tôi có thể trở thành một người nam hay một người nữ trọn vẹn? Những câu hỏi muôn thuở đó được đặt ra ngày càng nhiều trong thế giới hôm nay, một thế giới mất phương hướng, một thế giới mà ở đó, không ai chấp nhận những giải pháp có sẵn và mỗi người phải tự tìm lấy những câu trả lời.
NỘI DUNG
GIỚI
THIỆU
◊◊1◊◊
CON NGƯỜI, TỰ BẢN CHẤT,
LÀ MỘT HỮU THỂ ĐƯỢC KÊU GỌI
Tầm Quan Trọng Của Một Lời
Mời Gọi Theo Thánh Kinh và Nhân Chủng Học
Suy Niệm và Các Hình Thức Mời Gọi
Lời Mời Gọi, Con Đường Dẫn Đến Tự Do
Mở Ra Cho Tương Lai
Mọi Lời
Mời Gọi Đều Mang Tính Sáng Tạo.
Lời Mời
Gọi và Tặng Phẩm
Đành Mất
Chính Mình Để Tìm Lại Mình
◊◊2◊◊
ƠN
GỌI CỦA CHÚNG TA,
NHỮNG
CON NGƯỜI ĐƯỢC TẠO THÀNH
Ta Muốn Ngươi Sống
Giá Trị Của Mọi Cuộc Sống
Tội Là Khước Từ Sống
LỜI
THIÊN CHÚA,
LỜI
QUYỀN NĂNG CÓ SỨC KÊU GỌI
Thánh Kinh Mời Gọi
Chúng Ta Đọc Lời Chúa
Thiên Chúa Ở Trong Lời Của Người
Lời và
Sự Biện Phân
Lắng Nghe Lời Chúa, Điều Kiện Để Sinh
Hoa Kết Quả
Lời
Chúa và Cuộc Chiến Thiêng Liêng: Lời Quyền
Năng
Lời Nuôi Dưỡng Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến.
Lời Chữa Lành, Lời Thanh Tẩy Tâm Hồn
Lời và Căn Tính Của
Mỗi Người
Một Số Lưu Ý Thiết Thực
◊◊4◊◊
CÁC BIẾN CỐ TRONG ĐỜI
Những
Biến Cố Mừng
Vui Mời Gọi Tạ Ơn và Cho Đi
Những Biến Cố Đau
Buồn Mời Gọi Hãy Lớn Lên
Hỏi Điều Cần Hỏi
Những Câu Trả Lời Đúng và Sai
Mỗi Tiếng Gọi Đều Là Một Lời Mời Gọi Tin Cậy
Mến
Những Thái Độ Giúp Chúng
Ta Dễ Dàng Đón Nhận Lời Mời Gọi
Giữ Lấy Tâm Tình Tạ Ơn
Thánh Hoá Danh Thiên Chúa
Bào Chữa Hay Biết Ơn?
◊◊5◊◊
VÂNG PHỤC NHỮNG
NGƯỜI KHÁC &
VÂNG
PHỤC CHÚA THÁNH THẦN
Những Đòi Hỏi Của Tha Nhân
Sự Nhập Nhằng Của Việc
Cho Đi Chính Mình
Khác Biệt Đích
Thực Giữa Cho và Nhận
Vâng Phục
Những Ước Muốn Của Thần Khí
Ước Muốn Của Con Người
và Ý Muốn Của Thiên Chúa.
KẾT LUẬN
Thiên Chúa Của Mọi Vẻ Đẹp
Ta Đã Gọi Con Bằng
Chính Tên Con
Phụ Lục
Lời Khuyên Thiết
Thực Cho Việc Thực Hành Cầu Nguyện Bằng Thánh Kinh (Lectio Divina)
Thời Gian Nào Là Tốt Nhất
Suy Niệm Bản Văn Nào?
Cách Thức Thực Hành Cụ Thể Lectio Divina
Nguyên tác: Appelés à la vie (Jacques Philippe)
Bản tiếng Anh: Called to Life (Neal Carter)
Bản tiếng Việt: Được Gọi Để Sống (Lm. Minh Anh)
Làm thế
nào tôi có thể sống một cuộc sống sung mãn? Bằng
cách nào tôi được hạnh phúc? Làm sao tôi có thể trở thành một người nam hay một người nữ trọn vẹn? Những câu hỏi muôn thuở đó được đặt ra ngày càng nhiều trong thế giới hôm nay, một thế
giới mất phương hướng, một thế giới mà ở
đó, không ai chấp nhận những giải pháp có sẵn và mỗi
người phải tự tìm lấy những câu trả lời.
Chống lại những chuẩn mực áp đặt từ bên ngoài, con người
hôm nay, trong thực tế, tìm cách tận dụng cuộc sống và xây dựng hạnh phúc theo hiểu biết riêng của họ về nó. Lý tưởng hạnh phúc của một con người đến từ nền
giáo dục và trải nghiệm riêng của họ; thế nhưng,
dẫu nhận ra hay không nhận ra điều đó, lý tưởng đó vẫn được
khuôn rập đậm nét bởi văn hoá và các
phương tiện truyền thông đương thời. Thông
thường, hạnh phúc như thế thật mong manh,
nó không thể đứng vững khi
con người đối diện với ốm đau, thất bại, chia ly và những thử thách phải đương đầu khác.
Và rồi, dường
như cuộc đời không thể hiện những gì đã
hứa hẹn với chúng ta từ thuở thanh xuân.
Dẫu vậy, tôi vẫn
tin rằng, cuộc đời mỗi người là một hành trình kỳ diệu. Mặc cho gánh nặng của những khổ đau và thất vọng, cuộc sống vẫn ban tặng mỗi người
những phương tiện để lớn lên trong nhân cách, tự do và bình an nội tâm; đồng thời, cuộc sống vận dụng toàn bộ khả năng của
con người hầu giúp nó đạt đến tình yêu và niềm vui. Tuy nhiên, với một điều kiện, mỗi người phải từ bỏ những dự
định riêng hầu cuộc sống có thể dẫn dắt họ qua
từng biến cố vui buồn đang khi học biết và đón nhận những lời mời gọi ngỏ với mình
từ ngày này qua ngày khác.
“Lời mời gọi” là từ khóa của cuốn sách này. Ý tưởng đơn
giản nhưng đầy ý nghĩa này chắc chắn sẽ là nền
tảng của những dự định đạo cũng như đời nơi chúng ta.
Con người không thể đạt được viên mãn bằng cách
chỉ thực hiện những kế hoạch riêng của mình. Những kế hoạch này
tuy chính đáng, cần thiết
và phải đem trí óc, sức lực của mình ra để hoàn thành; nhưng ngần
ấy chưa đủ, vì khi
gặp phải thất bại nó có thể khiến
chúng ta vỡ mộng.
Một thái
độ khác, một thái độ mà cuối cùng mang tính quyết định và hiệu quả hơn; thái độ
này phải đi cùng với sự khởi đầu và thực hiện những kế hoạch của chúng ta: đó
là thái độ lắng nghe những tiếng gọi, những lời mời gọi lúc này lúc khác, bí nhiệm…
liên tiếp đến với chúng ta trong suốt cuộc đời. Thái độ lắng nghe và sẵn sàng này thậm
chí còn quan trọng hơn chính những
kế hoạch. Tôi tin rằng, chúng ta có thể hoàn thiện nhân cách chỉ khi nào biết đón nhận và đáp trả những tiếng gọi mà cuộc sống ngỏ với
chúng ta mỗi ngày: tiếng gọi thay đổi, lớn lên, trưởng thành, mở rộng lòng và chân trời hiểu biết,
bỏ lại đằng sau sự chai cứng của con tim và đầu
óc hẹp hòi của mình để đón nhận thực tại cách tin tưởng và rộng mở hơn.
Những lời
mời gọi này đến với chúng ta bằng nhiều cách. Đôi khi chúng đến qua những trải nghiệm hay gương lành của những
người khác khiến chúng ta xúc động, thi
thoảng chúng đến từ những khát khao dấy lên trong lòng mình hoặc từ những đòi hỏi của người thân và thông thường, chúng đến từ những
trang Thánh Kinh. Những lời mời gọi này bắt nguồn từ Thiên Chúa, Đấng ban cho chúng ta sự sống, Đấng không
ngừng dõi mắt trên chúng ta, dịu dàng mong mỏi dẫn dắt và luôn can thiệp
cho
mỗi con cái Người cách kín đáo, dầu không thể nhìn thấy nhưng lại rất hiệu quả. Dẫu rất nhiều người, tiếc thay, không ý thức sự hiện diện và hành động của Thiên
Chúa, lời mời gọi này vẫn tự bộc lộ cho những ai biết đặt mình trong thái độ lắng
nghe và sẵn sàng.
Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống
chứ không phải của kẻ chết. Người không ngừng đưa tay với lấy chúng ta, cách mầu nhiệm nhưng chắc chắn, Người thông chuyển vào sự sống mỗi người
các giá trị, vẻ đẹp và hoa trái ngoài sức tưởng tượng như lời
thánh Phaolô đã nói:
Xin tôn vinh Đấng có thể dùng quyền năng đang hoạt động nơi chúng ta, mà làm
gấp ngàn lần điều chúng ta dám cầu xin hay nghĩ tới; xin tôn vinh Người trong Hội Thánh và nơi Đức Kitô Giêsu đến muôn thuở muôn đời. Amen (Ep 3, 20-21).
Thật đáng buồn nếu con người tự tách khỏi hành động của Thiên Chúa và chôn vùi chính mình trong thế giới hạn hẹp, hão huyền của những dự tính riêng.
Đằng sau bao
lời mời gọi gởi đến trong cuộc sống, chỉ có một tiếng gọi duy nhất: tiếng gọi của Thiên Chúa. Tiếng gọi đó thể
hiện đầy
tràn và trọn vẹn nhất trong mầu nhiệm Đức Kitô. Nhận biết và đáp lại tiếng gọi
này, con
người nhận ra nhân tính của mình và khám phá hạnh phúc đích thực,
một
niềm hạnh phúc sẽ thuộc về họ cách trọn vẹn trong vinh quang của cuộc sống mai ngày. Trong thư gửi
giáo đoàn Êphêsô, thánh Phaolô nói đến niềm hy vọng phi
thường mà tiếng gọi của Thiên Chúa trong Đức Kitô mở ra cho
chúng ta:
Tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa vì anh em, khi nhắc tới anh em trong những
lời cầu nguyện của tôi. Tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa
của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải
cho anh em nhận biết Người. Xin Người soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ,
đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp
vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh, đâu là quyền lực
vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu (Ep 1, 16-19).
Trong những trang tiếp theo tôi muốn đưa ra tầm quan trọng và những hoa trái tốt đẹp của ý tưởng này, sau đó tôi sẽ bàn đến một số hoàn cảnh trong đó, thường bắt gặp tiếng gọi của Thiên Chúa, đó là: những biến
cố lớn trong cuộc đời, Lời Chúa (chủ đề của một chương dài) và những khát khao mà Thánh Thần đánh thức trong tâm hồn chúng ta.
Tôi sẽ nhấn
mạnh rằng, mỗi tiếng gọi đến từ Thiên Chúa đều là một lời mời gọi
đến
với sự sống. Ơn gọi đầu tiên của chúng ta là sống. Một tiếng gọi không thể xuất phát từ
Thiên Chúa trừ
phi nó dẫn chúng ta đến một cuộc sống mãnh liệt hơn, một
cách thức sống tươi đẹp hơn và gắn kết
vào sự sống vốn có của con người đúng nghĩa của nó với một niềm tin tưởng hơn
trong mọi khía cạnh: thể lý, tâm lý, tình cảm, trí tuệ
và tâm linh.
Nhưng để
kết thúc phần giới thiệu này, tôi muốn nói đến tiềm năng độc giả có thể có được
từ cuốn sách này. Tôi coi ý tưởng “được gọi”
trong một ngữ cảnh Kitô giáo, được sử dụng như một từ vựng nhà đạo bởi tôi
tin phần lớn những từ ngữ sâu sắc, được soi sáng đã từng được thốt ra trong
thân phận con người đều có thể được tìm thấy trong Thánh Kinh và đặc biệt trong
Tin Mừng. Dẫu thế, bất cứ ai cũng có
thể tìm ở đây nhiều điều
thật
giá trị. “Được Gọi” là một
cái gì thật là nền tảng đối với
thân phận con người.
Cuối cùng, một
đôi nét về trách nhiệm, tự
do và khao khát.
Trách nhiệm bao
hàm sự hiện hữu của một tiếng gọi, của một bổn phận. Một người chịu
trách nhiệm về những hành động của mình không chỉ nhận trách nhiệm về
ảnh hưởng của họ đối với tha nhân, nhưng còn thừa
nhận, họ có những chọn lựa trước khi hành động, có thể tốt hoặc xấu tuỳ trường hợp. Dẫu vậy, để ý tưởng tự do có trọng lượng thực
sự, giả thiết phải cần đến việc nhận ra một loại tiếng gọi nào đó. Việc sử dụng tự do của con người sẽ trở nên tuỳ tiện và tầm thường trừ phi đó là sự đáp lại
một lời mời gọi đến từ một điều gì đó trỗi vượt hơn nó. Còn đối với lòng khao khát, nó chỉ trở nên một cấu trúc tâm lý đơn thuần, sản phẩm của
một sự thôi thúc giả tạo trừ phi nó được hiểu ở một
cấp độ sâu thẳm nhất như một tiếng gọi. Bên dưới những khát khao vốn thường mâu thuẫn nhau của lòng người, một khao khát kiên định đang tiềm tàng: khát khao nên
hoàn hảo, khát khao hạnh
phúc. Để khát khao có thể được tôn trọng như một điều
gì đó không thể bị coi thường, một điều gì đó thuộc về con người thực sự, chứ
không chỉ đơn thuần ít nhiều thèm muốn hay thôi thúc, chúng ta phải nhìn thấy
trong nó những dấu vết của một tiếng gọi đến từ trên cao.
Sẽ
không làm sao hiểu được con người nếu tách nó khỏi một tiếng gọi trở nên người
hơn. Vậy tiếng gọi đó đến từ đâu? Đâu là nguồn cội của nó? Đây là câu
hỏi then chốt của một cuộc đời. Dẫu đứng trong quan điểm Kitô giáo, tôi vẫn tin rằng, những suy
tư sau đây vẫn có một điều gì đó để nói với bất cứ ai
thành tâm thiện chí.
◊◊1◊◊
CON NGƯỜI, TỰ BẢN CHẤT,
LÀ MỘT HỮU THỂ ĐƯỢC KÊU GỌI
“Một
khía cạnh để định nghĩa con người là khả năng nó biết lắng nghe tiếng gọi của
Thiên Chúa” (Jean-Claude Sagne)[1].
TẦM QUAN TRỌNG CỦA MỘT
LỜI MỜI GỌI
THEO THÁNH KINH & NHÂN CHỦNG HỌC
Một trong những
xác quyết nền tảng thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đưa ra ở loạt bài Giáo Lý
Hôn Nhân trong buổi đầu triều đại của ngài là kêu gọi sự chú ý vào thực tế rằng:
con người, dẫu mang vết tích tội lỗi, trong một cấp độ làm người sâu xa hơn, vẫn
là những con người đã được kêu gọi.
Việc
phân tích những lời của Đức Kitô trong Bài Giảng Trên Núi […] dẫn chúng ta đến
xác tín rằng, tâm hồn con người không bị Đức Kitô buộc tội và kết án nhiều đến
thế về những ham muốn thú vui trần tục, mà trước tiên và trên hết, nó được kêu gọi. Có một sự không thống
nhất hiển nhiên ở đây giữa nhân chủng học của Tin Mừng và các đại diện có tầm ảnh
hưởng lớn của môn chú giải Thánh Kinh đương đại (mà chúng ta sẽ gọi là các bậc
thầy hay ngờ vực)[2].
Khái niệm
“tiếng gọi” thật căn bản. Khái niệm này nằm ở trung tâm con người theo cái nhìn
Thánh Kinh, và rõ ràng, nó tách biệt cái nhìn trung thành với Tin Mừng khỏi cái
nhìn ngoại đạo hay cái nhìn chống đối nó.
Trước hết,
chủ đề về một Thiên Chúa, Đấng tỏ bày chính mình cho nhân loại, mời gọi một sự
đáp trả được trình bày xuyên suốt toàn bộ Thánh Kinh, cả Cựu Ước lẫn Tân Ước.
Hãy xét đến bao câu chuyện về ơn gọi trong Cựu Ước: Abraham, Môsê, Samuel,
Isaia, Giêrêmia[3].
Những câu chuyện này nằm giữa những bản văn đẹp đẽ nhất của Thánh Kinh vì chúng
cho thấy tính cách riêng tư trong tương quan giữa Thiên Chúa và con người.
Chúng cho thấy bản tính mỏng dòn và do dự của con người cũng như sự sẵn sàng của
nó: khả năng thưa tiếng xin vâng của chúng ta. Tại đây, uy quyền tối cao cùng với
lòng xót thương dịu dàng của Thiên Chúa đối với các tạo vật của Người cũng được
biểu lộ. Đặc biệt, chúng ta thấy những gì mà sự can thiệp của Thiên Chúa có thể
mang đến cho một cuộc sống, những đường lối đầy bất ngờ khó đoán có thể xuất hiện
cùng với những hoa trái mà Người có thể ban tặng chúng ta.
Và dĩ
nhiên, nhiều nhân vật trong Tân Ước đã ý thức rằng, ý nghĩa sâu xa nhất của cuộc
đời đến với họ từ tiếng gọi của Thiên Chúa qua Đức Kitô. Chỉ cần lấy một ví dụ
vốn là một chủ đề cốt lõi của thánh Phaolô. Ngài ý thức mọi giá trị của đời
mình hoàn toàn đến từ tiếng gọi nhận được trên đường Đamát. Mọi ân sủng, toàn bộ
cuộc sống, mọi hoa quả tốt đẹp và lòng đạo đức chân thật đều phụ thuộc vào việc
đáp trả tiếng gọi đó. Thánh Phaolô thường xuyên nói về điều này, hoặc bằng cách
trích dẫn kinh nghiệm cá nhân hoặc khuyên nhủ các giáo đoàn ngài trông nom phải
luôn trung thành với tiếng gọi của Thiên Chúa qua Đức Kitô, như trong đoạn
trích sau:
Tôi là
Phaolô, bởi ý Thiên Chúa, được gọi làm Tông Đồ của Đức Kitô Giêsu, và ông Xốtthênê
là người anh em của chúng tôi, kính gửi Hội Thánh của Thiên Chúa ở Côrintô,
những người đã được hiến thánh trong Đức Kitô Giêsu, được kêu gọi làm dân
thánh, cùng với tất cả những ai ở bất cứ nơi nào kêu cầu danh Chúa của chúng
ta, Đức Giêsu Kitô, là Chúa của họ và của chúng ta. Xin Thiên Chúa là Cha
chúng ta, và xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an (1Cr 1, 1-2).
Trong một
ý nghĩa nào đó, khái niệm về một tiếng gọi đem lại tính thống nhất cho toàn bộ Thánh
Kinh. Ngoài tính đa dạng của các tác giả, thời gian, văn phong và tư duy, mọi
cuốn sách trong toàn bộ Thánh Kinh đều làm chứng cho cùng một kinh nghiệm
thiêng liêng nền tảng: Thiên Chúa nói với con người, đề xuất một con đường dẫn
đến sự sống và chờ đợi một lời đáp trả tự do.
Từ một quan
điểm nhân chủng học, rằng, con người được kêu gọi không phải là một thực tại xa
vời nào đó hay một điều gì đó chỉ xảy ra lúc này lúc khác hoặc như người ta có
thể hiểu sai, được dành riêng cho một vài cá nhân ưu tiên may mắn nhận được một
ơn gọi đặc biệt nào đó. Đúng hơn, như một cái gì đó mà chúng ta không thể không
lãnh nhận, lời mời gọi là nền tảng cho chính căn tính của chúng ta với tư cách
là những con người. Sự sung mãn của con người không thể triển nở chỉ bằng việc
sử dụng các nguồn lực của bản thân như: thể lý, tri thức, tinh thần và tình cảm.
Chúng ta chỉ có thể nhận ra nhân cách viên mãn của mình bằng việc đáp lại lời mời
gọi của Thiên Chúa vốn tinh tế, huyền nhiệm nhưng rất thật và xảy ra liên lỉ
trong suốt cuộc đời mình.
SUY
NIỆM VÀ CÁC HÌNH THỨC MỜI GỌI
Thiên Chúa không gọi
trực tiếp như lời gọi từ một cuộc điện thoại, Người gọi ngang qua suy niệm vốn
sẽ được nói nhiều hơn ở phần sau. Chúng ta có thể chú tâm vào Thánh Kinh (Lời
Chúa là một trung gian có uy quyền), vào những biến cố xảy ra trong đời sống,
những cuộc gặp gỡ, những đòi hỏi của bạn bè hay của bề trên và ngay cả những tiếng
gọi bên trong của Chúa Thánh Thần cũng như những khát khao của tâm hồn[4].
Thiên Chúa không ngừng ngỏ lời với mỗi người theo những phương thức ấy, Người mời
gọi chúng ta đáp trả theo cách này cách khác đang khi cùng lúc, Người ban cho
chúng ta những ân sủng và sức mạnh cần thiết.
Tiếng gọi
của Thiên Chúa có thể liên quan đến những chọn lựa quan trọng trong cuộc đời và
trở thành một ơn gọi theo nghĩa cổ điển (một ơn gọi dâng hiến, hôn nhân hoặc một
sứ mạng đặc biệt nào đó trong Hội Thánh hay ngoài xã hội). Dẫu thế, lời mời gọi
nhận được từ Thiên Chúa thường lại mang dáng dấp nhỏ bé hơn trong cuộc sống thường
ngày: một lời mời gọi tha thứ, một hành động phó thác trong hoàn cảnh khó khăn,
một nghĩa cử phục vụ ai đó, một khoảnh khắc nguyện cầu… Nhận ra những tiếng gọi
này và sẵn lòng đáp trả chúng là một cái gì thật quan trọng, vì dẫu nhỏ bé,
chúng vẫn có thể chỉ ra con đường dẫn chúng ta đến một đời sống phong phú và
sung mãn hơn bội phần so với những gì chúng ta biết. Mọi tiếng xin vâng trước lời mời gọi của Thiên
Chúa, ngay cả việc nhỏ nhất đều mang lại sự trưởng thành trong đời sống cũng
như đem đến sức mạnh và khích lệ, vì Thiên Chúa tặng ban chính Người cho những
ai mở lòng trước lời mời gọi của Người và trao tặng họ tự do, một tự do chưa từng
có trước đó.
LỜI
MỜI GỌI, CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN TỰ DO
“Quả
thế, thưa anh em, anh em đã được gọi để hưởng tự do” (Gl 5,
13), thánh Phaolô nói trong thư gởi các tín hữu Galát. Thiên Chúa kêu gọi chúng
ta để hưởng tự do, nhưng thay vì ban cho chúng ta cách viên mãn tức thì, tự do
này được xây dựng tiệm tiến cách kiên trì từ ngày này qua ngày khác bằng việc
trung thành với những mời gọi của Người. Cụ thể, chúng mở ra một không gian tự
do trong mỗi người, từ đó, mỗi người có thể thoát khỏi những cạm bẫy khác nhau
vốn có thể dễ dàng vùi dập họ. Chúng ta thử suy xét vấn đề này từ những quan điểm
khác nhau.
Trừ phi
được gọi, con người vẫn phải khép kín
trong tội của mình.
Câu chuyện
tạo dựng trong sách Sáng Thế và sự sa ngã cho thấy rõ ràng, tội là sự khước từ
sự sống trong tư cách con cái Thiên Chúa, đồng thời để mình trở thành nô lệ cho
nó. Qua lòng kiêu ngạo, con người chối bỏ sự sống và hạnh phúc đến từ đôi tay
Chúa Cha vốn muốn nó phụ thuộc vào Người với lòng yêu mến và tin tưởng; đang
khi con người lại thích trở nên nguồn sống cho chính mình hơn. Hoài nghi, sợ
hãi, lo lắng và những khát khao cháy bỏng là hậu quả. Tìm kiếm hạnh phúc không
phải nơi Thiên Chúa nhưng nơi bản thân, chúng ta cuống cuồng tìm kiếm nó trong vật
chất như giàu sang, khoái lạc và danh vọng. Tình trạng được gọi lúc bấy giờ dẫn
chúng ta đến một con đường giải thoát phát xuất từ một vài biểu hiện căn bản nhất
của tội, đó là kiêu ngạo, sợ hãi và khát vọng.
Mở lòng
trước lời mời gọi của Thiên Chúa giải thoát chúng ta khỏi kiêu ngạo. Nó gạt bỏ thái độ tự mãn, những vờ vịt khi tưởng rằng, con
người là thầy dạy duy nhất của đời mình. Ở đó, lòng trông cậy, sự sẵn sàng với
tha nhân, đức khiêm nhường và sự phục
tùng với niềm tin cậy được biểu lộ. Mở lòng trước lời mời gọi của Thiên Chúa
giúp chúng ta thoát khỏi cạm bẫy của khát
vọng. Thiên Chúa làm cho khát vọng đổi hướng để quay về với những điều thiện
vốn có khả năng thoả mãn chúng ta hơn những thứ chúng ta thèm khát. Sự cởi mở
này cũng giải thoát chúng ta khỏi những sợ
hãi. Bằng việc mở lòng trước tiếng gọi của Thiên Chúa, người tín hữu nhận được khích
lệ và sức mạnh cho phép họ vượt thắng sợ hãi và thoát khỏi vòng lẩn quẩn của những
chiến lược đối phó không tương xứng với những nỗi sợ hãi đó.
Những người
Pharisiêu trong Tin Mừng lấy làm gương xấu khi thấy Đức Giêsu dùng bữa với những
người thu thuế và kẻ tội lỗi, Chúa Giêsu đáp: Tôi không đến để kêu gọi người
công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn (Lk 5, 32). Ở đây, lòng
nhân hậu vô biên của Thiên Chúa được biểu lộ, Đấng mời gọi chúng ta không phải
bởi công nghiệp chúng ta có nhưng thuần tuý bởi tình yêu. Người không muốn
chúng ta tiếp tục ở trong tình trạng bị giam hãm do quá khứ. Người luôn muốn đặt
ra cho chúng ta một tương lai mới, vậy mà chúng ta lại thường do dự. Cách tốt
nhất để loại bỏ tội lỗi và những thống khổ không phải là tuyệt vọng hay tự
trách mình, nhưng bằng việc mở lòng đón nhận tiếng gọi của Thiên Chúa vốn luôn
ngỏ với chúng ta, bất kể chúng ta đang ở trong tình trạng nào. Ngay cả những kẻ
tội lỗi nặng nề nhất cũng được kêu gọi và tiếng gọi là con đường dẫn họ đến nguồn
cứu độ.
Không được
gọi, chúng ta vẫn bị giam hãm trong tâm
thức của mình - với những mời mọc, thôi thúc và tưởng tượng của chúng. Phận
vụ tự nhiên của tâm thức con người và thế giới cảm xúc đa dạng cùng những hình ảnh
của nó thật giá trị và thực sự là một cái gì không thể thiếu, nó đóng vai trò
liên kết căn bản giữa một cá nhân với môi trường chung quanh. Dẫu thế, nó cũng rất
giới hạn. Nó có khả năng cô lập chúng ta, thậm chí còn hơn thế, bởi khuynh hướng
chính của nó là bảo vệ tính đồng nhất và bảo đảm sự sống còn. Khả năng tiếp cận
vẻ phong phú của thực tại cũng có thể mất bởi những giới hạn và đôi khi làm lệch
lạc những cảm xúc và trí tưởng tượng. Sự miêu tả nặng tính tâm lý về thực tại
có thể làm méo mó vẻ đẹp thực sự. Không giống với chính thực tại, hình dung thực
tại có thể giam hãm chúng ta, có thể làm mất quân bình cảm xúc của chúng ta so
với thực tế, khiến chúng ta trở nên thờ ơ với những thực tại vốn rất quan trọng
và lại hết sức băn khoăn trước những chuyện vặt vãnh.
Đặc biệt,
hình ảnh chúng ta có về hạnh phúc - hình ảnh mang tính tâm lý về những gì chúng
ta cho là có thể và nghĩ rằng, nó giúp chúng ta hạnh phúc - thường xa rời thực
tế, thứ hạnh phúc chỉ thoả mãn tức thì. Đây là tai hoạ cho con người: nhận biết
một hình ảnh về hạnh phúc được gợi ra do văn hoá môi trường chung quanh hoặc do
tâm trí, và rồi, không bao giờ tìm được hạnh phúc đích thực. Ngày nay, hơn bao
giờ hết, con người ra sức làm chủ, điều khiển cuộc sống, thực hiện những kế hoạch,
no thoả khát vọng hạnh phúc (được coi là chính đáng) đang khi không hiểu rằng,
chúng ta đang bị giam hãm trong những giới hạn của những gì tâm trí có thể lãnh
hội và khát khao cùng với sự bất lực của nó khi không biết chắc hạnh phúc đích
thực nằm ở nơi đâu.
Đang
khi những miêu tả tinh thần và cảm xúc vốn đang dẫn cuộc đời mỗi người đi đúng
phần nào, thì thông thường, chúng rất hạn chế và lệch lạc. Chúng phải trải qua
một cuộc cải tà quy chánh liên lỉ, một sự mở lòng ra trước sự phong phú của thực
tại như Thiên Chúa đã tạo dựng, bao la hơn và sinh hoa kết quả nhiều hơn bất kỳ
một ý tưởng tinh thần nào, như thánh Phaolô nói:
Như đã
chép: điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới,
đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người (1 Cr 2, 9).
Buồn
phiền và từ bỏ, chiến đấu và đau khổ là một phần của việc mở lòng ra với thực tại.
Đây là công việc của một tiến trình đem lại một cuộc sống phong phú và trọn vẹn
hơn, một công việc vốn không bao giờ có thể hoàn thành trên trái đất này.
MỞ
RA CHO TƯƠNG LAI
Việc đáp trả lời mời
gọi của Thiên Chúa mở ra những chân trời mới không thể ngờ trước. Ở đây, một
tương lai, một tương lai bất kể quá khứ và hiện tại của chúng ta ra sao. Đây
cũng là một quà tặng lớn lao, vì không gì tồi tệ hơn việc không có một tương
lai. Những cuộc nổi loạn của người trẻ trong những vùng đất nghèo nước Pháp, dẫu
theo một khía cạnh nào đó là không thể chấp nhận, vẫn là chứng từ cho thấy một sự
tuyệt vọng sâu xa đi kèm với cảm giác rằng, xã hội không mang lại cho họ một
tương lai.
Vì thế,
thật quan trọng để biết rằng, tiếng gọi của Thiên Chúa không luôn luôn bao hàm
toàn cảnh tương lai của một cuộc đời. Đôi khi một ai đó được gọi chỉ để đi một
bước nhỏ - như thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã nói, “không gì quan trọng hơn ngày
hôm nay”[5];
chỉ cần sống và tiến tới mỗi ngày, trong mỗi lúc, tìm ý nghĩa hiện hữu và kiên
trì cho tới ngày người ta nhận được ân sủng để thấy được nhiều hơn. Thực tế, sẽ
tốt hơn khi không biết trước tương lai, nhưng chúng ta khám phá nó từng bước một.
Chúng ta bị cám dỗ tưởng tượng rằng, an toàn cốt ở chỗ làm chủ được tương lai,
nhưng ngược lại mới đúng! Càng tin tưởng trao phó tương lai cho Chúa, không tìm
biết hay điều khiển nó, chúng ta càng an toàn và bình an bấy nhiêu.
Hơn thế
nữa - và điều này vô cùng quan trọng - tiếng gọi giải thoát chúng ta bằng cách
cho phép mỗi người sống đến cùng hoàn cảnh của mình một cách lạc quan, cả khi sự
việc xảy ra nhiều lúc có vẻ hỗn độn và khó hiểu, vì “mọi sự chúng ta đương đầu đều ẩn chứa một lời mời gọi đến từ Thiên
Chúa”.
Những lúc
hạnh phúc là mời gọi dâng lời tạ ơn, những biến cố đau buồn là mời gọi tin tưởng,
cậy trông và hoán cải. Mở lòng trước lời mời gọi của Thiên Chúa dẫn đến việc thống
nhất đời sống giúp chúng ta có khả năng vượt quá những đau khổ cuộc đời. Chủ đề
này sẽ được trở lại sau.
MỌI
LỜI MỜI GỌI ĐỀU MANG TÍNH SÁNG TẠO
Lời gọi
làm người, lời gọi đầu tiên Thiên Chúa dành cho chúng ta, cũng là nguồn cội và
nền tảng cho những tiếng gọi về sau. Trong thư gửi giáo đoàn Rôma, thánh Phaolô
nói đến “Thiên Chúa… Đấng làm cho kẻ chết
được sống và khiến những gì không có hoá có” (Rm 4, 17). Sự kiện ngay khi chúng
ta hiện hữu đã là một đáp trả và chúng ta được mời gọi tiếp tục đáp trả trong
suốt cuộc đời. Mọi tiếng gọi khác của Thiên Chúa giống với tiếng gọi đầu tiên
này ở chỗ lôi kéo chúng ta ra khỏi hư không, vô nghĩa, cô độc để làm cho chúng
ta sống động đầy tràn hơn.
LỜI
MỜI GỌI VÀ TẶNG PHẨM
Lời gọi của Thiên
Chúa trổ sinh hoa trái bởi chúng mang theo hồng ân đáp lời. Khi yêu cầu chúng
ta đi theo con đường này hay con đường nọ, Thiên Chúa đồng thời ban cho chúng
ta sức mạnh và ân huệ cần thiết. “Thiên Chúa là Đấng trung thành, Người ban cho
chúng ta những gì Người đòi hỏi” như thánh Augustinô diễn tả.
Hơn nữa,
bất cứ khi nào cuộc sống trao ban cho chúng ta một quà tặng - một khoảnh khắc hạnh
phúc, một tình bạn, một cơ hội để thực hiện một điều quan trọng - thì quà tặng đó
hàm chứa một lời mời gọi ẩn tàng: một tiếng gọi dâng lời tạ ơn về quà tặng nhận
được, đón nhận nó trọn vẹn, làm nó sinh ích cho mình và người khác, khiến chúng
ta trở nên hoàn toàn sẵn sàng để Thiên Chúa hành động. “Một quà tặng đến từ
Thiên Chúa chỉ thực sự sinh ích cho những ai biết nhận ra nó là một tặng phẩm
và đón nhận nó không chút do dự”[6].
Tiếng gọi
và tặng phẩm là hai mặt bổ sung cho nhau của cùng một thực tại, đó là: hành động
- qua đó Thiên Chúa thông truyền cho chúng ta sự sống để đơm hoa kết trái,
phong phú và dồi dào, một sự sống tiềm tàng được mở ra bằng sự tự do ưng thuận
của mỗi người.
Mở lòng
trước lời mời gọi là mở lòng cho một sự sống sung mãn. Sự sống sung mãn không
chỉ là sự sống tự nhiên, thể lý, cảm xúc và lý trí nhưng còn là sự sống được nhận
biết ngang qua các mối quan hệ, tình yêu, thông hiệp và nhất là qua việc tham dự
vào sự sống Thiên Chúa, sự sống siêu việt. Mọi ơn gọi đều là một lời mời gọi
yêu thương nhiều hơn và tìm kiếm sự trọn lành bằng việc tham dự vào sự tinh tuyền
và hăng nhiệt của tình yêu Thiên Chúa.
ĐÀNH
MẤT CHÍNH MÌNH ĐỂ TÌM LẠI MÌNH
Chỉ khái niệm về lời
mời gọi mới có thể diễn tả chính xác cùng lúc những ước muốn chính đáng cho việc
thực hiện chính mình lẫn lời gọi của Tin Mừng về sự bỏ mình.
Thể hiện
chính mình và phát triển cá nhân là những giá trị được đề cao ngày nay. Các thư
viện đầy ắp các tác phẩm vốn phác thảo những kỹ thuật tốt xấu để đạt được những
điều này. Khát khao này thật chính đáng; nhưng cũng chẳng dễ dàng chút nào để hoà
hợp khát khao này với ngôn ngữ của Tin Mừng vốn có vẻ thúc đẩy sự từ bỏ và quên
mình. Chúng ta không thể dễ dàng lờ đi những lời của Chúa Giêsu:
Ai muốn
theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất;
còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống
ấy (Mc 8, 34-35).
Chúng
ta cũng không thể bỏ qua câu nói tương tự của thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu,
“Giá mà chúng ta biết những gì mình sẽ nhận được khi từ bỏ mọi sự!”[7].
Chân lý này phải được hiểu và đem áp dụng cho bất cứ linh đạo đích thực nào.
Thập
giá sẽ luôn là một thách đố, nhưng ít nữa điều này vẫn đúng: vấn đề đang bàn
cãi ở đây thậm chí không thể được đề cập nếu tách khỏi chuyển động gọi và đáp
trả. Những lời trong Tin Mừng về sự bỏ mình
trích dẫn trên đây phải được hiểu trong tương quan với Hiến Chương Nước Trời và
lời mời gọi những ai theo Đức Giêsu đặt lợi ích Tin Mừng Nước Trời trước mọi sự
khác.
Đáp trả
tiếng gọi của Thiên Chúa, chúng ta cùng lúc liều mất và tìm lại được chính mình
trong Chúa Kitô một cách đích thực. Chẳng
có gì thiếu lành mạnh hay lệch lạc về điều này. Sự “mất” của chúng ta không phải
là tự huỷ hay tìm vui thú trong đau khổ nhưng ra khỏi chính mình với những giới
hạn của nó để mở lòng hoàn toàn trước sự sống. “Khám phá” không phải là tự yêu
mình hay tự tìm kiếm cái tôi nhưng là tiếp cận căn tính sâu xa nhất của mình
trong tư cách con cái Thiên Chúa - một căn tính cùng lúc được mặc khải và trao
ban ngay khi đáp lại những lời mời gọi ngỏ với chính mình liên lỉ trong suốt cuộc
đời.
◊◊2◊◊
ƠN
GỌI CỦA CHÚNG TA,
NHỮNG
CON NGƯỜI ĐƯỢC TẠO THÀNH
Tôi muốn nhấn mạnh
một điểm mà với tôi, thật thiết yếu. Lời gọi căn bản nhất ngỏ cùng chúng ta là một
lời mời gọi đến với sự sống. Quà tặng đầu tiên Thiên Chúa dành cho chúng ta là quà
tặng sự sống, tự nó, quà tặng này đã là một ơn gọi.
Khi giảng
tĩnh tâm, một đôi lần tôi tự hỏi: đâu là quà tặng đầu tiên lớn lao nhất Thiên
Chúa đã ban cho chúng ta? Thông thường, câu trả lời là: Bí Tích Rửa Tội. Dẫu Bí
Tích Rửa Tội quả là quà tặng tuyệt diệu giúp con người đi vào sự phong phú của
đời sống Ba Ngôi Thiên Chúa, nhưng tặng phẩm đầu tiên của Thiên Chúa vẫn chính
là sự sống làm người!
Thật dễ
hiểu, con người thường gặp khó khăn trong việc đón nhận cuộc sống như một quà tặng
vì cuộc sống thường mang đến phiền muộn, khổ đau và thất vọng. Đôi khi chúng ta
cảm thấy cuộc sống là một gánh nặng hơn là một quà tặng. Ông Gióp đã không nguyền
rủa ngày mình chào đời sao? “Phải chi đừng
xuất hiện ngày tôi đã chào đời, cũng như đêm đã báo, "Đứa con
trong bụng mẹ là một nam nhi!" (G 3, 3). Vậy mà, cả khi cuộc sống với những
khổ đau, thử thách… nó vẫn luôn luôn là một quà tặng.
Sách
Sáng Thế nói, sau khi tạo dựng người nam và người nữ theo hình ảnh Người, “Thiên Chúa chúc phúc cho họ”, mời gọi họ
sinh sôi nảy nở và làm chủ mặt đất, sau đó, “Thiên
Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả rất tốt đẹp!” (St 1, 28-31). Thực tại
nguyên thủy này vẫn không thay đổi từ xưa đến nay. Quà tặng và lời mời gọi của
Thiên Chúa dành cho nhân loại thì không thể thu hồi, chẳng bao giờ Người rút lại
phúc lành đã tặng trao dẫu cho tội lỗi đã làm cho hoàn cảnh trở nên phức tạp. Người nguyền rủa con rắn chứ không nguyền rủa
sự hiện hữu của con người. Sự hiện hữu bị tội lỗi đe doạ - chúng ta phải hiểu
rõ điều này - nhưng xét về yếu tính, nó vẫn giữ lại được điều tốt lành; thương
tích bởi tội nhanh chóng đem đến lời hứa cứu chuộc thông qua phúc lành được chuẩn
bị trong Đức Kitô thậm chí còn cao cả hơn.
Ân sủng
không biến đổi bản tính nhưng hoàn thiện nó. Làm sao chúng ta có thể đón nhận
ơn cứu chuộc nếu không đón nhận quà tặng tạo dựng?
Ơn cứu chuộc khôi phục và hoàn thiện công trình tạo dựng. Nó không phủ
nhận, cũng không thay thế[8].
Không chỉ
là một lý thuyết thú vị, tất cả những điều này còn mang lại những kết luận cụ
thể cho đời sống thiêng liêng của mỗi người
chúng ta. Chẳng hạn, trong chức Linh mục của mình, tôi thường quan sát và thấy
rằng, điều ngăn cản một số người đón nhận ân sủng Thiên Chúa và làm tê liệt tiến
trình phát triển tâm linh cũng như nhân bản của họ là việc họ không chấp nhận
chính con người mình. Họ không chấp nhận những giới hạn của mình trong thân phận
tạo vật[9].
Tạo dựng
- hành động mà qua đó, Thiên Chúa kêu gọi chúng ta đi vào hiện hữu từ hư không
- là nghĩa cử cao cả đầu tiên của tình yêu và lòng thương xót của Người trong
cuộc đời chúng ta. Những hành động yêu thương về sau đều được đặt nền tảng trên
nghĩa cử này.
Thánh Catarina
thành Siêna viết về lịch sử của vẻ đẹp con người được tạo dựng theo hình ảnh
Thiên Chúa Ba Ngôi. Theo truyền thống của
thánh Augustinô, ngài phác hoạ mối liên kết giữa ba sức mạnh trong linh hồn con
người với Ba Ngôi Thiên Chúa qua: trí nhớ, trí khôn và ý chí. Ngài nhận ra trong
công trình tạo dựng một công trình tuyệt diệu của tình yêu.
Ôi
Chúa, Thiên Chúa, Thiên Chúa khôn tả! Sự thiện tối cao, Đấng, chỉ vì tình yêu
đã tạo nên chúng con theo hình ảnh Người, Người không bằng lòng nói lời này khi
tạo dựng Con Người, “Hãy có”, lời đã khiến cho các tạo vật khác hiện hữu từ hư
không; trái lại, Người đã phán “Chúng ta
hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta” (St 1, 26), vì thế, cả Ba Ngôi đã kết hợp trong sự hiện hữu
của chúng con và in dáng vẻ của các Ngài vào các năng lực của linh hồn chúng
con. Và, quả thực, ôi Chúa Cha Hằng Hữu,
trong Người, mọi sự được bảo toàn, trí nhớ của chúng con giống Người, bởi nó ghi
nhớ và bảo toàn mọi sự mà trí khôn chúng con thấy được và hiểu được về Người. Sự
hiểu biết này cho phép nó tham dự vào đức khôn ngoan của Con Một Chúa. Người
cũng đã ban ý chí của Chúa Thánh Thần đầy dẫy tình yêu của Người và nắm lấy mọi sự mà trí khôn biết về sự tốt lành
khôn tả của Người để lấp đầy tâm trí và linh hồn chúng con với Chúa. Vâng, lạy
Chúa, con dâng lời cảm tạ vì tình yêu vô biên Chúa đã tỏ hiện cho thế gian, khi
ban cho chúng con trí khôn để nhận biết Ngài, trí nhớ để giữ ký ức về Ngài, ý
chí để yêu Ngài qua những sự này, vì Ngài đáng
được như thế. Và sức mạnh này, tình yêu này, không quỷ ma nào hay bất cứ
tạo vật nào có thể lấy khỏi chúng con nếu Ngài không muốn. Con người phải thẹn thùng
vì thấy mình được yêu thương quá nhiều nhưng lại không yêu thương Đấng Tạo
Thành mình, sự sống thật của họ[10].
Trong một
bài giáo lý tuyệt vời ngày 2 tháng 01 năm 1980, thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô
II đã nói, “Đấng Tạo Hoá đã kêu gọi chúng ta hiện hữu từ hư vô, thiết lập thế
giới trong hiện hữu, bởi Người là tình yêu”. Ngài thêm rằng, hành động này cho
thấy tinh thần cốt lõi của việc ban tặng.
Hướng đến loài người, nó thiết lập một mối quan hệ giữa người cho và người nhận.
“Tạo dựng là một quà tặng, bởi con người
xuất hiện trong đó, và vì là hình ảnh của Thiên Chúa, loài người có khả năng hiểu
chính ý nghĩa của lời mời gọi đi vào hiện hữu từ hư vô”. Những lời này chiếu
rọi lên mối quan hệ mật thiết giữa quà tặng và tiếng gọi đó, như đã được gợi ý ở
trên.
“Lời mời gọi đi vào hiện hữu từ hư vô”
không phải là một ẩn dụ; “gọi” ở đây phải được hiểu theo nghĩa mạnh nhất của nó,
là “ơn gọi”.
Hơn nữa,
việc người nam và người nữ đứng ở chóp đỉnh công trình tạo dựng là một dấu chỉ
cho thấy “lời mời gọi đến với sự sống” là “lời mời gọi đến với tình yêu”, “lời
mời gọi gặp gỡ”, “lời mời gọi trao chính mình cho nhau”. Thánh Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II nói, “Con người không nhận ra sự tồn tại của mình nếu không tồn tại với
người khác, và thậm chí cách sâu xa và trọn vẹn hơn, là tồn tại cho một ai đó”.
Đặc điểm giới tính trên cơ thể biểu lộ rằng, ơn gọi để sống là ơn gọi đến với
tình yêu và cho đi cách hỗ tương.
Ngay cả
trước quà tặng Bí Tích Rửa Tội và những lời gọi cụ thể theo sau - như hôn nhân,
tận hiến, tông đồ hay sứ vụ - nguyên việc được làm một tạo vật của Thiên Chúa
đã là một ơn gọi cao trọng đẹp đẽ. Đó là một lời mời tạ ơn Thiên Chúa về quà tặng
sự sống, để đón nhận sự sống trong những khía cạnh khác nhau của nó như: thể
xác, lý trí, cảm xúc, tâm hồn - và để hướng chúng ta về sự lành và sinh hoa kết
trái, một cách đặc biệt bằng việc mỗi người biết cho đi.
Không nhận
biết vẻ đẹp của ơn gọi được tạo dựng làm người, làm sao chúng ta có thể đón nhận
những ơn gọi tiếp theo sau đó? Còn cơ sở nào khác để chúng ta nói chuyện với những
người chưa được rửa tội? Ơn gọi đến với sự sống là ơn gọi chung cho tất cả loài
người, cả kẻ tin lẫn người không tin.
Mỗi ơn
gọi chính thực là một lời mời gọi đến với sự sống trọn vẹn hơn bao giờ hết.
Chúng ta cần thận trọng với những lời mời gọi vốn có thể trá hình và hàm chứa một
sự khước từ tham dự sự sống, sợ yêu thương, lẩn trốn thể xác hay cảm xúc, thiếu
chấp nhận sự hiện hữu của con người như chính nó. Chấp nhận lời mời gọi của một
ai đó nghĩa là chọn một cách sống mãnh liệt hơn, phong phú hơn, không chạy trốn
vì sợ hãi, núp bóng sự chết, điều này có thể xảy ra với một số cam kết của các
giáo phái.
TA
MUỐN NGƯƠI SỐNG
Chương 16 của sách
tiên tri Êdêkien diễn tả cách mỹ miều lời mời gọi “hãy sống”. Câu chuyện ngụ
ngôn tóm tắt lịch sử Giêrusalem, được miêu tả như một kiều nữ đáng yêu. Nàng trải
nghiệm sự phản bội và phạm tội, nhưng mọi sự kết thúc thật tốt đẹp: Thiên Chúa
tha thứ và đưa nàng về. Trước hết là sự bỏ rơi và hất hủi mà mỗi người cảm nhận
đôi lúc trong cuộc sống.
Lúc
chào đời, ngày mới sinh ra, ngươi không được ai cắt rốn cũng không ai lấy nước
tắm rửa cho sạch, chẳng được ai xát muối và lấy tã bọc cho. Không người
nào ái ngại đưa mắt nhìn ngươi mà làm cho ngươi chỉ một trong những điều ấy vì
xót thương ngươi. Ngày mới sinh ra, ngươi bị quẳng ra giữa đồng vì ai cũng ghê
tởm ngươi (Ed 16, 4-5).
Nhưng
may thay Thiên Chúa đi ngang qua và chạnh lòng thương xót:
Ta đi
ngang qua chỗ ngươi và thấy ngươi giẫy giụa trong máu. Thấy ngươi mình đầy máu
me, Ta đã phán với ngươi: "Hãy sống!"... Ngươi đã nẩy nở, lớn lên và
thành cô thiếu nữ với bộ ngực nở nang, mái tóc mượt mà... Ngươi đã nên xinh đẹp
tuyệt trần và xứng ngôi hoàng hậu (Ed 16, 6-13).
Hãy sống! Ta muốn ngươi sống! Đây là
tiếng gọi cốt lõi nhất và cũng là tiếng gọi đầu tiên Thiên Chúa ngỏ với chúng
ta. Khi cuộc sống xem ra quá nghiệt ngã để chịu đựng, chúng ta hãy nắm chặt những
lời này, sẵn lòng đáp lại tiếng gọi này, hãy sống và đón nhận cuộc sống như
chính nó với tất cả gánh nặng và buồn phiền của nó. Để rồi, cuối cùng, sự chấp
nhận đầy tin tưởng này sẽ đưa chúng ta đến chỗ nhìn nhận cuộc sống như một quà tặng
vô giá.
Nhiều
người quyết định tin vào cuộc sống bất chấp những đau khổ họ gánh chịu. Tôi
nghĩ đến Etty Hillesum, một phụ nữ Do Thái trẻ chết tại Auschwitz năm 1943 (tôi
đã nói về cô trong cuốn Tự Do Nội Tâm của
mình). Cô từng viết, “Tôi sẵn sàng làm chứng cho vẻ đẹp và ý nghĩa cuộc sống
này trong mọi tình cảnh, ngay cả đến chết”[11].
Hoàn cảnh tuyệt vọng của phận người gia tăng bao nhiêu, do Đức Quốc Xã bách hại
người Do Thái gốc Hà Lan, cô càng tin tưởng vào cuộc sống bấy nhiêu.
Lưu ý rằng,
điều này có nghĩa là chấp nhận cuộc sống trong toàn bộ của nó, chứ không chọn lựa
hay chỉ chấp nhận những gì vừa lòng chúng ta và loại bỏ những điều trái ý.
Chúng ta phải “chọn tất cả” như thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã nói[12].
Etty Hilesum bày tỏ cùng một ý tưởng như thế:
Hơn bao
giờ hết, tôi cảm nghiệm mạnh mẽ trong những ngày cuối cùng này rằng: qua những
hành động và cảm giác nhỏ nhặt thường ngày nhất của tôi, có một tín hiệu của
vĩnh cửu đang rón rén rướn vào. Tôi không phải là người duy nhất mệt nhọc, yếu đau,
buồn sầu nhưng tôi đang nên một với hàng triệu người khác qua các thế hệ. Tất cả
đó là những gì mà cuộc sống được làm nên. Cuộc sống tươi đẹp đầy ý nghĩa trong
những nghịch lý của nó nếu bạn biết nắm bắt nó như một toàn bộ. Như vậy, cuộc sống
trong một ý nghĩa nào đó làm nên một toàn bộ hoàn hảo. Ngay khi chúng ta phủ nhận
hay muốn loại bỏ những yếu tố nào đó, ngay khi chúng ta theo đuổi những ước muốn
hay sở thích riêng bằng cách chỉ chấp nhận một khía cạnh nào đó của cuộc sống
và loại bỏ khía cạnh khác, cuộc sống bấy giờ sẽ trở nên phi lý. Một khi ý nghĩa
của cái toàn bộ của nó bị mất đi, mọi sự trở nên tùy tiện[13].
Cách đây
không lâu, sau khi chia sẻ đề tài niềm hy vọng vào một buổi chiều tĩnh tâm tại
một trong những cộng đoàn của mình, tôi đã nói chuyện với một bà cụ trong dăm
ba phút, người đã khiến tôi xúc động sâu lắng. Bà cụ đã ngoài 80 nhưng rất đôn
hậu, quý phái… với một khuôn mặt bình an. Bà kể, bà gặp rất nhiều thử thách
trong đời, nhất là khi ở tuổi 35 với 4 đứa con… chồng bà nhẫn tâm bỏ bà để đi
theo một người phụ nữ khác. Trong mấy tuần đầu, bà sụp đổ, khép mình trong phiền
muộn và không còn thiết sống.
Một
ngày nọ, bà nghe một giọng nói vang lên trong tâm hồn như thể của Chúa Giêsu,
“Nếu con không tự mình đứng lên, con cái của con không thể khôn lớn và trưởng
thành”. “Thế là tôi đã tìm lại can đảm để tiếp tục sống”. Bà nói tiếp, “Để có
thể bắt đầu lại cuộc sống và chăm sóc con cái, chẳng dễ chút nào; tôi đã phải chiến
đấu rất nhiều, nhưng Thiên Chúa luôn trung thành và Người không bao giờ bỏ tôi”.
Bà kết luận, “Quả thật, cuộc sống không giống với những gì chúng ta tưởng tượng
ở tuổi đôi mươi! Đến cuối đời, chúng ta mới thấy nó đầy dẫy những quà tặng tuyệt
vời… và bí quyết là, bằng lòng với mọi sự cuộc sống đặt ra cho chúng ta!”.
GIÁ
TRỊ CỦA MỌI CUỘC SỐNG
Ở một mức độ đáng
lo ngại, văn hóa Tây Phương đương đại gần như đánh mất tầm nhìn về những chân
lý này. Nó gặp khó khăn trong việc nhận ra giá trị thật của mỗi cuộc sống, thay
vào đó, văn hoá Tây Phương cho rằng, cuộc sống chỉ đáng sống khi người ta giàu
có, trẻ trung, khoẻ mạnh, thành công trong mọi việc, một chủ thể đầy tiềm năng
trên trang bìa một tạp chí thời trang nào đó. Thế mà, tật nguyền, già cả và đau
khổ đang cướp đi giá trị cuộc sống. May thay, Hội Thánh vẫn trung thành với Tin
Mừng, không ngừng rao giảng về giá trị mọi cuộc sống, ngay cả với những sinh mệnh
không thích hợp với ý tưởng hiện tại của một xã hội đang quan niệm một cách
khác thế nào là thành công.
Những
chứng từ nổi bật có khả năng mở rộng tâm hồn và trí hiểu của chúng ta vẫn còn
đó. Tôi nghĩ đến chứng từ của Cha Henri Nouwen, một ngòi bút chuyên viết về đường
thiêng liêng rất được khen ngợi, ngài đã từng sống tại cộng đoàn Jean Vanier’s
L’ Arche và nhận ra rằng, việc tiếp xúc với người tàn tật là một nguồn cho mỗi
người biết hoán cải và trở nên phong phú cách lạ thường. Trong một cuốn sách của mình, Nouwen đã viết rất cảm động về
Adam, một người đàn ông tật nguyền trầm trọng, anh không nói được và hoàn toàn
nhờ cậy người khác về mọi nhu cầu hàng ngày; ấy thế, anh lại trở nên quà tặng vô
giá cho những người chung quanh bởi sự bình an toả ra từ anh và một sự hiện hữu
nào đó vốn đã biến mọi ý tưởng thành những gì là thiết yếu nhất[14].
TỘI
LÀ SỰ KHƯỚC TỪ SỐNG
Hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta biện phân và huỷ bỏ những
khước từ của mình về việc không muốn sống. Tội, cách nào đó, luôn luôn là một khước
từ dẫu nó khoác nhiều hình thức như thiếu hy vọng, quyến luyến với những kế hoạch
hạn hẹp, từ chối đau khổ, quay lưng với Thiên Chúa và tha nhân, mất niềm tin
vào ơn sủng vô song đang đồng hành với sự hiện hữu của chúng ta. Hãy yêu mến và
chấp nhận cuộc sống của mình - không phải những cuộc sống tưởng tượng - nhưng
là những cuộc sống Thiên Chúa ban tặng ngày này qua ngày khác, đồng thời khám
phá nguồn phú túc ẩn tàng Người ban.
Từ đầu đến giờ
chúng ta đã xét xem ý tưởng “lời mời gọi”. Giờ đây, chúng ta cùng hướng về những
con đường chính, qua đó, lời mời gọi đến với chúng ta. Trước hết, là Thánh Kinh.
◊◊3◊◊
LỜI
THIÊN CHÚA,
LỜI
QUYỀN NĂNG CÓ SỨC KÊU GỌI
Chỉ
cần lướt mắt đến cuốn Thánh Kinh, đã đủ cho tôi, để ngay lúc đó, tôi hít lấy
hương thơm cuộc đời Chúa Giêsu và tôi biết mình phải chạy về đâu (Thánh Têrêxa
Hài Đồng Giêsu)[15].
Lời của Thiên Chúa được Thánh Kinh truyền lại là một
phương tiện nền tảng, qua đó, Người gọi chúng ta, trao cho chúng ta quà tặng sự
sống của Người. Sống với Thánh Kinh không phải là một cái gì xa xỉ dành riêng
cho một số ít những người nhàn rỗi hay cho những người có sở thích giải thích nó.
Sống với Thánh Kinh là một nhu cầu sống còn đối với mỗi Kitô hữu nhất là trong
thời đại bấp bênh, tranh dành và hỗn độn này. Chúng ta có một nhu cầu cấp thiết
đối với Thánh Kinh như một nguồn mạch ánh sáng và sức mạnh không bao giờ cạn,
soi sáng và làm nền tảng cho cuộc sống chúng ta. Chúa Giêsu nói, “Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói
sẽ chẳng qua đâu” (Lc 23, 33).
Thánh Kinh có một
sức mạnh phi thường để nói với chúng ta cách sâu sắc và riêng tư, đáp ứng chính
xác ngay “lúc này và ở đây” nhu cầu cần được sáng soi, động viên khích lệ và
ngay cả thôi thúc sự hoán cải vốn đang nằm sâu trong tâm hồn mỗi người. Những khoảnh khắc này xảy ra khi một câu Thánh
Kinh - dẫu trước đó không có ý nghĩa gì đặc biệt - bỗng nhiên bùng cháy với một
thông điệp vốn tương xứng với hoàn cảnh hiện tại của chúng ta để rồi qua đó, chứng
thực lòng trung thành và nhân hậu của Thiên Chúa.
Tôi xin mở đầu với
một bản văn súc tích trong Hiến Chế Tín Lý Về Mạc Khải của Thiên Chúa của Công Đồng Vaticanô II (Dei
verbum). Một trong những hậu quả đáng tiếc về phản ứng của giới Công Giáo trước
sự quá khích của anh em Tin Lành là đã có một sự xao lãng nào đó đối với Thánh
Kinh nơi những người công giáo. Vaticanô II đã tìm cách sửa chữa điều này và rồi,
những phong trào Thánh Linh như Canh Tân Đặc Sủng nở rộ sau Công Đồng được mô tả
như một cơn khát Lời Chúa mãnh liệt. Nhưng trước hết, hãy để chính các giáo phụ
của Công Đồng lên tiếng:
Giáo
Hội luôn tôn kính Thánh Kinh như chính Thân Thể Chúa, nhất là trong Phụng Vụ
Thánh, Giáo Hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như
từ bàn tiệc Mình Chúa Kitô để ban phát cho các tín hữu. Cùng với Thánh Truyền,
Thánh Kinh đã và đang được Giáo Hội xem như quy luật tối cao hướng dẫn đức tin…
Bởi
vậy, mọi lời giảng dạy trong Giáo Hội cũng như chính đạo thánh Chúa Kitô phải
được Thánh Kinh nuôi dưỡng và hướng dẫn…[16]
Ở đây Công Đồng nói đến Thánh Kinh như nguồn lương thực
phong phú, như Thánh Thể cho các tín hữu. Thánh Jêrôme nói, “Chúng ta ăn thịt
và uống máu Chúa Kitô trong bí tích Thánh Thể và trong việc lắng nghe Thánh
Kinh nữa”[17].
Chúng ta cũng lưu
ý một vài thuật ngữ khác được dùng để diễn tả Lời như một quà tặng quý giá đến
từ Chúa Cha, đó là: sức mạnh đức tin, của ăn linh hồn, suối nguồn thanh khiết
vô tận của đời sống thiêng liêng.
Thánh Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II lấy ý tưởng này từ Công Đồng Vaticanô II. Ở đây chúng ta sẽ chỉ
xem xét một bản văn trích từ Tông Thư Ngàn
Năm Mới, Novo Millennio Ineunte, gởi đến toàn thể Hội Thánh vào lúc khởi đầu
thiên niên kỷ thứ ba.
Cấp thiết nhường
bao để việc lắng nghe Lời Chúa trở nên một cuộc gặp gỡ đem lại sự sống - theo
truyền thống cổ xưa và mãi mãi vững chắc của phương pháp đọc Sách Thánh trong
tinh thần cầu nguyện (Lectio Divina) - vốn được kín múc từ bản văn Thánh Kinh lời
sống động hằng chất vấn, hướng dẫn và nắn đúc cuộc đời chúng ta[18].
THÁNH
KINH MỜI GỌI CHÚNG TA ĐỌC LỜI CHÚA
Thánh Kinh chứa đựng nhiều lời mời gọi hãy suy niệm Lời
của Thiên Chúa. Chẳng hạn, Thánh Vịnh 1:
”Phúc thay người chẳng nghe theo lời bọn
ác nhân… nhưng vui thú với lề luật Chúa, nhẩm đi nhẩm lại suốt đêm ngày”. Thánh
Vịnh hứa hẹn những điều kỳ diệu sẽ đến với những ai cam kết với việc suy niệm
không ngừng này, “Người ấy tựa cây trồng
bên dòng nước, cứ đúng mùa là hoa quả trổ sinh, cành lá chẳng khi nào tàn tạ. Người
như thế làm chi cũng sẽ thành”.
Tôi muốn trích dẫn
thư thứ nhất của thánh Phêrô,
Nhờ vâng phục sự
thật, anh em đã thanh luyện tâm hồn để thực thi tình huynh đệ chân thành. Anh
em hãy tha thiết yêu mến nhau với tất cả tâm hồn. Vì anh em đã được tái
sinh, không phải do hạt giống mục nát, mà do hạt giống bất diệt, nhờ Lời Thiên
Chúa hằng sống và tồn tại mãi mãi, vì mọi phàm nhân đều như cỏ và tất cả
vinh quang của họ cũng đều như hoa cỏ; cỏ thì khô, hoa thì rụng; Lời Chúa vẫn tồn
tại đến muôn thuở muôn đời. Đó chính là Lời đã được loan báo cho anh em như một
Tin Mừng. Vậy, anh em hãy từ bỏ mọi thứ gian ác, mọi điều xảo trá, giả hình và
ghen tương cùng mọi lời nói xấu gièm pha. Như trẻ sơ sinh, anh em hãy khao
khát sữa tinh tuyền là Lời Chúa, nhờ đó anh em sẽ lớn lên để hưởng ơn cứu độ, nếu
anh em đã nghiệm thấy Chúa tốt lành (1Pr 1, 22-2, 3).
Đoạn thư cảm động
này viện dẫn sức mạnh của Lời trong việc đem lại cho nhân loại một sự sống mới
lành mạnh và yêu thương. Nó mời gọi chúng ta những mong chờ Lời như em bé khát khao
bầu sữa mẹ, nguồn lương thực đứa trẻ cần để sống và lớn lên. Đoạn thư này nối kết
việc lắng nghe Lời với sự hào phóng của Thiên Chúa trích trong Thánh Vịnh 34: “Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết
Chúa thiện hảo dường bao”. Trải nghiệm về sự rộng lượng của Thiên Chúa sẽ đổ
đầy tâm hồn chúng ta niềm tin tưởng và làm tan chảy sự chai lì của nó. Việc đọc
Lời Chúa đôi lúc xem ra khô khan, nhưng nếu cứ kiên trì, sớm muộn gì, chúng ta
cũng tìm thấy trong đó sự ngọt ngào vốn ngon tuyệt hơn bất cứ của ăn nào trên
trần gian.
THIÊN
CHÚA Ở TRONG LỜI CỦA NGƯỜI
Một cách nhiệm mầu, Thánh Kinh thông truyền chính sự
hiện diện của Thiên Chúa. Trong một chú thích về Mười Điều Răn của Kinh Talmud
(tập hợp những văn bản cổ về luật và truyền thống Do Thái) có
câu: “Bản tính của Ta, Ta đã biểu lộ trên giấy mực”. Mặc cho những giới hạn của
ngôn ngữ phàm trần mà các tác giả Thánh Kinh dùng, Chúa Thánh Thần vẫn là Đấng hướng
dẫn các ngài, làm cho những lời đó thành phương tiện để Thiên Chúa thực sự ở giữa
chúng ta bằng tất cả tình yêu, khôn ngoan và sức mạnh của Người.
Cả truyền thống Do
Thái giáo lẫn Kitô giáo đều làm chứng về điều đó. Không nên cường điệu về điều này.
Nhưng sẽ là một sai lầm lớn nếu nghĩ rằng Thánh Kinh cũng chỉ như một cuốn sách
bình thường khác. Việc đọc Thánh Kinh trong đức tin làm cho chính Thiên Chúa hiện
diện trong cuộc sống chúng ta, đồng thời, đưa Người đến với tâm hồn chúng ta. Nếu
chúng ta để cho lời của Thánh Kinh tràn đầy tâm trí và đi vào tâm hồn, Thiên
Chúa sẽ hiện diện vì Người ở trong lời mình.
Thông thường, điều
này lại khác với chúng ta. Hiếm khi lời chúng ta bộc lộ đầy đủ chính con người
mình nhưng rất nhiều lần, lại đầy đủ với những gì nông cạn vô bổ, thậm chí
không thật. Khi nói “Tôi yêu em” với ai đó, những lời này có thể mang đầy đủ trọng
lượng của tự do, cam kết và lòng chung thủy của tôi, hoặc lời đó chỉ là những lời
dối trá những muốn nói rằng “Tôi muốn một điều gì đó nơi cô ngay lúc này” mà
thôi. Thiên Chúa, trái lại, Người là sự thật, khi Người thông truyền một điều
gì, Người thông truyền cả chính mình Người. Đón nhận lời Thiên Chúa vào trong
tâm hồn chúng ta nghĩa là đón nhận sự hiện diện và tình yêu của Người cũng như
nhận chìm chúng ta vào mối thâm tình với Người.
Việc trao đổi ngôn
từ giữa các đôi bạn tạo nên thân mật, tạo nên một không gian giao tiếp, trao tặng
cho nhau, có lúc thậm chí tặng cả tình yêu thân xác. Cũng vậy, việc lắng nghe Lời
và đáp trả trong cầu nguyện tạo nên mối thân tình giữa Thiên Chúa và người tín
hữu. Điều này thật căn bản, đặc biệt với những ai cam kết sống độc thân vì Nước
Trời. Thời giờ dành cho việc cầu nguyện với Thánh Kinh (Lectio Divina) tạo nên
và đào sâu thêm sự gần gũi yêu thương với Thiên Chúa mà nếu không có nó, đời
dâng hiến sẽ mất hết ý nghĩa. Sốt sắng thực hành cầu nguyện với Thánh Kinh (Lectio
Divina) là điều tối cần thiết cho bậc sống này. Nó làm cho người dâng hiến trở
thành “người bạn đời” của Lời.
Suy niệm Thánh
Kinh là nền tảng cho bất cứ đời sống cầu nguyện nào của người Kitô hữu đích thực.
Thiên Chúa nói với chúng ta và gợi lên trong chúng ta một lời đáp trả qua việc
suy niệm. Đây là cách thức mở đầu của cuộc đối thoại trong cầu nguyện.
Chúng ta cần tìm lời
lẽ để nói với Thiên Chúa. Những lời đến với chúng ta cách tự phát có giá trị
riêng của chúng, dĩ nhiên, nhưng Thánh Kinh đã đưa ra những cách diễn đạt và
ngôn ngữ để chúng ta ngỏ cùng Thiên Chúa và khi làm vậy, những lời ấy giúp
chúng ta hình thành lời cầu nguyện của mình. Chẳng hạn, các Thánh Vịnh là một
trong những món quà đẹp đẽ như thế. Dẫu là ngôn ngữ của loài người nhưng Thánh
Vịnh vẫn thiêng thánh sâu sắc và diễn tả vô vàn cảm xúc như đau khổ, phiền muộn,
cám dỗ, nổi loạn và cả sự tin tưởng trong bình an cũng như lúc vui mừng hớn hở.
Chúng luôn kết thúc bằng cách làm cho chúng ta tin tưởng và hối thúc một tâm
tình cảm tạ tri ân.
Càng được nuôi dưỡng
bằng Thánh Kinh, lời cầu nguyện càng chính hiệu và sinh hoa kết quả; đồng thời,
dù hoàn toàn thuộc về hạ giới nhưng những lời đó có khả năng giúp chúng ta thông
hiệp với mầu nhiệm Thiên Chúa vốn không thể hiểu thấu. Ai có Lời Chúa trong trí
và trong tâm, người ấy có thể đáp lại lệnh truyền “Hãy cầu nguyện không ngừng!” (1 Tx 5, 7).
LỜI
VÀ SỰ BIỆN PHÂN
Thánh Vịnh 118 nói, “Lời Chúa là ngọn đèn soi bước con đi”, Lời Chúa soi dọi ánh sáng
chân lý sâu xa nhất vào cuộc đời chúng ta. Thư gửi tín hữu Do Thái đã nói về sức
mạnh biện phân của Thánh Kinh:
Lời Thiên Chúa là
lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân
cách tâm với linh, cốt với tuỷ; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của
lòng người. Vì không có loài thụ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa, nhưng
tất cả đều tần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta phải trả lẽ
(Dt 4, 12-13).
Lời Chúa tựa hồ tấm
gương, qua đó, chúng ta có thể biết thật chính mình, tốt cũng xấu. Lời Chúa phê
chuẩn những thoả hiệp của chúng ta với tội lỗi, trước cả hai cách chọn lựa, phạm
tội hay không phạm tội; đồng thời chỉ rõ và khuyến khích những gì tốt nhất
trong chúng ta. Lời Chúa có khả năng giúp chúng ta phân biệt giữa những cấu
trúc tâm lý đã bám rễ và gây thương tích cho bản tính con người cũng như sự dạt
dào của tình yêu đích thực nơi chúng ta. Với tấm gương ẩn dụ này, thánh Giacôbê
mời gọi chúng ta soi mình vào Lời Chúa là “luật
trọn hảo mang lại tự do”, nhờ đó, có thể gắn bó và tìm được hạnh phúc qua
việc sống với Lời Chúa (Gcb 1, 15).
Việc chuyên cần đọc
Lời Chúa sẽ khơi lên một cơn khủng hoảng sinh ích, một sự “phê phán” cần thiết (Krisis trong tiếng Hy Lạp - một thuật ngữ
thường gặp trong Tin Mừng thánh Gioan) vốn không lên án nhưng dẫn đến hoán cải
và cứu độ. Chẳng hạn, khi nghĩ về dụ ngôn chủ vườn nho trả cho tất cả người làm
công của ông giống nhau, những người chỉ làm một giờ cũng như những người làm
việc cả ngày dưới nắng nôi thiêu đốt, khiến những người sau tức giận càu nhàu
(Mt 20, 1-16), tôi nghĩ đến những lời này:
Còn Thầy, Thầy bảo
anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ
cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì
hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi
với người ấy hai dặm (Mt 5, 39-41).
Chúng ta dễ sốc
khi nghe đoạn trích này, nhưng cái sốc này có ích cho chúng ta. Nó đưa ra ánh
sáng những tính toán, sợ hãi và cách thức đối kháng của con người. Chúng ta được
gọi để đảm nhận việc cải thiện bản thân, chúng ta được gọi để mở lòng đón nhận những
hoạt động của ân sủng, để đặt niềm tin vào Thiên Chúa đến nỗi không còn cần phải
tính toán hay tự vệ nhưng có khả năng yêu thương trong mọi hoàn cảnh. Và như thế,
Lời Chúa dần dần kéo chúng ta ra khỏi khôn ngoan thế gian để đạt đến sự khôn
ngoan của Thiên Chúa.
LẮNG
NGHE LỜI CHÚA,
ĐIỀU
KIỆN ĐỂ SINH HOA KẾT QUẢ
Một trong những dụ ngôn nói về Lời Chúa được nhiều người
biết đến trong Tin Mừng là dụ ngôn Lời dưới hình ảnh hạt giống được gieo[19].
Một phần, dụ ngôn cảnh báo về những gì có thể khiến Lời Chúa trở nên cằn cỗi
trong đời sống: thiếu kiên trì, lo lắng, giàu sang và khoái lạc. Nhưng bài học
đầu tiên của dụ ngôn lại chú trọng đến việc sinh hoa kết trái của Lời. Khi “nghe Lời với tấm lòng cao thượng và quảng đại,
rồi nắm giữ và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả”, nó trổ sinh gấp trăm lần.
Ngôn sứ Isaia cũng chứng thực việc sinh hoa kết trái này:
Cũng như mưa với
tuyết sa xuống từ trời, không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa
làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người
đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ
không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của
Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó (Is 55, 10-11).
Lịch sử Hội Thánh ghi
nhận nhiều chứng nhân nam nữ, những người đã được một câu Lời Chúa nào đó chạm
đến và đánh động, họ tìm được ý nghĩa cũng như sinh hoa kết quả nhờ sống câu Lời
Chúa đó. Thánh Antôn Sa Mạc, tổ phụ của mọi thầy dòng, là một nông dân Ai Cập,
đã khóc lên khi nghe những lời này trong nhà thờ tại làng của mình, “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán
tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi
hãy đến theo tôi” (Mt 19, 21). Hoa trái trong đời sống và thành công vô
cùng lớn lao qua nếp sống tu trì của ngài đã khai mào trong Hội Thánh bắt đầu từ
việc ngài lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành. Chúng ta cũng hãy nghĩ đến mẹ
Têrêxa Calcutta, người được đánh động và hiến dâng đời mình phục vụ anh chị em
nghèo khó bởi lời “Ta khát” của Chúa Giêsu. Cũng như Tông Huấn Đời Sống Thánh
Hiến, Vita Consecrata[20],
1996, của thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, đã nói đến những người sống đời
thánh hiến rằng, “họ đạt được hoa trái thiêng liêng nhờ chấp nhận Lời” như Đức
Maria[21];
cũng đúng như thế với mọi Kitô hữu.
Trong một ý nghĩa
nào đó, ơn gọi của mỗi người nam hay người nữ là trao thân mình cho Lời. Lời
Chúa phải được hoá thân thành xương thành thịt, mặc lấy xác phàm này, bằng không,
nó vẫn trừu tượng và xa vời. Cùng lúc, cuộc sống con người phải được thấm đẫm bởi
Lời Chúa, bằng không, nó sẽ quay lại với chính mình và thiếu mất ý nghĩa vĩnh cửu
của nó. Không gì trên trần gian này đẹp hơn tâm hồn một con người luôn mở ra với
Lời, kiên trì khao khát để sống Lời đó đến cùng, và nhờ đó, được biến đổi và
canh tân cách thẳm sâu. Đây là chính mầu nhiệm của Đức trinh nữ Maria với hoa
trái trổ sinh ngoài sức tưởng tượng trong cuộc đời Mẹ, “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần
nói” (Lc 1, 38).
Cách rõ ràng, Thánh
Kinh và lịch sử Hội Thánh cho thấy Lời Chúa và lời mời gọi mà Lời Chúa thông truyền
có sức đánh thức kho tàng rộng lượng, tình yêu và lòng can đảm trong tâm hồn
chúng ta; một sự đánh thức xem ra vượt quá sức người đơn thuần. Sự quên mình bộc
lộ tràn trề một cách rất đáng ngạc nhiên ngay cả với những người chỉ mong được
ơn này ơn khác.
Hãy nghĩ tới ơn gọi
của Lêvi, về sau sẽ là Matthêu. Ông là người thu thuế, một người cọng tác với
những người Rôma đô hộ qua việc thu thuế và hẳn ông đã bỏ túi một phần lớn
trong số đó. Không cần phải nói, những người thu thuế thời đó không được kính
trọng. Chúa Giêsu tiến đến Lêvi khi ông đang ngồi làm việc ở bàn thu thuế. Người
gọi ông: “Hãy theo tôi!” và Lêvi liền
đứng dậy đi theo Người (Mt 9, 9).
Sau đó Lêvi (bây
giờ là Matthêu, tông đồ của Đức Giêsu) đã khoản đãi một bữa tiệc linh đình. Đức
Giêsu có ở đó, cả những người bạn cũ của Matthêu cũng có mặt: những người thu
thuế, những người tội lỗi, những người đàn bà xấu xa. Người Pharisiêu lấy làm
chướng tai gai mắt. Và tất cả mọi người, ngoại trừ Đức Giêsu, đều ngạc nhiên về
sự thay đổi bất ngờ của người thu thuế trước đó. Một người vốn chỉ quan tâm đến
việc làm giàu, thậm chí bằng những phương cách đê hèn, giờ đây trở thành tông đồ
của một vị thầy lưu động rao giảng Nước Thiên Chúa! Điều này quả là hiếm hoi. Người
ngạc nhiên hơn hết là chính Lêvi (Matthêu). Sau khi đón nhận lời mời gọi ngỏ với
mình, Lêvi cảm thấy có một điều gì đó hoàn toàn mới lạ đang dần dần xuất hiện
trong ông: hãy mạnh mẽ thay đổi, để bước vào một hành trình mới, để thôi tìm
cách làm chủ đời mình và phó mình cho Một Đấng Khác.
Hẳn Lêvi đã có thể
viện nhiều lý do để nói với Đức Giêsu, “Ngài hãy gọi người khác, một người nào
đó thật thà, tuân giữ lề luật Do Thái. Hãy xem công việc của tôi: tôi không xứng
đáng”. Nhưng Lêvi khá điên rồ - hay đúng hơn, đủ khôn ngoan - để đón nhận một lời
mời gọi không lường trước. Khi làm vậy, Lêvi cảm nghiệm rằng, Lời đã gọi ông
cũng có thể đốt lên trong ông một lòng quảng đại, một sự tự do và một tâm hồn
vô vị lợi tưởng như không bao giờ có trước đó. Đây chính là những gì Đức Giêsu muốn
nói đến khi Người tuyên bố, “Ai tin vào tôi như Thánh Kinh đã nói: từ lòng Người,
sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống” (Ga 7, 38).
LỜI
CHÚA VÀ CUỘC CHIẾN THIÊNG LIÊNG:
LỜI
QUYỀN NĂNG
Trong chương 6 thư gửi giáo đoàn Êphêxô, thánh Phaolô
cổ vũ các tín hữu của ngài tin tưởng và can đảm đón nhận cuộc chiến như một phần
không thể thiếu trong đời sống mọi Kitô hữu đích thực.
Sau cùng, anh em
hãy tìm sức mạnh trong Chúa và trong uy lực toàn năng của Người. Hãy
mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đứng vững trước những
mưu chước của ma quỷ (Ep 6, 10-11).
Ngay sau đó, ngài
miêu tả những yếu tố khác nhau của bộ binh giáp cần kíp “Để có thể vận dụng toàn lực đối
phó và đứng vững trong ngày đen tối”. Yếu tố cuối cùng nhưng không kém phần
quan trọng là “Gươm của Thần Khí ban cho,
tức là Lời Thiên Chúa” (Ep 6, 17).
Đây là lời mời gọi
chúng ta ý thức hơn về Thánh Kinh như nguồn trợ lực bất ly thân trong những cơn
thử thách của cuộc đời. Không đơn thuần chúng ta phải đối phó với sức mạnh phàm
nhân, nhưng cách mầu nhiệm, còn phải chiến đấu với những thực thể của thế lực
thần thiêng:
Vì chúng ta chiến
đấu không phải với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những
bậc thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao
(Ep 6, 12).
Tông Thư Novo Millennio Ineunte, Ngàn Năm Mới, trình
bày kế hoạch cho Hội Thánh trong thiên niên kỷ thứ 3, thánh Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II nói, một Kitô hữu không cầu nguyện là một Kitô hữu “có nguy cơ gặp rủi
ro”[22].
Như một hệ luận tất yếu, tôi xin nói thêm rằng, điều này cũng đúng đối với một Kitô
hữu không đọc Lời Chúa thường xuyên. Đây là vấn đề sống chết vì “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng
còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra" (Mt 4, 4). Thế gian này thật
mù mịt, chúng ta lại quá yếu đuối; vì thế, con người không thể sống nếu thiếu ánh
sáng và sức mạnh của Lời Chúa.
Tin Mừng Nhất Lãm,
nhất là Tin Mừng Maccô cho thấy đám đông đã ấn tượng biết bao bởi lời quyền
năng của Đức Giêsu: “Thiên hạ sửng sốt về
lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ
không như các kinh sư” (Mc 1, 22). Và “Thế
nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho
cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!" (Mc 1, 27). Thẩm quyền này
có ý nói Đức Giêsu tự mình nói lời của mình chứ không phải lời của ai khác. Điều
này trái ngược với lời giảng dạy của các kinh sư thời bấy giờ, những người
không thể xác quyết một điều gì mà không phải dựa vào lời các hiền nhân trước
đó - và dĩ nhiên không làm sao tránh khỏi việc thêm thắt đôi chút lời của họ. Đức
Giêsu không phải là một người chuyển tải lời; Ngài chính là Lời.
Lời Đức Giêsu đầy
sức mạnh và hiệu năng. Khi Ngài trừ một quỷ nào đó, nó trốn chạy mà không chút kháng
cự. Khi truyền lệnh cho biển đang bão tố “Hãy
im đi, hãy lặng đi!”, Ngài tạo nên sự một lặng lẽ lớn lao - không chỉ cho
thuyền bè, nhưng còn cho những tâm hồn đang xao xuyến của các môn đệ. Khi nói “tội con được tha” với một tội nhân đáng
thương, người đó lập tức cảm thấy được thanh tẩy và giao hoà với Thiên Chúa và
với chính mình, mặc lấy nhân phẩm mới… và hết sức vui mừng.
Nhiều lúc trong cuộc
đời mỗi người chúng ta, uy quyền tốt lành của Lời Chúa trở nên nguồn lực cứu
thoát; những lúc khốn khổ, sự bình tâm sẽ chỉ có thể tìm thấy trong lời Thánh Kinh.
Bị ma quỷ cám dỗ trong sa mạc, Đức Giêsu đã vượt thắng nhờ Thánh Kinh. Tên Cám
Dỗ sẽ mạnh mẽ hơn chúng ta nếu chúng ta cứ đóng mình trong những lý lẽ của loài
người. Chỉ có Lời Chúa mới có khả năng giải giới nó.
Điều này đúng với kinh
nghiệm của mỗi người chúng ta; chẳng hạn khi lo lắng, ngờ vực và thử thách. Tự
mình tìm lối thoát, chúng ta chỉ gặp phải ngõ cụt. Cách duy nhất để lấy lại niềm
tin, lòng trông cậy và bình an là quay về với Lời Chúa, “Đừng lo lắng về ngày mai” (Mt 6, 34). “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của
Người cho anh em” (Lc 12, 32). “Ngay
đến tóc trên đầu anh em cũng được đếm cả rồi” (Lc 12, 7).
Bình an thực sự sẽ
đến khi chúng ta bám chặt vào lời Thiên Chúa hứa. Những lúc ngờ vực hay bối rối,
chúng ta đón lấy một câu Lời Chúa trong Thánh Kinh bằng một hành vi đức tin và rồi,
uy quyền của lời này sẽ là nơi nương tựa và sức mạnh cho mỗi người. Nó không phải
là chiếc đũa thần giúp ngăn ngừa chúng ta khỏi tình trạng rối rắm, đau khổ nhưng
nó sở hữu một quyền năng độc nhất vô nhị mang cho chúng ta một niềm hy vọng bất
chấp bất cứ điều gì có thể xảy ra. Được đón nhận với niềm tin, Lời Chúa có sức
mạnh kết thúc những trào lộng của những lý lẽ thất thường, để rồi, củng cố
chúng ta trong chân lý và bình an, đồng thời, trao tặng mỗi người niềm hy vọng
vốn là “cái neo chắc chắn của tâm hồn” (Dt 6, 19).
Biết bao ví dụ
trong Thánh Kinh có thể trở nên nguồn mạch quý báu cho những cuộc chiến đấu của
chúng ta. Nếu tôi cảm thấy cô độc, bị bỏ rơi, lời Thánh Kinh chất vấn, “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của
mình hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên
đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ” (Is 49, 15). Nếu tôi
cảm thấy Thiên Chúa xa vắng, lời Thánh Kinh an ủi, “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20). Nếu tôi
cảm thấy dày vò bởi tội lỗi, Thánh Kinh xác quyết, “Ta sẽ xoá bỏ các tội phản nghịch của ngươi, và không còn nhớ đến lỗi lầm
của ngươi nữa” (Is 43, 25). Nếu tôi cảm thấy thiếu thốn những điều cần thiết
để tiến bộ, Thánh Vịnh mời gọi tôi thực hiện hành vi đức tin này, “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu
thốn gì” (Tv 23, 1).
Đừng để một ngày trôi qua mà không có lấy một vài phút
để đọc Thánh Kinh. Có thể công việc này đôi khi xem ra không mấy ý vị nhưng nếu
kiên trì với lòng đơn sơ và khẩn nguyện, Thánh Kinh sẽ khắc sâu vào trí nhớ cả
khi chúng ta không ý thức điều đó. Và khi cần, trong những lúc khó khăn, một
câu Lời Chúa nào đó sẽ hiện lên trong ý thức của chúng ta và đó sẽ là lời mang
lại hy vọng và bình an.
LỜI
NUÔI DƯỠNG
ĐỨC
TIN, ĐỨC CẬY VÀ ĐỨC MẾN
Trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Thexanônica, thánh
Phaolô khuyên nhủ, “Chúng ta hãy sống tiết
độ, mặc áo giáp là đức tin và đức mến, đội mũ chiến là niềm hy vọng và ơn cứu độ”
(1Tx 5, 8). Ba nhân đức đối thần tin, cậy, mến là vũ khí thiết yếu của chúng ta
trong mọi cuộc chiến thiêng liêng.
Trong bất cứ giây
phút nào của thử thách, những nhân đức này cũng gần như bị thách thức: Ngươi đặt
đức tin của ngươi vào đâu? Ngươi đã đặt niềm trông cậy của ngươi nơi nào, nơi Thiên
Chúa hay chính bản thân ngươi? Lòng mến của ngươi có vô điều kiện không? Dẫu thế,
mỗi thử thách cũng là một tiếng gọi để chúng ta làm nên một hành vi đức tin, đức
cậy và đức mến cách tinh tuyền hơn.
Thánh Kinh sở hữu
một khả năng phi thường để cổ vũ đức tin, củng cố đức cậy và nuôi dưỡng đức mến.
Thánh Phaolô đã chia sẻ tư tưởng tuyệt vời này trong thư gửi giáo đoàn Rôma:
Quả thế, mọi lời
xưa đã chép trong Thánh Kinh đều được chép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm
chúng ta nên kiên nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó, chúng ta vững lòng trông
cậy (Rm 15, 4).
Nhưng đoạn văn ý
nghĩa hơn hết là câu chuyện hai môn đệ trên đường Emmaus. Họ rời Giêrusalem với
gương mặt u sầu, tâm hồn nặng trĩu và cảm thấy niềm hy vọng của mình vào Đức Giêsu
đã vỡ vụn. Rồi bỗng nhiên một người lạ đến đi cùng và giải thích Thánh Kinh cho
họ. Cuối cùng, khi đã nhận ra Chúa lúc Ngài bẻ bánh trước khi Ngài biến mất, họ
vội vã trở lại Giêrusalem, được đổi mới trong đức tin và đức cậy, để loan báo
cho các môn đệ khác về cuộc gặp gỡ của họ với Chúa Phục Sinh, và khi đang trên
đường đi, họ bảo nhau:
Khi Người nói chuyện
và giải thích Thánh Kinh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên
sao? (Lc 24, 32).
Khi Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta ơn khôn ngoan để
hiểu Lời thì đức tin, đức cậy và đức mến bừng cháy trong tâm hồn mỗi người.
LỜI
CHỮA LÀNH,
LỜI
THANH TẨY TÂM HỒN
Trở nên thiết thân với Thánh Kinh, để Thánh Kinh thấm
nhuần trong tâm hồn và trí nhớ… mang lại cho chúng ta ơn chữa lành sâu xa với
thời gian. Đây không phải là phù phép. Việc đọc Thánh Kinh chắc hẳn không thay thế
cho việc chữa trị chuyên môn có thẩm quyền mỗi khi cần đến; dẫu thế, Lời Chúa vẫn
có sức chữa lành, kinh nghiệm thiêng liêng của các nam nữ tu sĩ trong sa mạc ở
những thế kỷ đầu của Hội Thánh chứng tỏ điều đó. Qua việc cầu nguyện liên lỉ, họ
tìm sự hoán cải riêng tư, sự trong sạch của tâm hồn và gặp gỡ Thiên Chúa. Một
phương tiện được yêu chuộng nhất là Thánh Kinh, qua đó và nhờ đó, họ suy niệm
và cố gắng sống với Lời Chúa ngày đêm. Kết quả, họ có được một sự hiểu biết sắc
bén đâu là những thoả hiệp ngấm ngầm với ma quỷ, đâu là sự thanh tẩy cần có để
tái lập đúng đắn một tâm thần hướng đến bình an, tự do và một nhân cách viên
mãn[23].
Cuộc sống chúng ta
phản ánh những lời lẽ có trong chúng ta. Trí nhớ, cả ý thức lẫn vô thức, như một
thùng chứa “lời” vốn luôn hướng dẫn để tạo nên căn tính của mình và tự ứng xử
theo một cung cách nhất định. Cuộc đối thoại chúng ta mang theo trong chính
mình sẽ hình thành mối tương quan của chúng ta với thế giới, với những người
thân và với chính bản thân chúng ta nữa. Một số lời đã nói với chúng ta ngay thời
thơ ấu và in sâu trong lòng. Một số khác là niềm tin chúng ta rút ra từ kinh
nghiệm cuộc sống, sản phẩm của một môi trường giáo dục và văn hóa. Số khác nữa là
những chuyện vặt vãnh được mang theo trong trào lưu không ngừng thay đổi của xã
hội và các phương tiện truyền thông. Những lời này cũng có thể trở thành lý lẽ (“đây là cách ...”), luật lệ (“ngươi phải…”), sự cấm đoán (“ngươi không được…”). Thông thường,
chúng chẳng đem lại lợi ích gì nhiều, nhưng sẽ đóng kín chúng ta, làm chúng ta
bất động: “tôi sẽ không bao giờ đến được đó”,
“tôi không thể làm được việc đó”, “đời
là bể khổ”, “chẳng ai hiểu tôi cả”. Thế rồi, chúng ta tự cắt đứt với chính
mình, cắt đứt với thực tại và kẹt cứng trong những tương quan méo mó.
Thánh Kinh đóng vai trò giải thoát. Từng bước một, Lời
của chính Thiên Chúa bắt đầu sống dậy trong chúng ta. Việc suy niệm Lời Chúa liên
lỉ sẽ rút hết nọc độc của những lời chết chóc trong tâm hồn và thay vào đó là những
lời đầy tin tưởng, khích lệ: “Với Đấng
ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết” (Pl 13, 4), “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,
37), “Con là Con yêu dấu của Ta” (Mc
1, 11). Đây là những lời hy vọng, chân lý và tình yêu vốn sẽ thanh lọc những tư
tưởng xấu xa làm nhơ nhuốc và khiến tâm hồn ra tối tăm.
Khi được
đọc và hiểu dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, một cách đặc trưng, Lời Chúa
là một lời động viên khích lệ, cả khi nó mạnh mẽ tố giác tội lỗi. Đọc Thánh
Kinh không phải là một bài tập dễ nuốt, nó có thể hất ngược chúng ta như động đất
và thách thức những thoả hiệp của chúng ta với tội lỗi. Nhưng hoán cải và cứu độ,
chứ không phải kết án, mới là mục đích của nó. Khi phơi bày tội lỗi, nó nói rằng,
chúng ta có thể được tha thứ và Thiên Chúa sẽ đồng hành cùng nâng đỡ chúng ta
trên đường đời. Việc giải thoát có hiệu lực nhờ Lời Chúa là một tiến trình lâu
dài đòi hỏi một sự kiên nhẫn lớn lao, vậy mà cũng từ đó, Thiên Chúa mới có thể
làm những phép lạ.
LỜI
VÀ CĂN TÍNH CỦA MỖI NGƯỜI
Truyền đạt qua
Thánh Kinh, Lời Chúa giúp chúng ta sống như con cái Thiên Chúa và chúng ta đúng
là như thế. Khám phá căn tính sâu xa này là một cái gì thật cấp bách; bằng
không, chúng ta có nguy cơ mặc lấy những căn tính sai lạc vốn không thể đứng vững
trước những thử thách không thể tránh khỏi trong cuộc đời. Lời Chúa ngỏ với chúng
ta đến từ Chúa Cha, nói cho chúng ta biết chúng ta là ai và thực sự chúng ta là
gì.
Hai lời
căn bản làm nên căn tính của chúng ta. Lời đầu tiên như đã nói trước đây là lời
tạo thành chúng ta từ hư vô - Lời sống động, dịu dàng, nhân hậu của Thiên Chúa,
“Ta muốn ngươi sống!”. Tuy nhiên, tạo dựng không chỉ là một biến cố đã qua,
nhưng còn là một hành động tiếp diễn của Thiên Chúa trong việc duy trì sự sống
cho con cái Người. Nếu Thiên Chúa ngừng yêu thương và thôi nghĩ đến chúng ta dù
chỉ một giây, chúng ta sẽ trở về hư vô. Chúng ta là những người nhận và là người
đối thoại, người trong cuộc… trước lời tạo dựng này suốt cả đời mình.
Lời thứ
hai là lời khắc ghi trong chúng ta qua Bí Tích Rửa Tội. Lời đó kéo dài và đào
sâu Lời Tạo Dựng bằng cách ban cho chúng ta một sự sống tràn đầy hơn - sự sống
ân sủng, trở nên dưỡng tử trong Đức Kitô, thông phần sự sống Ba Ngôi Thiên Chúa[24].
Chúng ta nghe điều này trong Thánh Kinh, đặc biệt vào dịp Đức Giêsu chịu phép rửa,
"Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài
lòng về Con” (Mc 1, 11). Lời này hẳn cũng
được nói với mỗi người qua phép rửa mà nhờ đó, chúng ta trở nên con cái trong
Chúa Con.
Mọi Lời
của Thiên Chúa đều nâng đỡ và mời gọi chúng ta đón nhận trọn vẹn sự sống làm
con được ban trong Chúa Kitô. Lời Chúa chứa đựng một quà tặng và một lời mời gọi:
quà tặng làm con cái Thiên Chúa và lời mời gọi lớn lên trong sự mở lòng ra trước
quà tặng đó bằng cách vun trồng lòng đơn sơ, tin tưởng, từ bỏ, chấp nhận thánh
ý Người cùng với niềm tri ân. Đời sống thiêng liêng là một cái gì tựa hồ một trò
chơi luyện trí nhớ mà mục đích là tái lập tương quan một cách đặc biệt đối với
hai lời đầy ân sủng đã cư ngụ trong chúng ta và hình thành nên căn tính của mỗi
người, đồng thời, làm cho hai lời đó nên sống động và sinh hoa kết trái.
Tất cả
những điều này có một tầm quan trọng lớn lao nhất là trong thời buổi hôm nay, một
thời buổi mà nhiều người không còn biết họ mắc nợ ai và mắc nợ cái gì về sự hiện
hữu và sự sống của mình. Đau khổ, bất an và cảm giác trống rỗng là kết quả.
“Khoa học hiện đại”, một thứ văn hoá vô thần đang khuyến khích người ta nghĩ rằng,
sự sống là sản phẩm của một định mệnh thuyết mù quáng nào đó (tiến hoá, tương
tác bất chợt của các gène và vân vân…) hay đó chỉ là kết quả của sự kết hợp ít
nhiều bừa bãi giữa một người nam và một người nữ ăn ở với nhau mà không chút mảy
may nghĩ tới một sự sống mới có thể được sinh ra. Nhiều khi, trong thực tế, sự
sống mới đó được xem như một thất bại của việc tránh thai (Tôi biết một người
được sinh ra chỉ vì bao cao su tránh thai bị rách). Các nhà tâm lý nói đến “hội
chứng của người sống sót” có thể thấy được trong sự lo lắng của một đứa trẻ
sinh ra trong một gia đình từng có vài lần phá thai, “Tại sao lại là tôi mà
không phải là những người khác thoát chết?”.
Thêm
vào đó, người ta chịu tác động bởi ý tưởng cho rằng trái đất chỉ là một hành
tinh nhỏ bé đứng cạnh một ngôi sao tầm thường nào đó trong một xó xỉnh xa xôi nào
đó của một trong hàng tỷ dải ngân hà và rằng, con người và con vật chẳng khác
nhau là bao như chúng ta từng nghĩ… vậy thì ai có thể cảm thấy mình thật cần
thiết và được yêu mến?[25]
Vũ trụ vẫn vần xoay mà đâu cần chúng ta. Con người chỉ là sản phẩm vô dụng của
một vũ trụ không của riêng ai. Nếu văn hoá thế tục đương đại đang làm sáng tỏ bất
cứ điều gì thì đó chính là: việc loại bỏ Thiên Chúa phát sinh ra cảm giác ghê tởm
bản thân.
Phương
thuốc duy nhất chữa lành vết thương lương tâm thế tục này là làm sao cảm thức cho
được địa vị làm con và khám phá dòng dõi thần linh của mình. Dù tôi được thụ
thai và sinh ra trong hoàn cảnh nào đi nữa thì nguyên việc tôi có mặt trên cõi
đời này cũng đã có nghĩa rằng, tôi cần thiết, tôi được chọn và được yêu thương
bởi một Đấng yêu thương nhân hậu, tinh tuyền, trọn vẹn, vô điều kiện quá sức tưởng
tượng: đó là Thiên Chúa, Đấng Tạo Thành chúng ta. Cấp bách biết bao để tìm lại
cuộc gặp gỡ nguồn cội của mình trong hành vi sáng tạo của Thiên Chúa![26]
Lời
Chúa ban tặng chúng ta cuộc gặp gỡ này. Thánh Kinh giúp chúng ta đi vào gặp gỡ lời
đã được khắc sâu cách nhiệm mầu bên trong mỗi người, “Ta đã phán với ngươi, ‘Cứ việc sống!’” (Ed 16, 6).
MỘT
SỐ LƯU Ý THIẾT THỰC
Tôi kết thúc
chương gặp gỡ Lời Chúa như một nơi chốn đặc biệt của lời mời gọi và sự phát triển
thiêng liêng bằng một số lưu ý thiết thực. (Cuốn sách này còn có phần phụ lục về
phương pháp cầu nguyện đơn sơ với Thánh Kinh - Lectio Divina).
Để việc
đọc Thánh Kinh mang lại hiệu quả, cần lưu ý những điểm sau đây:
1.
Việc đọc Thánh Kinh phải được thực hiện trong bối cảnh cầu nguyện. Chỉ Chúa Thánh
Thần mới có thể mở ra cho chúng ta những ý nghĩa sâu xa, sống động của Thánh
Kinh. Cầu nguyện khiêm tốn, kiên trì và tin tưởng là nền tảng cho mọi giải
thích.
2.
Phải có tư duy đức tin để tin rằng Thiên Chúa thực sự đích thân đến nói chuyện
với chúng ta ngang qua Thánh Kinh. Đây không phải là vấn đề của việc học sâu
hiểu rộng. Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu không hề thực hiện bất cứ một nghiên
cứu trình độ cao nào về Thánh Kinh (mặc dầu, những bản dịch khác nhau cho thấy
một cách mù mờ, ngài hẳn đã muốn học tiếng Hy Lạp và Do Thái), nhưng điều đó đã
chẳng hề cản ngăn thánh nữ hiểu biết sâu sắc về một số đoạn Thánh Kinh nào đó -
qua đó, thánh nữ đã có một khả năng trực giác thiêng liêng vốn đã mang đến cho ngài
tước hiệu Tiến Sĩ Hội Thánh.
Tin
Mừng nâng đỡ tôi suốt những giờ cầu nguyện, và tôi tìm được ở đó mọi sự cần
thiết cho linh hồn nghèo nàn nhỏ bé của mình. Tôi luôn khám phá được những hiểu
biết mới mẻ và những ý nghĩa huyền bí sâu kín bên trong chúng[27].
3. Điều
kiện thứ ba phải có là một lòng ao ước hoán cải thực sự: ước muốn một cách
không dè dặt rằng, Lời Chúa sẽ phơi bày tội lỗi chúng ta; từ đó, chúng ta có
thể yêu mến Chúa và thương mến nhau bằng một tình yêu chân thật hơn. Ước muốn hoán
cải này là chìa khoá thực hiện phương thức cầu nguyện bằng Thánh Kinh (Lectio
Divina) cách hiệu quả hơn. Đọc Lời Chúa không phải là một kiểu vọng cảnh thiêng
liêng, cũng không phải là một phương cách để học biết cái văn hoá Thánh Kinh hay
tìm kiếm những ý tưởng để đem vào bài giảng. Mục đích của việc đọc Thánh Kinh
là đọc để sống. Đây là cái nhìn thiết thực của các giáo phụ sa mạc.
Một thanh niên kia đi tìm Viện Phụ Pambo để xin người
dạy cho anh một bài Thánh Vịnh. Viện Phụ Pambo bắt đầu với Thánh Vịnh 38, nhưng
khi vừa đọc câu đầu tiên: “Tôi đã nói:
‘Mình phải giữ gìn trong nếp sống, để khi ăn nói khỏi lỗi lầm’”, thì người
thanh niên làm hiệu không muốn nghe bất cứ điều gì khác nữa. Cậu nói với cha Pambo,
“Thưa Cha, chỉ câu này thôi, đủ cho con rồi; Chúa sẽ vui nếu con có sức mạnh để
học hỏi và đưa lời này ra thực hành”. Mười chín năm sau, anh vẫn cố gắng để
thực hiện điều này[28].
Đọc Thánh Kinh là chấp nhận mạo hiểm: chúng ta sẽ được
yêu cầu sắp xếp lại cuộc sống hoặc đã được nói cho biết những gì chúng ta không
muốn nghe. Chúng ta không hoạt động trên Lời Chúa, chính Lời Chúa hoạt động
trên chúng ta.
Nhiều lúc, một vài câu Lời Chúa nào đó có thể bám chặt
chúng ta trong suốt nhiều tuần. Lần kia, trong một buổi cầu nguyện theo phương
pháp Lectio, tôi được những lời của thánh Phaolô đánh động, “Phải, tôi là một người tự do, không lệ
thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người” (1Cr 9, 19). Suốt
nhiều ngày tôi mải nghĩ về lời này. Tôi có thực sự tự do trong việc nhìn nhận
người khác không? Tôi có tự do trong tình cảm không? Tôi có tự do trước áp lực
của dư luận không? Tôi có thực lòng phục vụ anh chị em trong cuộc sống hằng
ngày không?
4.
Dẫu Thánh Kinh nói với mỗi người chúng ta cách cá nhân, điều này thật quan
trọng, nhưng không vì thế mà việc đọc Lời Chúa trở nên một cái gì riêng tư. Điều
chúng ta nghĩ rằng mình khám phá được qua việc đọc Lời Chúa phải được kiểm
chứng bởi huấn quyền của Hội Thánh và phải được đón nhận trong tình hiệp thông với
mọi anh chị em khác, vốn cùng chúng ta, làm nên thân mình Đức Kitô. Tin rằng,
một đoạn Lời Chúa cụ thể nào đó là một tiếng gọi riêng tư cho một ai đó với hàm
ý quan trọng dành cho cả cuộc đời của người đó, thì niềm tin này đòi hỏi xác
nhận của một vị linh hướng. Những lối giải thích vốn quá theo nghĩa đen, theo
trào lưu chính thống hay coi nhẹ sự hiệp thông trong Hội Thánh đều nên tránh. Bất
cứ sự hiểu biết về Lời đều cần phải hợp lý: không duy lý hạn hẹp, nhưng cởi mở
đối với mầu nhiệm, được đức tin soi sáng và hoà hợp với những ý nghĩ của Hội
Thánh.
◊◊4◊◊
CÁC
BIẾN CỐ TRONG ĐỜI
Lạy Chúa, cách riêng tư,
Ngài ngỏ lời với mọi người qua các biến cố xảy đến trong đời họ lúc này lúc
khác[29].
Nào,
bây giờ hãy nói đến cách thứ hai mà tiếng gọi của Thiên Chúa có thể đến với
chúng ta. Tôi muốn nói đến các biến cố xảy đến trong đời. Từ “davar” theo tiếng
Do Thái có hai nghĩa: lời và biến cố. Và như vậy, cách hợp lý, cuộc gặp gỡ với
Lời Chúa, nếu xác thực, vẫn thực sự là một biến cố. Mỗi biến cố, cũng vậy, là
một lời, một tia sáng soi rọi từ Thánh Kinh thường cho phép chúng ta biện phân những
gì Thiên Chúa muốn nói với chúng ta hoặc mời gọi chúng ta qua từng biến cố cụ
thể.
Mọi việc xảy đến với chúng ta cách này hay cách khác
là một tiếng gọi đến từ Thiên Chúa: lớn lên, thay đổi, nhìn sự việc theo một
cách thức khác và chấp nhận hoán cải[30].
Trong
khi có nhiều sự việc trong cuộc sống chúng ta không phải là những sản phẩn trực
tiếp từ ý muốn của Thiên Chúa, Thánh Kinh vẫn mời gọi chúng ta tin Thiên Chúa
hiện diện trong mọi sự và Người có thể mang đến những điều tốt lành cho chúng
ta cả trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Các thánh đồng loạt làm chứng về
niềm tin này vào Chúa Quan Phòng. Nhưng để có thể rút ra điều lành từ mọi sự,
Thiên Chúa tìm kiếm sự cộng tác của chúng ta. Dù bất cứ điều gì xảy ra, ngay cả
điều ấy là hậu quả của sai lầm hay tội lỗi, vẫn có thể được đón nhận và được hiểu
như một lời mời gọi từ Thiên Chúa.
Chân lý này thật căn bản, nhưng không vì thế để chúng
ta tìm giải thích các biến cố theo một cái nhìn “thiêng liêng” cách hời hợt
phản ánh một trào lưu chính thống hoặc định mệnh thuyết. Thông thường, chúng ta
không biết ý nghĩa của những gì xảy ra. Những tiếng gọi mà Thiên Chúa gởi đến
qua các biến cố phải lộ ra từ từ và phải được biện phân cách thận trọng chứ không
bị áp đặt bởi những giải thích về chúng. Đang khi đó, điều quan trọng nhất là
đón nhận các biến cố xảy đến và sống những biến cố đó với đức tin, cả khi chúng
ta không hiểu gì.
Một mối nguy khác cần tránh là thái độ quá tỉ mỉ, hối thúc
chúng ta tìm cho bằng được ý nghĩa của mọi sự vì sợ sẽ làm trái ý muốn của
Thiên Chúa. Đây là nỗi sợ bắt nguồn từ nhu cầu tâm lý tìm kiếm sự an toàn vốn tách
chúng ta khỏi sự đơn sơ và tự do của con cái Thiên Chúa.
Vâng, đúng là có những điểm tinh vi phức tạp ở đây
nhưng chúng không được phép che khuất điểm căn bản. Việc lắng nghe tiếng gọi
của Thiên Chúa cho phép chúng ta sống tích cực trong mọi hoàn cảnh và mở ra một
con đường dẫn đến tự do trong mọi hoàn cảnh, ngay cả trong những hoàn cảnh xem
ra vô vọng[31].
NHỮNG BIẾN CỐ VUI MỪNG
MỜI GỌI TẠ ƠN VÀ CHO ĐI
Mọi
sự xảy ra đều chứa đựng một lời mời gọi đến từ Thiên Chúa. Hạnh phúc lớn nhỏ
trong đời là lời mời gọi đầu tiên và trước nhất hãy dâng lời tạ ơn; niềm hạnh
phúc thậm chí còn lớn lao hơn nếu chúng ta đáp trả. Thật là vui khi nhận được
một quà tặng nhưng sẽ vui hơn khi biết dâng lời tạ ơn về món quà đó.
Tạ ơn thật tốt đẹp vì đó là lẽ công bằng, nó khiến mối
quan hệ của chúng ta với người cho thêm sâu sắc, đồng thời, mở rộng tâm hồn để
dễ dàng đón nhận nhiều ơn khác nữa. Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu hiểu điều
này, như một lời khuyên nhỏ được ghi lại bởi Céline, chị của ngài:
Điều
lôi cuốn ơn Chúa nhiều nhất là sự nhận biết, bởi nếu chúng ta tạ ơn Chúa về một
ơn lành, Người sẽ xúc động và vội ban cho ta mười ơn khác và nếu chúng ta lại
tạ ơn Ngài với cùng một tâm tình chứa chan như vậy thì ân sủng sinh ra sẽ nhiều
đếm không xuể...! Tôi đã trải qua điều này, cứ thử đi rồi bạn sẽ thấy! Lòng
biết ơn của tôi không giới hạn nơi những gì Người ban cho tôi, và tôi có hàng
ngàn cách để thể hiện lòng biết ơn đó[32].
Quà tặng của Thiên Chúa đồng thời là những lời mời gọi
tin tưởng, đón nhận sự sống, chia sẻ, dùng những gì được tặng ban để sinh lợi
cho tha nhân và đảm nhận trách nhiệm. Chúng mời gọi mỗi người cho đi chính mình
và thể hiện với tha nhân bằng cùng một lòng quảng đại mà chúng ta đã được Thiên
Chúa tỏ bày.
NHỮNG BIẾN CỐ ĐAU BUỒN
MỜI GỌI HÃY LỚN LÊN
Những
biến cố đau buồn cũng chứa đựng những lời mời gọi với một nội dung khác. Chúng
có thể là lời mời gọi tin tưởng, hy vọng, kiên nhẫn, can đảm, tha thứ, chấp
nhận những giới hạn của bản thân... danh sách này còn dài vô tận. Tuy vậy, luôn
có một số điểm đặc biệt và chúng ta không nhất thiết phải hiểu rõ tất cả trong
một lúc.
Khi ai đó đang ở trong một hoàn cảnh khó khăn, điều quan
trọng và tự do nhất có thể làm không phải là giải quyết ngay tình thế - thường
là một điều gì đó vượt quá khả năng con người - nhưng là hiểu và đi theo tiếng
gọi bộc lộ trong hoàn cảnh đó. Điều đó không phải luôn luôn là một cái gì có
thể biện phân được ngay, nhưng nó sẽ được hé mở dần dần cho ai biết bằng lòng
với hoàn cảnh và thành tâm cầu xin những gì Thiên Chúa muốn nơi mình.
Khi Tin Mừng nói Đức Giêsu là đường[33],
là nói đến những lời hay ý đẹp về niềm hy vọng. Chẳng một hoàn cảnh nào mà sự
hiện diện sống động của Đức Giêsu - dẫu có thể bị che khuất - không thể hướng
dẫn chúng ta cất đi những chướng ngại ngăn trở chúng ta hay ban cho chúng ta
sức mạnh để tiến về phía trước mỗi ngày. Thánh Vịnh 16 nói, “Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi
sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề; ở bên Ngài, hoan lạc chẳng
hề vơi!”.
Tuy
nhiên, sự trợ giúp của Chúa không là chiếc đũa kỳ diệu - một sự can thiệp khiến
mọi sự nên tốt đẹp hơn mà không cần đến sự cộng tác tích cực của con người.
Thiên Chúa hành động vì chúng ta, nhưng không thể thiếu chúng ta - không bao giờ
thiếu đi một lời mời gọi khả năng hiểu biết của chúng ta để chúng ta nhìn sự vật
trong một ánh sáng mới, để rồi, ban cho chúng ta tự do để chọn lựa như chúng ta
phải chọn lựa. Mỗi một can thiệp của Chúa trong cuộc đời của một ai đó luôn
luôn đi kèm một lời mời gọi hoán cải. Chúa đã nói với thánh nữ Catarina thành
Siêna, “Để tạo nên con, Ta không cần con; nhưng để cứu chuộc con, Ta không thể
thiếu con”.
HỎI
ĐIỀU NÊN HỎI
Những lúc gian nan,
chúng ta đặt ra nhiều câu hỏi, “Làm sao tôi có thể tiếp tục sống?”, “Cho đến
bao giờ chuyện này kết thúc?”, “Tại sao là tôi mà không phải ai khác?”, “Lỗi
này là do ai?”, “Chuyện xảy ra như thế này không phải vô lý lắm sao?”. Đây là
những câu hỏi hợp tình hợp lý và đôi khi, việc trả lời chúng có thể giúp giải
quyết vấn đề.
Tuy
nhiên, thông thường, sẽ không có câu trả lời. Chẳng hạn, một người có thể dành
cả đời, cố chu toàn trách nhiệm nhưng không thành công do bởi hoàn cảnh. Thay
vì cứ nhất quyết tìm cho được câu trả lời, mỗi người phải dũng cảm để mặc cho một
số nghi vấn chính đáng không được giải đáp - một điều luôn gây đau đớn - và thích
ứng với một cái nhìn khác, “Vậy thì, cuối cùng, Thiên Chúa muốn gì nơi tôi qua
tất cả những chuyện này?”[34].
Vì lẽ
chúng ta khao khát hiểu biết mọi sự, nên lời mời gọi này lại gợi lên hình thức
hoán cải. Nhưng thật đáng để nỗ lực, bởi sớm muộn gì cũng sẽ có câu trả lời. Ai
chân thành tìm kiếm ý muốn của Thiên Chúa thì cuối cùng nhất định sẽ tìm được.
“Chẳng mấy chốc Người sẽ làm cho đá cũng phải nói huống hồ lại không biểu lộ ý
muốn của Người cho những đứa con hằng tin tưởng tìm kiếm thánh ý Người sao” -
Cha Jean-Jacques Olier, đấng sáng lập Hội Linh Mục Xuân Bích nói[35].
Trong
tiến trình thiêng liêng, tôi thường quan sát và thấy rằng, ai ở trong những hoàn
cảnh khó khăn nhưng biết chấp nhận mình không có khả năng để hiểu hết mọi sự và
rồi, họ bắt đầu hỏi xem Thiên Chúa muốn điều gì ở họ lúc này và ở đây, họ dần dần
nhận được ơn soi sáng. Có thể họ sẽ được soi sáng để làm một hành vi đức tin, hoặc
chấp nhận thứ tha, hay một nỗ lực mới trong việc cầu nguyện. Kết quả là họ được
khuây khoả và giải thoát… và rồi, một lối nhỏ dẫn đến một chân trời mới mở ra.
Tôi nhớ
chuyện xảy ra cách đây vài năm. Trong một lần giảng tĩnh tâm, người ta thường đến
gặp tôi để tâm sự. Lần ấy, một thiếu phụ trẻ đã nói với tôi, “Cha ơi, đời con hỏng
cả rồi. Chỉ là tai hoạ!”. Xét về mặt con người, thiếu phụ ấy chẳng hề cường điệu.
Tôi chăm chú lắng nghe cô nói, vì đối với người đang đau khổ, cần phải thật
lòng lắng nghe mới hiểu được nỗi sầu của họ. Vị hôn thê bỏ cô, cô thất nghiệp,
gia đình đang gặp nhiều khó khăn, lại còn thêm bất hòa với cha mình... Đang khi
lắng nghe, tôi nhủ lòng, “Chúa ơi, làm sao con có thể giúp cô được?”. Nhưng,
khi cô đã nói ra thì chí ít, có một điều gì đó sáng tỏ: trước hết, cô phải tha
thứ cho cha mình; chính Chúa sẽ lo phần còn lại. Lời mời gọi của Chúa đã rành
rành, “Hãy tha thứ cho cha con”. Chúng tôi cùng nhau cầu nguyện một lúc, cô
xưng tội… và giờ đây, cô đủ can đảm để quyết định tha thứ và phó thác phần còn
lại cho Thiên Chúa.
Người
thiếu phụ ấy ra về bình an, toại nguyện. Giờ đây cô đã hiểu mình cần phải làm
gì; lại một lần nữa, cô trở nên tác nhân cho cuộc sống của mình và cô cảm thấy tin
tưởng nơi Chúa cũng như tin ở chính mình. Hẳn cô đã nói, “Mọi thứ rồi sẽ ổn!”.
Giá mà
người ta biết điều họ phải làm hôm nay, cam kết thực hiện điều đó và phó thác
mai ngày cho sự quan phòng của Thiên Chúa, mọi sự sẽ tốt đẹp biết bao. Nào ai
có thể làm gì hơn nữa? Hãy bước cái bước cần bước hôm nay. Ngày mai, hãy bước
bước tiếp theo. Mỗi ngày sẽ có những bước riêng của nó để bước.
Dĩ
nhiên mọi việc không luôn luôn xảy ra đơn giản như thế; dẫu vậy, tôi vẫn hết sức
xúc động khi thấy ơn soi sáng và giao hoà của Thiên Chúa hoạt động nơi những ai
thành tâm tìm kiếm sự đỡ nâng và hướng dẫn của Người. Hết lần này đến lần khác,
tôi đã chứng kiến sự thay đổi nơi những người tôi từng có dịp trò chuyện. Trường
hợp đầu tiên, “Con đang có một vấn đề, con đến gặp Cha, Cha giúp con với”.
Nhưng Chúa Thánh Thần can dự ngay sau đó, “Chúa muốn tôi làm gì với những điều tôi
vừa lắng nghe?”. Hoặc là “Đức tin, đức cậy, đức mến mạnh mẽ nhất của con được
tìm thấy ở đâu?”. Những câu hỏi này đều có những câu trả lời - nếu không thì ít
nữa là hôm nay, câu hỏi đó cũng đã được đặt ra. Thế là đủ.
Trong
những hoàn cảnh khó khăn, tiến bộ nằm ở chỗ nghe được tiếng gọi gởi đến chúng
ta. “Hãy nghe đây, Israel, hãy nghe đây!”.
Mỗi người phải đi từ câu hỏi, “Tôi muốn gì ở cuộc sống?” thành “Cuộc sống muốn gì
ở tôi?” hoặc đôi khi từ “Tôi mong đợi gì ở những người chung quanh?” thành “Những
người quanh tôi mong chờ gì nơi tôi?”. Cho dù ngôn từ nào được dùng đến chăng nữa,
cuộc hoán cải này vẫn luôn luôn cần thiết và sinh hoa kết quả. Tin Mừng luôn mời
gọi chúng ta thực hiện việc thay đổi về cách nhìn nhận này.
Vậy tất
cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm
cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó (Mt 7, 12).
NHỮNG
CÂU TRẢ LỜI ĐÚNG VÀ SAI
Đáp án cho câu hỏi
“Đâu là tiếng gọi mà hoàn cảnh này gởi đến cho tôi?” không hề tồn tại trước khi
hoàn cảnh đó xảy ra. Nó không phải là câu trả lời được chuẩn bị sẵn hay một loại
phóng chiếu tâm lý. Lời gọi này tựa hồ ân sủng hay như một quà tặng. Nó đến khi
tâm hồn mở ra và lời cầu nguyện bắt đầu cất lên. Người ta thường tìm thấy nó trong
cuộc gặp gỡ với Lời của Thiên Chúa và nó thường chứa đựng sự mới lạ bất ngờ vốn
là dấu ấn của Thần Khí. Nó mang lại bình an và giải thoát.
Thường
thì những câu trả lời có sẵn từ trước ít liên quan với tiếng gọi đích thực của
Thiên Chúa. Chúng phản ánh cách suy nghĩ theo thói thường của người ta, hay những
chiến lược ứng phó vốn đã quen thuộc với họ. Thoạt đầu, chúng xem ra rất thiêng
liêng và khai phóng trí hiểu nhưng thực ra, đây không phải là ý muốn của Thiên
Chúa. Để lắng nghe được tiếng gọi đích thực của Thần Khí, cần phải biết chính mình
và biết lắng nghe người khác, vì người ngoài thường thấy sự việc rõ hơn. Sau
đó, thông thường, chúng ta sẽ nhanh chóng khám phá ra điều gì đến từ Thiên Chúa
và điều gì đến từ “xác thịt”- nói theo cách của thánh Phaolô - hoặc cũng có thể
gọi là một tâm thức tổn thương.
Có thể
người ta có thói quen tự trách mình trước những vấn đề trong cuộc sống; hoặc đổ
lỗi cho người khác; hoặc nghĩ rằng họ phải làm được những việc lớn lao mà Thiên
Chúa không đòi hỏi. Người ta có thể sợ hãi trước những yếu đuối của mình và cho
rằng lúc nào họ cũng phải thật mạnh mẽ. Một số người khước từ, số khác thì luôn
luôn lẩn trốn. Đây là những con đường dẫn tới chai đá, lắng lo và căng thẳng.
Những câu
trả lời đến từ Thần Khí thì khác; chúng hoà hợp với Lời Chúa; chúng ngát hương dịu
ngọt của Tin Mừng, của khiêm tốn, của bình an, một dấu hiệu của đơn sơ và thực
tế. Chúng cũng tiêu biểu cho sự tươi mới và gia tăng lòng tin cậy. Mặc dầu, đôi
khi cần có can đảm mới chấp nhận được chúng, nhưng tự bản chất, chúng không giới
hạn, không bị áp đặt bởi hoàn cảnh bên ngoài, nhưng là một phần của một động lực
bên trong vốn tôn trọng tự do. Chúng dẫn chúng ta ra khỏi những khuôn mẫu lặp
đi lặp lại và mang đến những thay đổi đích thực. Chúng trao ban một sự đổi mới
cho cuộc sống, một sự đổi mới vốn chỉ có thể phát xuất từ Thiên Chúa.
Ân sủng
thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu nhận được vào dịp Giáng Sinh năm 1886 là một
minh chứng hùng hồn[36].
Lúc bấy giờ, Têrêxa lên mười bốn tuổi, và hẳn đã không thể đi theo ơn gọi Carmel
của mình nếu không có ân sủng đó. Đôi khi, Têrêxa nói về ân sủng đó như một ơn
hoán cải và có khi, một ơn chữa lành.
Vào thời
điểm đó, Têrêxa đã có một tình yêu vô bờ bến đối với Chúa Giêsu và một đời sống
thiêng liêng chính thực cùng với sự non nớt hết sức về mặt tình cảm. Têrêxa quá
dễ xúc cảm, thường khóc vô cớ, phóng đại nhu cầu của mình nhằm gây chú ý và được
sự ủng hộ của gia đình. Sau Thánh Lễ Nửa Đêm là lúc mở quà theo tục lệ. Têrêxa lên
gác để cất mũ. Người cha, ông Martin, buồn ngủ và hẳn ông đã chán cái cung cách
của cô gái út như một đứa trẻ. Ông mệt mỏi thốt lên, “Ôi, thật may, đây là năm
cuối cùng!”. Lúc đó mọi người tưởng rằng, khi nghe những lời này, Têrêxa sẽ phản
ứng như thường lệ là òa lên khóc, phá hỏng cả dịp lễ của gia đình.
Nhưng không,
vị thánh mai ngày giờ đây đã nhận được tiếng gọi của Chúa: Hãy rủ bỏ những thiếu
sót của tuổi thơ, hãy bình tĩnh, xuống nhà và tỏ ra vui tươi như con chẳng nghe
gì hết. Têrêxa quyết định làm như vậy và đã nhận được ơn chữa lành lớn lao,
“Tôi tìm được sức mạnh của linh hồn đã bị mất lúc lên bốn tuổi rưỡi”. Giờ đây,
Têrêxa có thể bắt đầu hành trình nên thánh lớn lao của mình như thánh nữ vẫn gọi.
Như Têrêxa,
chúng ta cũng hãy đón nhận tiếng gọi của ân sủng, cả trong những việc nhỏ và
sinh nhiều hoa trái.
MỖI
TIẾNG GỌI
ĐỀU
LÀ MỘT LỜI MỜI GỌI TIN, CẬY, MẾN
Như chúng ta đã thấy,
Thiên Chúa gọi mỗi người mỗi cách tuỳ theo những đường lối riêng biệt Người định
cho họ. Chúng có thể là những tiếng gọi biết kiên nhẫn, tha thứ, một cam kết cụ
thể để phục vụ, cầu nguyện, chấp nhận chính mình, phó thác cho ý muốn của Người,
khiêm tốn, một cử chỉ dịu dàng, đón nhận một biến cố vui mừng hay nhiều tiếng gọi
khác.
Dẫu vô
cùng đa dạng, nhưng những tiếng gọi chúng ta nhận được chung cục đều là những lời
mời gọi tin tưởng, cậy trông hay yêu mến. “Ba nhân đức đối thần” này là động lực
căn bản của đời sống thiêng liêng.
Trật tự
trong đó, ba nhân đức này được mặc khải cho chúng ta thật quan trọng. Tiếng gọi
đầu tiên của Thiên Chúa trong bất cứ hoàn cảnh nào - và đặc biệt trong những
lúc ngặt nghèo - là tiếng gọi hãy tin:
tin rằng Thiên Chúa đang hiện diện, trung thành, nắm giữ mọi sự trong tay và không
bao giờ quên chúng ta. Đây là tiếng gọi căn bản và sâu xa nhất của Thiên Chúa
Cha mời gọi chúng ta tin. Tiếp đến, tiếng gọi hãy trông cậy: trông đợi sự trợ giúp của Người chứ đừng chỉ cậy trông
ở chính mình, phó thác vào Người chứ không phó mặc cho những nỗ lực phàm nhân.
Trên nền
tảng của đức tin và đức cậy, chúng ta mở lòng đón nhận tiếng gọi hãy yêu mến: một tình yêu dành cho Thiên
Chúa, tha nhân và chính mình cách tinh tuyền hơn, chân thực hơn.
Đức tin
và đức cậy là nền tảng của đức mến. Và cuối cùng, chính đức mến sẽ tồn tại.
Thánh Phaolô nói: “Giả như tôi... không
có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì”[37].
Chiêm ngắm sẽ thế chỗ đức tin, đức cậy lại được lấp đầy khi no thoả. Riêng đức mến
thì không gì có thể thay thế được. Kinh nghiệm yêu mến Thiên Chúa và tha nhân trong
Nước Trời sẽ càng mãnh liệt và tinh tuyền hơn ngay bây giờ, nhưng bản chất của
việc yêu mến vẫn không thay đổi.
Mọi thử
thách, dẫu đó là gì - một căn bệnh, một thất bại trong công việc, một cơn khủng
hoảng tâm linh, những lúc trục trặc trong tương quan hay bất cứ thử thách nào
khác - đều là một phép thử đức tin. Bạn có tin Thiên Chúa hiện diện trong trải
nghiệm này? Bạn vẫn tin vào tình yêu và lời hứa của Người? Bạn có tin vào lòng
thành tín và sức mạnh của Người, tin vào việc Người sẽ liên kết mọi sự với nhau
vì Người chỉ muốn những điều lành cho bạn?
Mọi thử
thách đồng thời cũng là một phép thử lòng trông cậy. Bạn đang tìm kiếm ơn cứu độ
cho ai - cho chỉ một mình bạn? Bạn có trông mong ơn cứu độ xảy đến do một việc làm
nào đó của bạn? Hay từ một phương tiện trần thế khác? Hay chủ yếu đến từ Thiên
Chúa? Bạn đặt lòng tin cậy vào ai hay vào cái gì? Vào tiền của, lợi lộc, bằng cấp,
đức hạnh của bạn hay người nào, thể chế nào? Hay bạn chỉ đặt lòng trông cậy của
mình vào một mình Thiên Chúa và lòng nhân hậu vô biên của Người?
Cuối
cùng, thử thách thường là những phép thử về lòng mến. Điều này đặc biệt đúng
trong các mối tương quan, kể cả những xung đột đáng lưu ý trong đời sống đôi bạn.
Tình yêu của bạn có chính hiệu không? Có vô vị lợi không? Có sức chịu đựng
không? Sự quảng đại bên ngoài có chân thật không hay chỉ đang che đậy một tính
toán nào đó (cho đi chỉ khi được nhận lại)?
Chúng
ta không nên sợ những thử thách trong cuộc sống. Chúng cần thiết và hữu ích, miễn
là chúng ta nhận ra tiếng gọi Thiên Chúa gởi đến cho mình trong những thử thách
đó. Đây là cách chúng ta lớn lên. Thử thách mang lại cho chúng ta quà tặng tăng
trưởng trong đức tin, đức cậy và đức mến. Hãy nhớ lại những lời tuyệt vời về đức
tin của thánh Phêrô:
Chúc tụng
Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô,
Chúa chúng ta! Do lượng hải hà, Người cho chúng ta được tái sinh để nhận lãnh
niềm hy vọng sống động, nhờ Đức Giêsu Kitô đã từ cõi chết sống lại, để được hưởng gia tài không thể hư hoại,
không thể vẩn đục và tàn phai. Gia tài này dành ở trên trời cho anh em, là những
người, nhờ lòng tin, được Thiên Chúa quyền năng gìn giữ, hầu được hưởng ơn cứu
độ Người đã dành sẵn, và sẽ bày tỏ ra trong thời sau hết. Trong thời ấy, anh em
sẽ được hân hoan vui mừng, mặc dầu còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử
thách. Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn
vàng gấp bội, - vàng là của phù vân, mà còn phải chịu thử lửa. Nhờ thế, khi Đức
Giêsu Kitô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi,
và đem lại vinh quang, danh dự (1Pr 1, 3-7).
Thánh tông đồ
Giacôbê còn đi xa hơn khi bảo chúng ta: “Anh em hãy tự cho mình là được chan chứa
niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều” (Gc 1, 2).
BA
TRỤC CỦA ĐỨC MẾN
Giờ đây, hãy nghĩ
đến những tiếng gọi yêu thương và những hình thức gọi khác nhau của lời gọi
này.
Khi được
hỏi giới răn nào là giới răn trọng nhất, Đức Giêsu trả lời:
Ngươi
phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí
khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn
thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: "Ngươi phải yêu người thân cận như
chính mình. Tất cả Luật Môisen và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều
răn ấy" (Mt 22, 37-40).
Đức mến trẩy dọc
hai con đường vốn không thể tách rời nhau: yêu mến Thiên Chúa và yêu mến tha
nhân. Vậy mà theo gợi ý của đoạn trích này, còn có một khía cạnh khác của đức
ái: yêu thương chính mình (“Ngươi phải
yêu người thân cận như chính mình”). Yêu mình là điều tốt và cần thiết, đây
không phải là vị kỷ hay quy mọi sự vào cái “tôi”, nhưng là hồng ân để sống
thanh thản với chính mình, bằng lòng với những gì làm nên chính tôi, những tài
năng cũng như những hạn chế.
Tình
yêu Thiên Chúa, tình yêu tha nhân và yêu chính mình cùng lớn lên và nâng đỡ lẫn
nhau khi cùng trưởng thành. Nếu một trong ba yếu tố thiếu đi hoặc bị xao lãng,
hai yếu tố còn lại sẽ chịu ảnh hưởng. Như ba chân của một chiếc kiềng, ba chân đều
cần thiết để chiếc kiềng có thể đứng vững, mỗi chân tựa vào hai chân còn lại.
Có thể có đến sáu mối quan hệ giữa ba chân kiềng; cũng vậy, ở đây lòng yêu mến
sẽ có đến 6 mối tương quan:
1. Đức yêu người được lòng kính mến Chúa nâng đỡ. Từ lòng kính mến
Thiên Chúa, đức yêu người sẽ rút ra sức mạnh; bằng không, sẽ phải khó khăn để
có thể kiên nhẫn, tha thứ và thương xót. Khả năng yêu thương sẽ suy giảm nếu
không thường xuyên được canh tân nhờ lời cầu nguyện và các bí tích trong Thiên
Chúa, Đấng là nguồn mạch tình yêu. Lòng mến đó luôn có nguy cơ bị dập tắt bởi sự
nản lòng hoặc thất vọng; và chỉ một lòng cậy trông mạnh mẽ nơi Thiên Chúa mới
có thể cho chúng ta lòng can đảm để có thể bền bỉ trong yêu thương.
2. Đức yêu người cũng được nâng đỡ bởi tình yêu đối với chính mình.
Nếu tôi không chấp nhận con người tôi như chính tôi, điều này rốt cuộc sẽ thể
hiện trong những oán giận, xung đột. Nhiều xung đột với tha nhân là phản ảnh của
những xung đột trong chính con người tôi: tôi từ chối kiên nhẫn chịu đựng những
khiếm khuyết của anh em bởi tôi không chấp nhận những khiếm khuyết của chính mình.
Nếu không bình an với chính mình, tôi sẽ làm cho người khác phải trả giá vì sự
bất an của tôi.
3. Lòng kính mến Chúa cần có đức yêu người. Nếu tôi khép kín lòng mình với tha nhân, trở
nên chai đá bởi những xét đoán hẹp hòi, kết án, thù hận, ghen ghét… tôi không
thể cảm nghiệm được lòng khoan dung hải hà của Thiên Chúa và lớn lên trong việc
yêu mến Người, “Vì anh em đong bằng đấu
nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy" (Lc 6, 38). Thế
nên, việc từ chối thứ tha cho ai đó, chẳng hạn… cũng có thể làm cho đời sống
thiêng liêng của bạn sa sút hoàn toàn.
4. Đức yêu người cũng đỡ nâng việc yêu thương chính mình. Ai đóng
kín bản thân trong việc yêu thương tha nhân, cũng đóng lòng trước những gì tốt
đẹp nhất nơi chính mình. Họ đánh mất những cơ hội được giao hoà với chính mình,
một trải nghiệm thường có được cách gián tiếp nhờ những người khác. Ai cứng rắn
và khắt khe với tha nhân, nỗi thống khổ của họ sẽ sớm bị phơi bày; đang khi, ai
quên mình để yêu thương người khác, họ dễ dàng khám phá bản thân. Qua hồng ân
nhận được trong biến cố đêm Giáng Sinh như đã kể trên, thánh nữ Têrêxa Hài Đồng
Giêsu nói, “Tôi cảm thấy đức ái chảy vào tim, một sự cần thiết phải quên mình để
làm vui lòng người khác… và kể từ đó, tôi thật hạnh phúc!”[38].
5. Kính mến Chúa cũng đòi hỏi yêu thương chính mình. Không chấp
nhận chính mình nghĩa là không nhận ra tình yêu Thiên Chúa dành cho tôi. Xét
cho cùng, khi yêu thương tôi, Thiên Chúa không yêu một con người lý tưởng nào
đó, một con người “phải thế này” hoặc “thế kia”. Người đón nhận tôi như chính tôi
đang là tôi và tôi không thể đón nhận trọn vẹn tình yêu này nếu không chấp nhận
chính mình. Kiêu ngạo, cầu toàn, sợ bị chối bỏ… là một số trở ngại.
6. Cuối
cùng, yêu thương chính mình được xây dựng bởi lòng kính mến Chúa. Ai đóng kín
lòng mình trước Thiên Chúa, sớm muộn gì cũng ghét bỏ chính mình. Vì lòng nhân hậu
của Chúa Cha và sự ân cần của Người là con đường chắc chắn nhất dẫn đến việc chấp
nhận chính mình. Trái lại, loại bỏ Thiên Chúa dẫn tới thù nghịch chính mình.
Con người thời nay rất mực khó khăn trong việc yêu thương chính mình: sự tăng
nhanh của những cuốn sách tâm lý đại chúng về sự phát triển cá nhân và sở hữu lòng
“tự trọng” là những triệu chứng của điều đó. Gõ lên Google chữ “self-esteem”, lòng
tự trọng, chúng ta sẽ có 1,4 triệu kết quả, đó mới chỉ là những trang tiếng
Pháp!
Thông
điệp của tôi không bảo hãy “Trở về thời Trung Cổ”, nhưng tôi tin chắc cách đây
vài thế kỷ, con người không gặp nhiều khó khăn trong việc yêu thương chính mình
như chúng ta bây giờ. Những con người xưa kia nhận thức rất rõ, họ là những thọ
tạo của Thiên Chúa - những tội nhân, dĩ nhiên, nhưng đáng được yêu thương và cứu
độ. Việc chối bỏ Thiên Chúa trong ba thế kỷ qua đi kèm với ảo giác cho rằng tội
lỗi được loại trừ theo cách này và cuối cùng con người được tự do và hạnh phúc.
Nhưng những người nghĩ như vậy đã quên mất một điều: không có Thiên Chúa, con
người phải tự mình gánh vác sức nặng của thất vọng, khổ đau và thất bại
trong mọi lãnh vực. Không có Thiên Chúa, không có thứ tha hay thương xót. Ai làm
hỏng đời mình, sẽ vô phương cứu chữa. Ngay cả một lực lượng các nhà trị liệu
cũng không thể dạy chúng ta cách tự xoá tội mình. Lòng tự trọng phải được xây dựng
trên niềm xác tín rằng, bất cứ điều gì xảy ra, tôi vẫn được yêu thương và có thể
yêu thương; và chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể bảo đảm điều đó.
Cốt lõi
nhân cách của con người, cũng là lãnh địa của sự an toàn riêng tư mà mọi người
cần đến hệ tại ở xác tín kép này: được yêu thương và có khả năng yêu thương. Cả
hai đều cần thiết. Biết mình được yêu thương cách vô điều kiện, tự nó chưa đủ; mỗi
người còn cần biết, họ có thể yêu thương và trở nên một quà tặng vô vị lợi từ
chính mình, nghĩa là họ có thể sinh hoa kết quả và trao ban sự sống. Chỉ một
mình Thiên Chúa mới có thể bảo đảm hai xác tín này. Vì chỉ một mình Người yêu thương
chúng ta bằng một tình yêu hoàn toàn vô điều kiện và cũng chỉ một mình Người
cam đoan với chúng ta rằng, mặc cho những giới hạn nơi chúng ta, ân sủng Người
vẫn có thể kiến tạo trong tâm hồn chúng ta một năng lực thực sự để yêu thương, để
có thể nhận và nóng lòng để cho đi.
Lòng
kính mến Chúa, lòng yêu thương người và tình yêu đối với chính mình cùng nhau triển
nở, nhưng ở một thời điểm nào đó, chúng ta có thể thấy điểm này cần được nhấn mạnh
hơn hai điểm kia. Đôi khi, cần gia tăng lòng mến Chúa bằng việc cầu nguyện nhiều
hơn, tín thác vào Người nhiều hơn, mở lòng nhiều hơn trước ý muốn của Người và
lắng nghe chăm chú hơn vào lời Người. Nhiều lúc, lòng yêu người cần được nhấn mạnh:
thực hành đức kiên nhẫn (theo thánh Catarina thành Siêna, “mẫu gương bác ái”)
là mở rộng lòng tha thứ, phục vụ tha nhân, giúp đỡ người nghèo khó và vân vân. Cũng
có lúc phải dành ưu tiên để yêu thương chính mình: chấp nhận sự yếu đuối mỏng
dòn của mình, đón nhận chính mình, thôi không tự trách mình nữa. Chúng ta phải
chú tâm lắng nghe những tiếng gọi của Thần Khí và biện phân những ưu tiên của
Ngài ở mỗi thời điểm cụ thể trong cuộc sống mình.
NHỮNG
THÁI ĐỘ GIÚP CHÚNG TA
DỄ
DÀNG ĐÓN NHẬN LỜI MỜI GỌI
Nhưng làm thế nào
để chúng ta biện phân những tiếng gọi của Thiên Chúa? Đức tin, đức cậy, đức mến
của tôi phải như thế nào lúc này và ở đây? Thật không luôn luôn dễ dàng để trả
lời câu hỏi này và cũng không một hình thức nào lại phù hợp cho tất cả mọi người.
Thế nhưng, vẫn có một vài thái độ nhất định soi sáng cho đa số các trường hợp
và dẫn dắt những quyết định của chúng ta. Đây không phải là vấn đề trau dồi một
số kỹ thuật biện phân tinh vi, nhưng là sống trong trạng thái tiếp thu nội tâm
sẽ được nói đến ở phần sau của cuốn sách. Sáu thái độ liên quan sau đây tuyệt đối
cần thiết cho mục đích này:
1. Trước
hết, cầu nguyện. “Anh em cứ xin thì sẽ được,
cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho”[39].
“Theo Thần Khí hướng dẫn, anh em hãy dùng
mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn mãi. Để được như vậy, anh
em hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu xin cho toàn thể dân thánh”[40].
Ngoài việc trung thành với những giờ cầu nguyện cố định, mỗi người cần có một
lòng ước ao lớn lao sống cho Chúa và yêu mến Người trong tất cả mọi sự: sống trong
sự hiện diện của Chúa ngần nào có thể trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống để có
thể đối thoại với Người. Thầy Lawrence Phục Sinh, đan sĩ của một Nhà Kín tại Paris
vào thế kỷ 17 đã viết:
Thực
hành thánh thiện nhất cũng là điều thông thường và cần thiết nhất cho đời sống thiêng
liêng trong sự hiện diện của Thiên Chúa, là vui thích cũng như quen thuộc với
việc bầu bạn thiêng liêng với Người; từ đó, khiêm tốn nói chuyện và đối thoại với
Người mọi lúc, mọi giây phút mà không theo một luật lệ hay một đo lường nào về
thời gian; đặc biệt, những lúc bị cám dỗ, khổ đau, khô khan trong tâm hồn và ngay
cả những lúc bội tín hay phạm tội. Cần thiết biết bao để mỗi người áp dụng cho
mình một cách liên lỉ, không thờ ơ với điều này; nhờ đó, mọi hành động của
chúng ta đều trở nên một cuộc gặp gỡ nho nhỏ với Thiên Chúa, không như một nỗ lực
được nghiên cứu, nhưng xuất phát từ lòng thanh khiết và đơn sơ của tâm hồn[41].
2. Thái
độ nền tảng thứ hai chúng ta cần có là thái độ của đức tin với hai khía cạnh
không thể thiếu của nó: tin và tuân phục chân lý. Tin tưởng tuyệt đối
vào Thiên Chúa nghĩa là hoàn toàn phó thác hoàn toàn chính mình cho sự săn sóc
của Người như một trẻ thơ, ngay cả trong những bão tố tồi tệ nhất (hãy nghĩ đến
sự lặng yên của giông tố trong Tin Mừng)[42].
Cùng lúc, chúng ta phải có lòng ao ước thiết tha đón nhận chân lý và tùng phục chân
lý đó, như cách diễn tả dễ thương của thánh Phêrô: “Nhờ vâng phục chân lý, anh em đã thanh luyện tâm hồn để thực thi tình
huynh đệ chân thành. Anh em hãy tha thiết yêu mến nhau với tất cả tâm hồn”
(1 Pt 1, 22). Thánh nữ Têrêxa từng nói, “Tôi không bao giờ tìm kiếm bất cứ điều
gì ngoài chân lý” [43].
Lòng chân thật - luôn luôn chân thật với chính mình với tha nhân và với Thiên
Chúa - là một dộng cơ đầy sức mạnh của sự tiến bộ trong đời sống thiêng liêng.
Chẳng hạn, điều này có thể thấy được trong cuộc đời của Etty Hillesum, dẫu đời
sống đạo đức và tình cảm của cô ban đầu không được xác định rõ, nhưng thiếu nữ
này đã có một lòng dâng hiến chân thành cho Thiên Chúa và thể hiện một lòng nhân
ái đáng ngưỡng mộ đối với tha nhân. Như nhật ký của cô cho thấy, cô đã khao
khát và bám chặt chân lý như thế nào[44].
Một
trong những biểu hiện xác thực nhất của niềm khao khát chân lý là khiêm nhường: khả năng nhìn nhận lỗi lầm
bản thân, để chính mình được chỉ dạy bởi những người khác và bởi cuộc sống,
thoát khỏi cạm bẫy luôn cho mình là đúng và giành cho được tiếng nói cuối cùng
vốn rất tai hại cho các tương quan, tác hại này cũng thường len lỏi vào những nẻo
đường dẫn tới chân lý.
Bước đi
trong đức tin cũng có nghĩa là bằng lòng với
một loại tối tăm nào đó, tập sống với
những nghi vấn không thể trả lời. Điều này lại không hoà hợp với nhu cầu cần
được an toàn cũng như mâu thuẫn với ảo tưởng khi cho rằng, an toàn hệ tại việc
chúng ta làm chủ hoàn cảnh bằng trí tuệ của mình. Nhưng đó là một sai lầm.
Chúng ta không thể hiểu hết mọi sự, cho nên, nhìn nhận những giới hạn của mình và
tín thác vào Thiên Chúa là con đường đúng đắn đưa đến an toàn và bình an.
Tôi thường
gặp những người đã trải qua những đổ vỡ tình cảm rất đau lòng, họ cảm thấy thật
khó khăn trong việc tha thứ cũng như vực dậy cuộc sống mình. Họ mải đắm chìm
trong khổ đau, tìm cách hiểu cho bằng được mọi chuyện đã xảy ra, để biết lý do tại
sao người kia lại nghĩ thế này thế nọ và để hiểu lý do tại sao họ bị “bỏ rơi”.
Đôi khi, điều kiện để chúng ta lật sang một trang mới là mọi sự phải được làm
rõ - và đó lại là điều không thể. Vậy thì cách duy nhất để tiến lên phía trước
là phó mình cho Thiên Chúa và sự khôn ngoan của Người trong việc Người tỏ cho
chúng ta “điều” Người muốn bày tỏ cũng như “khi” Người muốn tỏ bày. Việc phó
dâng này tuy nghiệt ngã nhưng thật lành mạnh.
3. Thái
độ thứ ba là sống giây phút hiện tại.
Thiên Chúa không luôn luôn gởi đến những giải pháp lâu dài khi đáp lại những
nhu cầu của chúng ta nhưng Người thường chỉ gởi đến những cú đẩy nhẹ, “chỉ cho
hôm nay”[45].
Thế là đã đủ cho chúng ta tiến bước, miễn là chúng ta tin tưởng vào Người.
Về chủ
đề này, tôi hết sức ngưỡng mộ một trích đoạn trong bài thơ Đêm Tăm Tối (The
Obscure Night) của thánh Gioan Thánh Giá.
Đêm hân
hoan, đêm tăm tối,
Nào ai
thấy, lặng lẽ, chỉ mình tôi
Bước
đi, mắt mở như mù
Không
đèn soi, không người đưa lối
Ngoài đốm
lửa le lói trong tim
Chút tia
sáng ấy dẫn tôi tiến tới
Sáng
hơn cả vầng hồng chính ngọ[46].
Bước
theo ngọn lửa nhỏ bé của đức tin, đức cậy và đức mến vốn đang cháy trong lòng,
tâm hồn cảm thấy an toàn như thể đang bước đi giữa thanh thiên bạch nhật. Hãy đi
theo những biểu lộ phát xuất từ những hành vi khiêm tốn của đức tin, đức cậy và
đức mến mà Chúa Thánh Thần gợi hứng cho chúng ta thực hiện mỗi ngày. Không ai
có thể lầm lạc khi bước đi trong tin, cậy, mến. Hôm nay Chúa nói cho hôm nay. Chúng
ta không biết mình sẽ được gọi làm những gì trong năm năm hay mười năm tới. Biết
những gì phải làm hôm nay là đủ.
Ai có
thái độ này, người ấy sở hữu được sự ngoan ngoãn và đức từ bỏ. Thật không tốt
khi người ta luôn luôn muốn chịu trách nhiệm về cuộc sống của mình và kết quả
là trở nên cứng nhắc trong việc sắp xếp lịch sống. Dĩ nhiên, một cuộc sống có tổ
chức và một lịch trình ngăn nắp thật đáng ước ao, nhưng đáng ước ao chỉ khi nào
chúng ta luôn sẵn sàng mở lòng ra trước những gì ngoài mong đợi. Nếu cứ khoá chặt
vào kế hoạch của mình, chúng ta có nguy cơ bỏ lỡ những lời mời gọi của Thiên
Chúa.
Trong
suốt thời gian giúp các Linh mục tĩnh tâm ở Mễ Du, chứng từ của một nữ tu đầy
tràn Thánh Thần đã đánh động tôi. Soeur Elvira, người sáng lập trung tâm giúp đỡ
thanh thiếu niên nghiện ngập. Soeur đã nói vài điều mà những Linh mục như chúng
tôi cần phải nghe: “Tôi luôn luôn sẵn sàng làm, trong 5 phút tới, những việc
trái ngược với những gì tôi đã hoạch định trước đó!”.
4. Một
thái độ không thể thiếu là bằng lòng với hoàn cảnh đang gặp phải, đặc biệt bằng lòng chịu khó với khổ đau. Đây
không chỉ là việc thụ động chịu đựng với những gì xảy ra, càng không phải ít
nhiều chủ động tìm kiếm đau khổ. Hãy xoa dịu những đau khổ vốn có thể xoa dịu
được! Đừng nhân danh đau khổ để tạo ra một vị Thần Khổ Đau. Chính tình yêu mới
cứu độ, không phải khổ đau.
Vậy mà,
một số đau khổ và chiến đấu lại là một phần làm nên cuộc sống. Chúng phải được
đón nhận với nhẫn nhục, với đức tin, đức cậy và sức mạnh được tìm thấy trong Đức
Kitô. Thánh Phaolô đã nói với Timôthê, môn đệ của mình rằng, “Dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, anh hãy đồng
lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng” (2Tm 1, 8). Thánh Phêrô lại khuyến
khích chúng ta đừng xem thời gian thử thách như một điều gì đó xa lạ, “Được chia sẻ những đau khổ của Đức Kitô bao
nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em
cùng được vui mừng hoan hỷ” (1Pr 4, 13).
Những
điều này đã được bàn đến ở đâu đó[47]
nên ở đây, tôi chỉ nêu thêm một số nhận xét. Việc chấp nhận đau khổ luôn là điều
khó khăn, nhưng nó đơn giản hoá cuộc sống; ngược lại, chối từ nó, cuộc sống trở
nên vô cùng phức tạp. Những lúc đó, chúng ta không ngừng đặt cho mình những kế
hoạch phức tạp, lê thê… hầu tránh né đau khổ. Bằng không, nó ấp ủ hận thù, khuấy
động nổi loạn và dẫn tới việc buộc tội, lên án… vốn sẽ đầu độc tâm hồn mình. Thật
không hiếm để thấy việc người ta biến những hoàn cảnh đơn giản thành phức tạp để
rồi dẫn đến cáu bẩn, chỉ vì họ từ chối đau khổ.
Kitô
giáo thường bị lên án là tỏ ra mềm yếu trước đau khổ. Nhưng cuối cùng, ai có thể
bầu bạn với khổ đau - người biết chấp nhận khó khăn với một đức tin mạnh mẽ hay
là người dành thời gian để rên rỉ kêu than về những vấn đề có thể đoán trước trong
cuộc sống?
Ngày
nay, việc từ chối khổ đau một cách quyết liệt lan tràn trong văn hoá phương Tây
đang dẫn đến những hậu quả nguy hại. Những ai đau khổ được khuyến khích hãy coi
mình như những con bệnh hoặc nạn nhân. Nhưng điều này thật tai hại đối với các tương
quan xã hội. Những bài viết của Kitô giáo về giá trị cứu chuộc của đau khổ đôi
khi lại quá cường điệu chủ đề này; tuy nhiên, sự phủ nhận hiện nay khi cho rằng,
đau khổ có thể có bất cứ ý nghĩa tích cực nào đó, lại tai hại hơn.
Đau khổ thường được coi như bệnh. Giúp đỡ và đồng
hành với ai đó đang đau khổ là cho rằng, cá nhân đó đang ở trong một trạng thái
không bình thường và đang cần tư vấn tâm lý. Chúng ta dường như liều lĩnh muốn
chữa lành mọi chuyện. Một mẫu quảng cáo trên một tạp chí công giáo nào đó viết:
“Hãy chữa lành những vết thương của gia đình bạn!”. Tôi không nghi ngờ những ý
chỉ tốt lành của những người đứng ra tổ chức một cuộc tĩnh tâm nào đó cho những
ai bị tổn thương bởi những vấn đề của gia đình. Nhưng khẩu hiệu đó gây ngạc
nhiên cho tôi. Chuyện gia đình đâu phải là bệnh. Phải chăng chúng ta sẽ sớm được
thấy mẫu quảng cáo có tựa đề “Vượt qua cuộc sống?”. Cách duy nhất để vượt qua cuộc
sống là hết sống! Cho nên, đàng sau ám ảnh về việc chữa lành có thể sẽ là một sự
khước từ sống cuộc sống đúng nghĩa của nó.
Ngày
nay, những “phỉnh phờ” vẫn còn đó. Vì đau khổ không được chấp nhận, nó trở nên bất
công. Thế nên, ai đau khổ, người ấy hẳn là một nạn nhân. Lối suy nghĩ này khích
động những nhu cầu ấu trĩ và dẫn đến những điều trị vô lý.
Nhưng tôi
xin nhắc lại: mọi đau khổ có thể gỡ bỏ được, hãy gỡ bỏ. Tin Mừng dạy chúng ta
cho kẻ đói ăn, cho ai trần truồng áo mặc. Dẫu vậy, chúng ta cũng cần chấp nhận
những khổ đau mà tiến trình thiêng liêng và nhân bản đòi hỏi. Đau khổ được chấp
nhận sẽ giải thoát tâm trí khỏi vũng lầy ích kỷ, hướng nó đến sự sống thiêng
liêng và biết quên đi chính mình. Đau khổ này giúp chúng ta mở lòng ra trước mầu
nhiệm của Thiên Chúa, “Người công chính gặp
nhiều nỗi gian truân, nhưng Chúa giúp họ luôn thoát khỏi” (Tv 34, 20).
Chấp nhận
đau khổ cũng đem lại bình an - một bình an cho phép người ta nghe được tiếng gọi
của Thiên Chúa.
5. Một
thái độ cần thiết khác để biện phân tiếng gọi của Thiên Chúa là sự sẵn sàng để
được đồng hành. Không ai tự cho mình là đủ. Như thánh Gioan Thánh Giá nhấn mạnh,
Thiên Chúa muốn chúng ta cần nhau, “Thiên Chúa rất hài lòng khi con người được điều
chỉnh và hướng dẫn bởi những con người như họ”[48].
Tốt lành biết bao khi một người có thể quay sang một ai đó để chia sẻ cách
thành thật những gì họ đang trải nghiệm; trong ánh sáng đức tin, đây là một
trong những cách thức để mỗi người có thể đón nhận sự soi rọi của Thiên Chúa!
Nguyên
việc nói ra thành lời những gì đang xảy ra tự nó đã sinh ích bởi nó đề cao tính
khách quan và sự gạn lọc. Nhưng đặc biệt có ích hơn nữa là đức khiêm nhường vốn
liên quan đến việc nhìn nhận mình không thể am tường thực tại sâu xa nhất của
cuộc đời một cách toàn bộ nếu không được trợ giúp bởi người khác cùng với sự
tin tưởng mà Thiên Chúa muốn mỗi chúng ta có đối với con người cũng như đối với
những nguồn mạch mà Hội Thánh có về sự hiểu biết này.
Thái độ
nền tảng thứ sáu là một tinh thần toả lan lòng biết ơn. Bởi tầm quan trọng của
nó, nó đáng được thảo luận chi tiết hơn.
GIỮ
LẤY TÂM TÌNH TẠ ƠN
“Hãy
tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn
trong Đức Kitô Giêsu” (1Tx 5, 28). Lời cổ vũ của thánh Phaolô gửi
giáo đoàn Thêxanônica lặp lại chủ đề thường được nghe trong các Thánh Vịnh, “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát
mừng Người chẳng ngớt trên môi” (Tv 34, 2). Tạ ơn không chỉ là một hình thức
cầu nguyện được đem ra thực hành lúc này lúc khác, nhưng đó phải là một thái độ
nền tảng của tâm hồn, một thiên hướng của đời sống, một cách định hướng cho
toàn bộ cuộc đời mỗi người.
Nhưng điều
đó thật không dễ dàng. Sự gièm pha của quỷ dữ - mỗi người trải qua hay những
người họ yêu mến phải trải qua - những điều này phá hoại một thái độ ngợi khen.
Tôi nhớ lại điều đã nghe một bạn trẻ Do Thái và một triết gia công giáo,
Fabrice Hadjadj, thảo luận cách đây nhiều năm trong một buổi cà phê văn học ở
Paris. Câu hỏi thế này, “Sau khi vào trại Auschwitz[49],
người ta còn có thể ngợi khen chúc tụng Thiên Chúa hay không?”. Anh trả lời:
Nếu sau
những nỗi kinh hoàng của Đức Quốc Xã mà chúng tôi, những người tín hữu thôi
không còn yêu mến Thiên Chúa và chúc tụng Người nữa, điều đó chỉ có nghĩa là,
Hítler đã thắng. Mọi người tự do phản ứng theo như họ thấy thích đáng, nhưng phần
tôi, tôi không muốn dành chiến thắng đó cho Hítler, vì thế tôi muốn tiếp tục ngợi
khen Thiên Chúa suốt cuộc đời tôi, dẫu bất cứ điều gì có thể xảy ra!
Ngợi khen
biểu thị một niềm tin rằng, tình yêu mạnh hơn thù oán, ánh sáng mạnh hơn bóng tối…
và hồi kết lịch sử không phải là thắng lợi của sự dữ nhưng là toàn thắng của sự
lành. Đức Giêsu nói với nữ ẩn sĩ thần bí thời Trung Cổ Julian of Norwich, rằng,
“Tội là điều không thể tránh khỏi, nhưng mọi sự sẽ kết thúc tốt đẹp!”[50].
Sự dữ là sự hư vô - thiếu vắng hiện hữu – ngay cốt lõi của nó. Chỉ sự lành mới
có giá trị trường cửu.
THÁNH
HOÁ DANH THIÊN CHÚA
Tiếng gọi chúc tụng
danh Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh không chút nghi ngờ là ơn gọi quan trọng và
khó khăn nhất, nhưng đồng thời, cũng là một ơn gọi đẹp đẽ nhất. Nó làm cho loài
người nên cao quý và cho phép chúng ta nhận ra nhân phẩm và tự do của mình cách
trọn vẹn nhất. Một người gặp phải một tai ương vốn có thể dẫn đến việc người ấy
nghĩ rằng Thiên Chúa đã quên những lời hứa của Người và rằng, cuộc sống thật vô
nghĩa… nhưng vẫn có thể cao rao rằng: “Danh Chúa đáng chúc tụng!” thì quả thật,
người ấy đang làm cho một hành vi cao cả nhất của tự do và lòng yêu mến trở nên
có thể hiểu được. Bỗng nhiên, người ấy đã vượt quá sự vị kỷ và hẹp hòi của phàm
nhân.
Đây là
ơn gọi của dân Israel: Kiddoush ha Shem,
Thánh Hoá Danh Thiên Chúa. Đó chính là lý do tại sao Địch Thù của Thiên Chúa rất
thường xuyên tấn công nó. Sự thảm khốc của chiến tranh thế giới thứ II có thể
khiến người ta đau xót không bao giờ ngơi, nhưng chúng không thể lấy đi sự vĩ đại
giàu cảm xúc của những đoàn người Do Thái sùng đạo từ các nước giữa lòng Âu Châu
khi họ đi đến lò thiêu sống mà trên môi vẫn không ngớt lời kinh Shema của Israel. Đây là tiếng vọng vô
vàn lời của ông Giob, người thay vì nguyền rủa Thiên Chúa, đã cất lên “Chúa đã ban cho, Chúa lại lấy đi: xin chúc
tụng Danh Chúa!" (Gio 1, 21).
Chúng ta - những
người Kitô hữu- nên kế tục ơn gọi này của dân Israel mọi ngày khi chúng ta cầu
nguyện, “Nguyện Danh Cha cả sáng!”. Đó chính là đặc ân và cũng là bổn phận của
chúng ta khi chúc tụng Danh Chúa suốt mọi ngày trong đời mình. Vào cuối đời, thánh
nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu nói: “Lời này của ông Gióp: ‘Dẫu Thiên Chúa có lấy mạng tôi, tôi vẫn sẽ trông cậy nơi Người!’
đã soi sáng tôi từ thuở còn thơ”[51].
Khi con cái của
Cha Trên Trời đáp lại tiếng gọi chúc tụng Danh Chúa này, họ đã dựng nên một
thành luỹ không gì lay chuyển chống lại các thế lực của sự dữ. Thánh Vịnh 8 diễn
tả điều này thật tuyệt vời:
Lạy Đức
Chúa là Chúa chúng con, lẫy lừng thay danh Chúa trên khắp cả địa cầu! Uy phong
Ngài vượt quá trời cao. Ngài cho miệng con thơ trẻ nhỏ cất tiếng ngợi khen đối
lại địch thù, khiến kẻ thù quân nghịch phải tiêu tan (Tv 8, 2-3).
Hành vi
bác ái cao trọng nhất mà một người có thể làm cho những người khác là khuyến khích
họ sống trong đức tin và đức cậy. Ngợi khen Thiên Chúa như lương thực thực sự
cho linh hồn.
Lòng
thoả thuê như khách vừa dự tiệc,
môi miệng
con rộn rã khúc hoan ca.
Con tưởng
nhớ Chúa trên giường ngủ,
suốt
năm canh thầm thĩ với Ngài (Tv 63, 6-7).
Đây là
một phương thế vô cùng hữu hiệu để lớn lên trong đức khiêm nhường - từ bỏ đòi hỏi
công nghiệp của mình và nhận biết mọi sự tốt đẹp trong cuộc sống đều đến từ
lòng quảng đại của tình yêu Thiên Chúa. Như lời cha Raniero Cantalamessa, người
chuyên giảng cho các nhân viên trong điện Vatican nói, “Ngợi khen giết chết và
tiêu huỷ kiêu hãnh của con người. Ai ngợi khen Thiên Chúa thì như đã dâng một lễ
hy sinh nào đó vốn hoàn toàn làm vui lòng Người: con người cất tiếng ngợi khen.
Sức mạnh thanh tẩy phi thường của lời cầu nguyện nằm ở đây. Đức khiêm nhường ẩn
giấu trong lời ngợi khen”.
BÀO
CHỮA HAY BIẾT ƠN?
Ngợi khen và tạ ơn
Thiên Chúa giúp người ta từ bỏ ý tưởng cho mình là vật tế và chấp nhận trách
nhiệm. Khuynh hướng coi mình là nạn nhân này rất phổ biến ngày nay.
Những người
tự cho mình là nạn nhân dùng thời giờ để kêu ca, đòi hỏi và yêu sách. Không tin
vào Thiên Chúa, họ nhìn khó khăn hoặc đau khổ như lầm lỗi của một ai đó, bằng không,
thì đó là một cái gì hoàn toàn bất công. Lý tưởng của họ là một cuộc sống lúc
nào cũng hài lòng, không đau buồn, không gắng sức. Khi gặp thử thách họ tìm ai
đó để đổ lỗi, ai đó để trả giá cho những đau khổ họ chịu. Nếu không tìm được ai
để than trách, họ đổ lỗi cho nhà cầm quyền về những điều đang gây phiền hà cho
họ… như thể nhà nước phải thế này thế kia hay thậm chí phải có khả năng bảo đảm
cho mọi người một cuộc sống không có đau buồn!
Hệ quả
của việc này làm nảy sinh một xã hội thích kiện tụng. Vâng, đôi khi người ta có
quyền ra toà để đòi bồi thường những thiệt hại; nhưng ngày nay việc kiện tụng
trở nên quá phổ biến khi ai đó phải đau khổ vì người khác - ngay cả với những người
thân trong gia đình - họ lôi người có lỗi ra trước quan toà thay vì tự tin đối
mặt với hoàn cảnh khó khăn một cách có trách nhiệm hoặc tha thứ cho kẻ lầm lạc
và đón lấy gánh nặng của mình. Về lâu về dài, cách hành xử này xói mòn đời sống
xã hội vì nó gieo rắc độc tố ngờ vực.
Ngợi
khen và tạ ơn là những phương thuốc tuyệt vời cho tâm thức những ai coi mình là
nạn nhân. Thay vì phàn nàn hay bào chữa, chúng ta được mời gọi chấp nhận cuộc sống
trong chính hiện trạng của nó, cả với những gánh nặng khổ đau và khó khăn đang
dành cho mình. Dần dần, chúng ta hiểu ra rằng, thách thức trước mắt không phải là
việc thay đổi cuộc sống nhưng là thay đổi thái độ sống: từ thận trọng, lên án… đến
chấp nhận, tin tưởng. Với đức tin, chúng ta học biết đón nhận cuộc sống như một
quà tặng, cả khi nó khác với những gì chúng ta mong đợi. Để rồi, chúng ta sẽ hiểu
ra rằng, cuộc sống thực vốn đẹp đẽ và phong phú hơn cuộc sống mộng mơ bội phần.
Đây là
nguyên tắc căn bản của đời sống thiêng liêng được tìm thấy trong Tin Mừng. Đức
Giêsu nói những lời bí nhiệm:
Tôi nói
cho các anh hay: phàm ai đã có, thì sẽ được cho thêm; còn ai không có, thì ngay
cái nó đang có cũng sẽ bị lấy đi (Lc 19, 26).
Bằng
cách này, Ngài công bố một trong những quy luật quan trọng nhất của cuộc sống.
Ai ấp ủ trong lòng những oán giận, bất hạnh, đắng cay… vì cuộc sống không như họ
mong muốn, người ấy sẽ vỡ mộng. Trái lại, ai vui mừng vì những gì họ nhận được
và tạ ơn Thiên Chúa về những gì xảy đến cho mình, sẽ được nhận nhiều hơn, mãi cho
đến khi họ được dư tràn bởi lòng quảng đại của Thiên Chúa.
Tôi thường
gặp những người luôn luôn chống lại cuộc sống. Họ không bao giờ hài lòng và bất
cứ điều gì xảy đến, họ cảm thấy mọi sự phải khác đi. Cuộc đời của họ tiêu hao
cho những cuộc thánh chiến phù phiếm.
Cội nguồn
sâu xa của lối suy nghĩ này tiềm ẩn một sự giận dữ vô thức, một kiểu hận thù. Một
cảm giác như thế có thể làm cho người ta mạnh mẽ trong giây lát, để rồi, họ tỏ
ra là những nhà vô địch của lòng quảng đại và công bằng. Nhưng cuối cùng, nó
không còn tác dụng, bởi về lâu dài, hoa trái chỉ đến từ tình yêu. Những ai mắc
phải chứng này cần được trợ giúp về mặt tâm lý; thực hành tạ ơn và ngợi khen hẳn
sẽ có ích cho họ. Khi lòng biết ơn trở nên tâm tình căn bản nhất của tâm hồn một
ai đó, người ấy có thể lặp lại lời của Mẹ Maria cách thành tâm:
Linh hồn
tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ
tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ
khen tôi diễm phúc (Lc 1, 46-48).
Chúng
ta hãy cầu xin Đức Trinh Nữ của lời kinh Magnificat giúp chúng ta có được thái
độ này như một cái gì riêng tư của mình.
Tôi tin
rằng, ai có khả năng sống thường xuyên tâm tình tạ ơn một cách liên lỉ, người ấy
sẽ nhanh chóng trở thành một vị thánh. Đây là thái độ thiêng liêng mạnh mẽ nhất
cho việc thanh tẩy tâm hồn và mở rộng nó trước những hành động của Thiên Chúa.
Sự dữ không có đất bám nơi một tâm hồn ắp đầy tâm tình tạ ơn.
Tóm lại,
cũng như thái độ ngờ vực và ước muốn trả thù khép kín cõi lòng trước lời mời gọi
và quà tặng của Thiên Chúa, lòng biết ơn và tin tưởng cho phép chúng ta biện
phân và đón nhận chúng. Biểu hiện chóp đỉnh của lòng biết ơn là việc cử hành
Thánh Thể, một hành vi tạ ơn đầy tràn nhất, trong đó Hội Thánh liên kết với hy
tế tạ ơn của Đức Kitô, Đấng ngợi khen Chúa Cha vì tình yêu và sự tốt lành vô
biên của Người. Như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói, “Thánh Thể được trao
ban cho chúng ta ‘để cuộc đời mỗi người nên như cuộc đời Đức Mẹ’, nghĩa là có
thể trở nên toàn bộ một lời kinh Magnificat”.
◊◊5◊◊
VÂNG
PHỤC NHỮNG NGƯỜI KHÁC
VÀ VÂNG PHỤC CHÚA THÁNH THẦN
Này đây Ta răn dạy, chỉ cho con biết đường
lối phải theo, để mắt nhìn con, Ta ban lời khuyên nhủ (Tv 32, 8).
Cho đến bây giờ,
chúng ta đã xem xét hai cách thức quan trọng mà tiếng gọi của Chúa đến với mỗi
người: Lời Chúa và các biến cố trong cuộc sống. Giờ đây, tôi muốn trình bày ngắn
gọn thêm về hai phương thức khác: những đòi hỏi của tha nhân và những hoạt động
bên trong của Chúa Thánh Thần. Nhiều điều đã được nói đến trước đây cũng có thể
áp dụng cho hai phương thức này.
NHỮNG
ĐÒI HỎI CỦA THA NHÂN
Hiển nhiên, không
phải đòi hỏi nào đặt ra cho chúng ta cũng là tiếng gọi đến từ Thiên Chúa. Có một
số đòi hỏi không chính đáng, thậm chí còn xấu nữa; chúng ta có quyền, và có thể
bắt buộc, nói không với những đòi hỏi đó.
Dẫu vậy,
rất thông thường, những đòi hỏi của tha nhân là phương tiện Thiên Chúa dùng để
mời gọi chúng ta lớn lên trong tình yêu. Chúng lay động chúng ta một phần nào đó
và buộc chúng ta ra khỏi sự hẹp hòi của mình.
Nhu cầu
của tha nhân và những đòi hỏi của họ, dù thầm kín hay được nói ra, thường chuyển
tải tiếng gọi của Thiên Chúa và hứa hẹn những phần thưởng quý giá cho những ai
đáp lại cách quảng đại.
Nhưng những
gì làm nên một lời đáp trả quảng đại không phải lúc nào cũng dễ dàng, cũng như
không hề có một qui tắc bất di bất dịch nào phù hợp cho mọi trường hợp.
Đôi khi
tính ích kỷ và sự lười biếng đóng kín chúng ta lại trước những gì người khác yêu
cầu. Khi điều đó xảy ra, chúng ta tự khước từ những cơ hội đẹp đẽ để sống mạnh
mẽ hơn. Người ta không thể thực sự nhận ra tiềm năng của mình nếu không liên kết
với tha nhân, đi vào sự liên minh, hứa hẹn và đón nhận lòng trung thành - một lòng
trung thành đôi khi có thể đắt giá nhưng đây là cách duy nhất để thoát khỏi cạm
bẫy của việc coi mình là trung tâm. Điều này không phù hợp với một tâm thức thế
tục những cho rằng, tất cả các mối quan hệ - chẳng hạn khế ước hôn nhân - với
những người khác là sự xâm phạm đến quyền cá nhân. Nhưng sự thật thì hoàn toàn
khác. Sự ràng buộc về lòng trung thành là một phần thiết yếu của tự do đích thực[52].
Việc phụ
thuộc quá đáng vào những mong đợi và đòi hỏi của người khác cũng rất phổ biến.
Các yếu tố tâm lý như sợ hãi, nhu cầu được tán thành hay một sự hiểu biết méo
mó về ý nghĩa của lòng bác ái… khiến một số cá nhân tin rằng họ phải nói “vâng”
với bất cứ ai và với bất cứ chuyện gì… cũng như phải làm vừa lòng mọi người từ sáng
tới tối. Kết quả là nhân cách họ bị lu mờ, họ xao lãng với nhu cầu của bản thân
và rồi, đay nghiến thay vì yêu thương. Đúng là không thể có hạnh phúc nếu không
biết xả thân quên mình, nhưng đó phải là sự cho đi thực sự: tự do lựa chọn, vô
vị lợi… phát xuất từ một sự dư dật lành mạnh nào đó ở phía người cho.
SỰ
NHẬP NHẰNG CỦA VIỆC CHO ĐI CHÍNH MÌNH
Xin được nhắc lại,
không thể có hạnh phúc đích thực nếu không biết cho đi chính mình vốn bắt nguồn
từ tình yêu. Đức Giêsu đã dạy, “cho thì có phúc hơn nhận” (Cv 20, 35). Tất cả
chúng ta đều trải nghiệm điều này. Thật tốt lành và cần thiết để lãnh nhận tình
yêu; nhưng sau cùng, tình yêu làm chúng ta hạnh phúc không phải là tình yêu
chúng ta nhận nhưng là tình yêu chúng ta cho đi. Đây là lời hứa của Tin Mừng:
Trái lại,
khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ
không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ
trong ngày các kẻ lành sống lại (Lc 14, 13-14).
Tuy vậy, cho đi
chính mình không hề đơn giản trong thực hành. Một đôi khi, người ta quảng đại
cho đi chính mình nhưng lại không cảm nghiệm hạnh phúc Tin Mừng hứa ban. Thay
vào đó, họ gặp phải buồn phiền, mệt mỏi và thất vọng. Những nhu cầu của chính
mình bị lãng quên, vì chính họ bị phớt lờ. Chúng ta đã từng nghe một người quảng
đại nào đó nổi giận thốt lên, “Tôi đã chán ngấy việc phục vụ người khác, phải
làm mọi việc nhớp nhúa, đang khi người ta cứ xem như đó là chuyện đương nhiên
và chưa bao giờ tôi nghe lấy một lời cám ơn!”.
Cho đi
chính mình có thể kết thúc như thế nếu không được làm cách tự do, được làm bởi
một động lực nào đó hơn là phát xuất từ một tình yêu vô vị lợi - sợ nói không,
sợ không được chấp nhận, lệ thuộc tình cảm, tính cầu toàn vốn phát xuất từ lòng
kiêu hãnh, một cảm giác để người khác mang ơn - hoặc ý niệm để cứu người khác,
cần làm vui lòng họ, muốn dạy cho họ một bài học bằng cách khiến họ xấu hổ… thậm
chí còn có cả loại hình quảng đại được tính toán giống hệt một kiểu thương lượng
mua bán vô thức: tôi sẽ cho anh chính tôi, với điều kiện là anh phải cho tôi cảm
giác hài lòng, hoặc đề cao bản ngã mà tôi đang khao khát. Thật quan trọng để xét
xem những thúc bách và loại khỏi chính mình những động lực nào không hoàn hảo;
nhờ đó, việc cho đi chính mình của chúng ta có thể trở nên vô vị lợi và tự do thực
sự.
KHÁC
BIỆT ĐÍCH THỰC GIỮA CHO VÀ NHẬN
Hiểu được sự khác
biệt thực sự giữa cho và nhận là một điều rất quan trọng nhưng có phần khó hơn,
vì từ đó, việc cho đi chính mình của chúng ta mới có thể trở nên nguồn mạch của
niềm vui. Luôn luôn cho mà không bao giờ nhận, sớm muộn gì cũng sẽ kết thúc trong
thất vọng. Con người cần những khích lệ và những giây phút vui đùa hạnh phúc.
Thế
nhưng, hàng ngàn sự hài lòng tự chúng vẫn không thể cho thêm một trải nghiệm hạnh
phúc đích thực, và việc đeo đuổi mọi thoả mãn thể lý vốn thường khả thi là con
đường chắc chắn đưa đến bất hạnh. Một sự giúp đỡ có tính toán cũng như thế, “Tôi
chỉ cho đi khi tôi đã nhận”. Ai hành động theo cách này sẽ sớm trở thành nạn
nhân buộc phải lắng lo và đong đếm, đang khi họ quên rằng, thông thường, chính
trong hành động cho đi mà chúng ta nhận lại. Chỉ khi nào chấp nhận tiếng gọi của
Thiên Chúa để lao mình vào một công trình nào đó vượt quá sức mình, chúng ta mới
nhận được hồng ân cần thiết - hồng ân chưa hề có trước đó.
Thật hợp
lẽ khi chúng ta giữ mình khỏi sự cho đi cách miễn cưỡng vốn có thể gây thất vọng;
thái cực ngược lại cũng có thể xảy ra. Những phương tiện truyền thông đại chúng
ngày nay không ngừng kêu lên, “Hãy lo cho bản thân, hãy để cho mình được hạnh
phúc, bạn là số một”. Điều này đúng, một số người thờ ơ với nhu cầu của chính
mình. Nhưng ai chỉ chú trọng đến lời khuyên này mà không quan tâm đến người khác
thì như người đã bị cuốn hút - không phải bởi một vui thú nào đó - nhưng bởi
chính bản thân họ và những gì họ sẽ trở nên.
Nhận định
quan hệ đúng đắn giữa cho và nhận không phải là việc đánh giá sự quân bình được
thực hành nhuần nhuyễn giữa những gì tôi cho người khác và những gì tôi được lại.
Thay vào đó, nó được diễn tả trong câu nói có phần khó hiểu của Tin Mừng:
Còn
anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí
được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho
anh (Mt 6, 3-4).
Đây là
nghịch lý của Tin Mừng. Để có được một sự quân bình lành thánh giữa việc cho và
nhận, bạn đừng tìm kiếm nó, nhưng hãy để mặc điều đó cho Chúa Cha!
Cha
chúng ta trên trời biết con cái Người cần gì. Phần chúng ta, hãy cho và đừng lo
lắng liệu mình có nhận lại không; đồng thời, phải học biết lãnh nhận với lòng
đơn sơ và tự do. Đừng hỏi, liệu chúng ta có xứng đáng hay không hoặc một cách
chính xác, làm sao để chia sẻ những gì đã nhận. Với những câu hỏi này, hãy để
Thiên Chúa trả lời trong ánh sáng tình yêu không dò thấu của Người.
Học yêu
nghĩa là nhìn thấy rõ ràng hơn bao giờ hết thái độ thiêng liêng nền tảng - và thật
nghịch lý, lại là điều khó khăn nhất - đó là cởi mở đối với việc nhận. Thái độ
này hết sức căn bản, vì chính Thiên Chúa Đấng yêu thương chúng ta trước, nhưng
nó khó vì đòi hỏi chúng ta cần có lòng tin mạnh mẽ, khiêm nhường thẳm sâu và để
cho chính mình được yêu thương.
Dĩ
nhiên, cần làm chủ cuộc sống với tinh thần trách nhiệm cùng với sự năng động, nhưng
bên cạnh đó, không thể thiếu tâm tình con thảo. Toàn bộ đời sống thiêng liêng
là thời gian trau dồi và luyện tập trong niềm phó thác và lĩnh hội như một đứa
trẻ. Sự lĩnh hội thiêng liêng này phải được học từng bước một trong một tiến
trình không bao giờ ngưng. Vì đây không gì khác hơn là tinh thần nghèo khó Tám
Mối Phúc Thật đã nói đến (Mt 5, 1). Người tự phụ không có khả năng lãnh nhận bởi
tính kiêu căng của họ không cho phép. Chỉ người khiêm nhường mới biết cách nhận.
Còn đối
với việc cho đi, nguồn mạch của nó phải được tìm kiếm nơi Thiên Chúa chứ không
phải nơi cái tôi của mình. Chúng ta thường ước ao cho đi theo tiêu chuẩn, theo sự
khôn ngoan và sức mạnh của mình. Thế là chóng kiệt sức. Thánh Kinh đưa ra lời hứa
này:
Thanh
niên thì mệt mỏi, nhọc nhằn; trai tráng cũng ngả nghiêng, lảo đảo. Nhưng những
người cậy trông Đức Chúa thì được thêm sức mạnh. Như thể chim bằng, họ tung
cánh. Họ chạy hoài mà không mỏi mệt, và đi mãi mà chẳng chùn chân (Is 40, 30-31).
VÂNG
PHỤC
Giờ đây chúng ta nói
đến giá trị thiêng liêng của sự vâng phục. Đây là một vấn đề phức tạp và người
ta hiểu nó một cách rất nông cạn trong thời đại hôm nay. Tôi không trình bày
chi tiết mà chỉ nêu bật một số điểm.
Ý niệm
vâng phục cũng như việc thực hành vâng phục trải qua một tiến trình lâu đời
trong đời sống tu trì và đời sống Hội Thánh. Sự phát triển này nằm trong đường
hướng đối thoại, lòng kính trọng đối với người khác và kính trọng cộng đoàn. Việc
cổ võ cho thái độ vâng phục mù quáng trong quá khứ nay không còn được chấp nhận,
và chắc hẳn, điều đó xảy ra cũng chỉ vì điều thiện ích nhất.
Tuy
nhiên, giờ đây, mối nguy đã đi quá xa theo một hướng khác khi người ta coi vâng
phục dưới mọi hình thức như một cái gì đáng xa lánh, đáng hổ thẹn, một cái gì công
kích quyền con người. Các tiêu chí được sử dụng cho việc tôn kính đặc trưng ngày
nay ở nước Pháp thậm chí đặt các tu viện Nhà Kín và Biển Đức bên bờ vực. Việc
tùng phục bề trên được coi là đáng xấu hổ - một tội trọng phạm đến sự nhận thức
và tự do ý chí của mỗi cá nhân. Chắc chắn, người ta vẫn phục tùng một quyền
bính đang có hiệu lực hay phải chấp hành những luật lệ khi lái xe, nhưng đó
cũng là một thói quen không mấy người thích.
Và dẫu
vậy, điều này vẫn đúng, thời xưa cũng như thời nay, rằng, khi một ai đó đang
thi hành quyền bính cách hợp pháp trong Hội Thánh yêu cầu một điều gì thì trong
một thái độ đúng đắn tự nhiên, yêu cầu đó phải được coi như một biểu lộ đích thực
tiếng gọi của Thiên Chúa, cả khi nó không phù hợp với những gì bạn và tôi nghĩ.
Tôi đã trải qua nhiều kinh nghiệm như thế. Thậm chí nếu bề trên có những giới hạn
và đôi khi sai lầm nữa thì đức vâng phục tin yêu trong Hội Thánh và đời sống tu
trì vẫn là một sự thiện đáng tin và sẽ sinh hoa kết trái. Sự vâng phục này cũng
giải thoát chúng ta, ngăn ngừa chúng ta tự cô lập mình trong những kế hoạch và những
yêu thích riêng. Thái độ vâng phục như thế là một chứng từ cho thấy cuộc sống
không còn đơn thuần là của riêng chúng ta, nó đã được trao vào tay Thiên Chúa.
Nó chứng tỏ một chân lý nền tảng, rằng, tự do đích thực là tự do được tìm thấy
trong Đức Kitô.
Thật
đáng để suy nghĩ về lời khuyên của thánh Phaolô đối với các nô lệ công giáo thời
các tông đồ - họ phải tùng phục những
người chủ của họ - điều ngày nay chúng ta thấy rất khó hiểu; nhưng lời khuyên
này đã từng được gọi là thực tế và có tính tiên tri. Nó thực tế, vì cuộc nổi loạn
của nô lệ dưới thời đế quốc Rôma đã dẫn đến một sắc lệnh bách hại sau cuộc nổi
dậy của Spartacus, để rồi sáu ngàn nô lệ bị đóng đinh dọc con đường Via Appia
giữa Rôma và Capua. Nó là tiên tri, bởi việc đẩy mạnh các cuộc canh tân xã hội,
một điều cấp bách hơn cả - sớm muộn gì cũng sẽ xảy ra - là làm chứng rằng, nhân
phẩm và tự do đích thực của mỗi người không được tìm thấy ở bất cứ một địa vị
xã hội nào nhưng ở trong Đức Kitô. Thánh Phaolô thật táo bạo khi đòi hỏi sự
điên rồ này nơi những người nô lệ công giáo: hãy vâng phục chủ nhân của mình “như vâng phục Đức Kitô”[53]
và bằng cách này ngài làm chứng rằng, dù nô lệ hay tự do, điều quan trọng là sự
sống mới trong Đức Kitô và tự do để yêu thương mà cuộc sống đó mang lại.
Có thể
nói rất nhiều về thái độ vâng phục trong Hội Thánh và những hoàn cảnh khiến nó hoặc
chính đáng hoặc lạm dụng… cũng như việc sử dụng sai quyền bính và những bứt rứt
tâm lý. Đây là những chủ đề quan trọng nhưng không phải là chủ đề chính ở đây.
Tôi chỉ muốn nói rõ rằng, một sự từ chối tiên thiên nào đó đối với quyền bính sẽ
không phải là con đường dẫn đến trưởng thành và tự do. Những yêu cầu người khác
đặt ra, ngay cả những điều bất ngờ hoặc gây phiền hà thường mang theo một lời mời
gọi đến với sự sống và sinh hoa kết quả; đang khi cứ mải bịt tai trước những
đòi hỏi này thì rốt cuộc, chúng ta chỉ kết thúc trong héo hon.
NHỮNG ƯỚC MUỐN CỦA THẦN KHÍ
Những gợi hứng và khát
khao Chúa Thánh Thần dấy lên trong các tâm hồn tạo nên một môi trường trung
gian cực kỳ quan trọng, qua đó, tiếng gọi của Thiên Chúa đến với con người. Vì
đã từng viết đâu đó về đề tài này[54]
nên tôi sẽ không nói nhiều ở đây, nhưng đó là khía cạnh then chốt của đời sống
thiêng liêng. Những thúc giục bắt nguồn từ Chúa Thánh Thần liên quan đến những
vấn đề dù nhỏ nhặt hay trọng đại đều luôn trổ sinh hoa trái mỗi khi được đáp trả.
Thánh Faustina Kowalska[55]
- được thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong hiển thánh vào tháng 4 năm 2000 - đã gọi sự trung thành với những gợi hứng của
Thánh Thần là con đường ngắn nhất để nên thánh.
Lời
Chúa, những biến cố cuộc sống và hoạt động của Thánh Thần không phải là những
kênh nguồn tách biệt nhau, nhưng đây là những phương tiện tương tác Thiên Chúa dùng
để chúng ta có thể thông hiệp với Người khi hoàn cảnh cho phép. Mọi tiếng gọi
nhất thiết liên quan đến cả ba, trong đó, cái này hoặc cái khác được nhấn mạnh
hơn.
Thế
nên, những gì được soi chiếu bởi Thánh Thần sẽ liên kết trực tiếp với những gì đã
được nói đến. Những khao khát nội tâm cùng những hoạt động của Thánh Thần thường
được đánh thức cũng như được nuôi dưỡng bởi Lời Chúa. Thực hành cầu nguyện bằng
Thánh Kinh (Lectio Divina) và trải nghiệm việc được Lời Chúa tác động là một chỉ
thị tuyệt vời cho việc trở nên nhạy cảm trước những tác động của Thiên Chúa. Mặt
khác, thông thường, những động thái nội tâm giúp con người có khả năng nhận ra
tiếng gọi đang có trong một biến cố nào đó. Chúa Thánh Thần thường khiến tâm hồn
chúng ta biết phải làm gì trong một hoàn cảnh cụ thể. Cũng vậy, Thánh Thần thường
sắp đặt bên trong để chúng ta sẵn sàng vâng theo thánh ý Thiên Chúa vốn đang tiềm
tàng ở một đòi hỏi nào đó từ bên ngoài.
Dẫu vậy,
rất thường khi, con người chối từ hay phớt lờ những gì Thánh Thần gợi lên cho họ.
Có nhiều lý do: cầu nguyện hời hợt, không lắng nghe được từ bên trong[56],
sợ thinh lặng, khát khao những ồn ào và lo âu thế tục, động đạc… được coi như
những xao lãng với điều đang xảy đến trong tâm hồn. Những lắng lo và những ràng
buộc quyến luyến cũng khiến người ta không còn khả năng đón nhận những thôi thúc
của ân sủng. Thế nên, họ để cho mình chịu đói chịu khát trước một nguồn mạch trao
ban sự sống và hoa trái nội tâm; không những thế, họ để thiệt mất những lời hứa
của Thánh Kinh:
Đức
Chúa sẽ không ngừng dẫn dắt ngươi; giữa đồng khô cỏ cháy, Người sẽ cho ngươi được
no lòng; xương cốt ngươi, Người sẽ làm cho cứng cáp. Ngươi sẽ như thửa vườn được
tưới đẫm, như mạch suối không cạn nước bao giờ (Is 58, 11).
ƯỚC
MUỐN CỦA CON NGƯỜI
VÀ
Ý MUỐN CỦA THIÊN CHÚA
Thần Khí giáo dục
ước muốn. Người Kitô hữu đôi khi cho rằng, ước muốn của loài người quá trái ngược
với ý muốn của Thiên Chúa đến nỗi hai điều này chỉ có thể mâu thuẫn nhau. Vậy
mà ở một mức độ sâu xa hơn, hai điều này được dự định để đồng quy với nhau.
Không chỉ loài người mong mỏi hạnh phúc, nhưng đây còn là ơn gọi của nó. Tiếng
gọi của Thiên Chúa và ước muốn thẳm sâu nhất của tâm hồn con người cùng nhau sánh
bước. Lời Chúa mời gọi chúng ta cho đi chính mình vì tình yêu phù hợp với ước
muốn của tâm hồn, như lời thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói:
Thiên hướng
cho đi được khắc ghi tận chốn sâu thẳm của lòng người; mỗi người cảm thấy ước
muốn được liên kết với người khác và điều này được thực hiện trọn vẹn khi họ biết
cho đi cách tự do[57].
Đời sống
thiêng liêng hẳn sẽ không tồn tại nếu thay vì đáp lại những khát vọng của mình,
chúng ta chỉ phủ nhận và kìm nén chúng. Thế mà, đường thiêng liêng không phải
là con đường của phủ nhận, kìm nén nhưng là con đường giáo dục những ước muốn: nghĩa
là học cách bỏ dần lại đằng sau những ước muốn nông cạn để những ước muốn sâu
xa nhất nổi bật lên, những ước muốn vốn mang theo tiếng gọi của Thiên Chúa. Còn
các ước muốn khác đến từ những cảm thức tổn thương, áp đặt bởi người khác hay bởi
thế gian đều sẽ bị loại ra. Công việc của Thánh Thần là kết hợp tiếng nói Thiên
Chúa với những ước muốn của con người, hoặc bằng cách khiến chúng ta ước ao điều
Thiên Chúa muốn, hoặc bằng việc thúc giục chúng ta vượt quá những ước muốn hời
hợt. Đây là điều Thiên Chúa đã hứa với ngôn sứ Giêrêmia:
Này sẽ
đến những ngày - sấm ngôn của Đức Chúa - Ta sẽ lập với nhà Israel và nhà Giuđa
một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng ngày Ta
cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai Cập; chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu
Ta là Chúa Tể của chúng - sấm ngôn của Đức Chúa. Nhưng đây là giao ước Ta sẽ lập
với nhà Israel sau những ngày đó - sấm ngôn của Đức Chúa. Ta sẽ ghi vào lòng dạ
chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của
chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta. Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này
nói với người kia: "Hãy học cho biết Đức Chúa", vì hết thảy chúng, từ
người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta - sấm ngôn của Đức Chúa. Ta sẽ tha thứ tội
ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa (Gr 31, 31-34).
Trong Giao
Ước Mới, việc thực hiện ý muốn của Thiên Chúa qua lòng trung thành đối với tiếng
gọi của Người không phải là một điều gì áp đặt từ bên ngoài; nó tự nảy sinh cách
tự do như một biểu lộ ước muốn sâu sa nhất của tâm hồn. Nhưng chúng ta cần phải
thực tế. Giáo dục ước muốn của con người là một công việc lâu dài và khó khăn,
đòi hỏi cố gắng và quên mình… bởi lẽ, vết thương tội lỗi đã làm trệch hướng ước
muốn cũng như đã làm cho ước muốn phải đổ vỡ[58].
KẾT
LUẬN
THIÊN
CHÚA CỦA MỌI VẺ ĐẸP
Giờ đây, tôi muốn
chia sẻ thêm một vài suy tư về việc mời gọi và vẻ đẹp[59].
Trong tiếng Hy Lạp, hai từ này gần gũi với nhau: kalos nghĩa là vẻ đẹp, kalein
nghĩa là kêu gọi[60].
Có những hoà hợp sâu xa giữa những gì chúng ta đang nói về Thiên Chúa, Đấng kêu
gọi và mầu nhiệm của vẻ đẹp. Triết gia Dionysius the Areopagite từng nói: Thiên
Chúa mời gọi (kaloun) mọi sự đến với Người, vì thế Người được gọi là Kalos (vẻ
đẹp)[61].
Vẻ Đẹp mời
gọi - Vẻ Đẹp triệu tập. Nó không bỏ mặc ai; nó gợi lên một ước muốn. “Thiên
Chúa kêu gọi mọi sự đến với Người như những tiếng gọi đáng khao khát gọi mời
hãy để cho mình khát khao”[62].
Đây là một lời mời đi đến việc đáp trả: để ngưỡng mộ và yêu mến hầu đáp lại Vẻ
Đẹp đã kêu gọi chúng ta, một Vẻ Đẹp đã tự biểu lộ chính nó. Con người không tự
mình làm điều này. Chính động thái đó lôi kéo người ta đến với cái gì là đẹp đẽ,
khiến người ta dâng lời tạ ơn. Động thái này không đến từ người đó, nhưng phát xuất
từ Vẻ Đẹp.
Sự
thanh khiết, vô vị lợi và lòng quảng đại hiện diện trong vẻ đẹp đích thực, vì
chúng ở trong Thiên Chúa. Vẻ đẹp của một điều gì đó xinh đẹp thì không phải cho
chính nó nhưng cho những ai chiêm ngắm và hân hoan trong nó. Vẻ đẹp tự phụ của
cái tôi ích kỷ thì đáng khinh.
Chúng
ta không thể đặt bất cứ giới hạn nào trước tiếng gọi yêu thương ngỏ với chúng
ta từ một Đấng mà tự thân Người là Vẻ Đẹp, là Chân Thiện Mỹ. Tiếng gọi này,
cũng là một tiếng gọi của chân lý, của sự thiện[63],
đòi hỏi một thái độ bỏ mình trọn vẹn. Vì quảng đại vô song, nên nó cũng kêu gọi
sự quảng đại vô cùng như thế nơi những ai sẵn sàng mở lòng ra với nó. Mức độ phải
lẽ để yêu mến Thiên Chúa là mến yêu Người không mức độ. Như thế, chính lúc quên
mình là lúc gặp lại bản thân. “Tiếng gọi Vẻ Đẹp gửi đến chúng ta cũng kêu gọi
chúng ta đến với chính mình nữa”[64].
TA
ĐÃ GỌI CON BẰNG CHÍNH TÊN CON
Nguồn gốc sâu xa,
sự tổng hợp sau cùng cũng như việc nhận thức đầy đủ nhất về tất cả những gì chúng
ta đã nói từ đầu đến nay đều được tìm thấy trong mầu nhiệm Đức Kitô. Cuối cùng,
thực sự chỉ có một lời mà Chúa Cha dùng để gọi chúng ta: lời này Người đã nói qua
Người Con. Thánh Gioan Thánh Giá nói rằng, Chúa Cha chỉ có một lời duy nhất để
nói với chúng ta - Người Con[65].
Ngài là quà tặng vĩ đại nhất Thiên Chúa dành cho nhân loại, là tiếng gọi quan
trọng nhất của Thiên Chúa. Vì thế, “Nếu
quả thật sự liên kết với Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình
bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí, nếu
chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau, thì xin anh em hãy làm cho niềm
vui của tôi được trọn vẹn, là hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng
một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau” (Pl 2, 1-2).
Đức
Kitô tổng kết những gì đã được nói trong công trình tạo dựng mọi lời đã được
truyền cho Israel. Trong mầu nhiệm Nhập Thể và Phục Sinh của Ngài, Đức Kitô là
lời cuối cùng dứt khoát và không gì có thể thêm vào được. Ngài nói cho chúng ta
mọi điều về Thiên Chúa và về con người. Ngài là Lời phong phú vô tận.
Khi nói
về các mầu nhiệm của Đức Kitô, thánh Gioan Thánh Giá đã so sánh chúng với những
hang động to lớn hoặc những hầm mỏ chứa đựng kho báu đang đợi khám phá.
Những vị
linh hướng thánh thiện đã tài tình khám phá, những linh hồn xứng đáng đã khôn
khéo nếm thử những điều kỳ diệu trong cuộc sống, nhưng tất cả họ chỉ mới biểu lộ
một phần rất nhỏ bé của những điều kỳ diệu này. Vực sâu thăm thẳm phải dò thấu
chính là Đức Kitô. Đây là nguồn kho báu dồi dào chứa đựng vô số nguồn mạch quý
giá, chúng ta có thể đào bới ở đây mãi mãi mà không bao giờ chạm tới đáy được...
Chúng ta tìm thấy những nguồn mạch mới ở khắp mọi hướng, những nguồn mạch bộc lộ
thêm những kho tàng khác nữa. Đây là điều thánh Phaolô đã nói về Đức Kitô, “Đức Kitô, trong Người cất giấu mọi kho tàng
của sự khôn ngoan và hiểu biết” (Cl 2, 3).
Cuối
cùng, nhiều tiếng gọi của Thiên Chúa bắt nguồn từ một tiếng gọi duy nhất. Đó là
tiếng gọi hãy đón nhận mầu nhiệm Đức Kitô, hãy để chính mình được soi chiếu và
biến đổi bởi Ngài.
Tiếng gọi
đầu tiên chúng ta bàn đến - tiếng gọi để sống được bày tỏ trong tạo dựng - cách
mầu nhiệm đã là một tiếng gọi trong Đức Kitô. Mọi sự được tạo dựng trong Ngài,
bởi Ngài và cho Ngài.
Thánh Tử
là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì
trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô
hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả
đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người. Người có trước muôn loài
muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người (Cl 1, 15-17).
Tiếng gọi
của việc tạo dựng ngỏ với chúng ta là một mời gọi hãy trở nên con người viên
mãn, và điều này chỉ có thể kiện toàn trong Đức Kitô, vì Ngài là con người viên
mãn được nhận biết duy nhất, là Đấng phù hợp hoàn toàn với ý muốn Chúa Cha. Như
Công Đồng Vaticanô II nói, “Ai theo Chúa Kitô, con người hoàn hảo, kẻ ấy trở
nên người hơn”[66].
Tiếng gọi
của Bí Tích Rửa Tội cũng là một tiếng gọi đến với Đức Kitô, nhưng rõ ràng và dứt
khoát hơn. Qua phép rửa, chúng ta nhận được một quà tặng mới, đó là sự sống thần
linh và là một tiếng gọi mới: đó là một quyết định cá nhân để theo Đức Kitô và
được biến đổi trong Ngài.
Tất cả những
lời mời gọi khác nhau trong Hội Thánh như hôn nhân, chức linh mục, đời dâng hiến...
đều được thấm đẫm ân sủng của Bí Tích Rửa Tội, cũng là những tiếng gọi để sống
một khía cạnh của mầu nhiệm Đức Kitô: Đức Kitô hôn thê, Đức Kitô tư tế, “Chúa Kitô đang cầu nguyện trên núi, hoặc đang loan báo
Nước Thiên Chúa cho dân chúng, hoặc chữa lành những kẻ đau yếu tàn tật, hay
hoán cải các tội nhân trở lại đời sống phong phú, hoặc đang chúc phúc cho trẻ
em, ban ơn lành cho mọi người, và trong mọi sự… luôn vâng phục thánh ý Chúa
Cha, Ðấng đã sai Người đến”.
Mọi sự
can thiệp của Thiên Chúa trong cuộc đời mỗi người - qua Thánh Kinh, qua những
biến cố trong cuộc sống, qua hoạt động của Thánh Thần, những phương tiện khác
nhau của ân sủng… được mô tả trong cuốn sách này không nhằm mục đích nào khác ngoài
việc thúc giục chúng ta trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, ý nghĩa cốt
lõi lý do hiện hữu của con người. Con người được gọi để yêu thương, và tình yêu
được học chỉ nơi trường dạy của Đức Kitô. “Giữa
anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu” (Pl
2, 5). “Anh em hãy mang lấy ách của tôi,
và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ
được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,
29-30).
Thuật
ngữ “gọi” có hai nghĩa: để gọi tên hoặc
chỉ định và mời. Những ý nghĩa này kết hợp với nhau trong mầu nhiệm Đức Kitô.
Khi đáp lại lời mời để biến đổi và đi theo Ngài, chúng ta tìm được căn tính
đích thực của mình và tiếp nhận một tên gọi mới, một tên gọi cho biết chúng ta
là ai và sứ mệnh của chúng ta là gì.
“Ai có
tai thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh: Ai thắng, ta sẽ ban cho
manna đã được giấu kỹ; ta cũng sẽ ban cho nó một viên sỏi trắng, trên sỏi đó có
khắc một tên mới; chẳng ai biết được tên ấy, ngoài kẻ lãnh nhận” (Kh 2, 17).
“Tên gọi
mới” này không phủ nhận hay xoá bỏ tên cũ vốn được dùng để nhận dạng một ai đó khi
họ sinh ra; đúng hơn, tên gọi mới phục hồi và làm mới lại tên cũ và giải thoát
nó khỏi tình trạng bám chặt vào cái tôi, bộc lộ ý nghĩa sâu xa nhất của nó, và
cuối cùng, đem nó đến chỗ kiện toàn.
PHỤ LỤC
LỜI
KHUYÊN THIẾT THỰC
CHO
VIỆC THỰC HÀNH CẦU NGUYỆN
BẰNG
THÁNH KINH
(LECTIO
DIVINA)
“Thánh
Kinh không đóng kín đến mức khiến chúng ta nản lòng, cũng không dễ tiếp cận để
đưa đến nhàm chán. Càng thường xuyên đến với Thánh Kinh, chúng ta càng cảm thấy
nó nhẹ nhàng; càng suy niệm bao nhiêu, chúng ta càng yêu mến Thánh Kinh bấy
nhiêu”[67].
Tôi muốn đưa ra một
số lời khuyên cho việc thực hành cầu nguyện bằng Thánh Kinh - lectio divina. Ngay
từ đầu, như chúng ta đã thấy, cần thiết biết bao khi tâm hồn biết bám chặt Lời
Chúa. Điều này xảy ra trước hết và trên hết trong các buổi cử hành phụng vụ khi
Lời Chúa được công bố và giải thích. Nhưng vẫn thật cần thiết để mỗi người
chúng ta dành riêng một khoảng thời gian để lắng nghe và để “được kêu gọi, biết
định hướng và rập theo” bởi Lời Chúa theo cách diễn tả của thánh Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II.
Những gợi
ý sau đây cần thực hành cách nhẹ nhàng và uyển chuyển. Mỗi người cần khám phá cho
mình phương pháp tốt nhất trong việc tích hợp bản văn Thánh Kinh vào cuộc sống.
Trong phạm
vi cho phép, cần có một khoảng thời gian cụ thể nào đó cho việc đọc Lời Chúa
trong tâm tình cầu nguyện, bằng cách này, chúng ta tiếp tục truyền thống phong
phú phương pháp cầu nguyện lectio divina của các đan viện. Đây không phải là việc
đọc Thánh Kinh liên tục, có thể mỗi ngày một chương với mục tiêu là đọc được
càng nhiều càng tốt; cũng không phải là việc dành ra bao nhiêu thời gian để
nghiên cứu và bình luận Thánh Kinh. Những người say mê tìm hiểu sẽ thấy việc
nghiên cứu Thánh Kinh rất có lợi cho họ nếu biết dùng nhiều công cụ: các khoá học,
nghiên cứu các ngôn ngữ Thánh Kinh, các cuốn từ điển, các bản văn song song, chú
giải và những kỹ thuật khác nhau để giải thích bản văn (lịch sử, khảo cổ, ký hiệu
hoặc biểu tượng…).
Những
nghiên cứu này có thể là những hỗ trợ cho phương pháp lectio divina, tuy nhiên “lectio”
tự nó đã là một điều gì đó khác biệt. Đó là việc đọc Thánh Kinh bằng suy niệm với
sự hồn nhiên, cầu nguyện và tin yêu, với mục đích lắng nghe điều Thiên Chúa muốn
nói với họ ngày hôm nay, nhờ đó được soi sáng và biến đổi.
Điều cốt
lõi của công việc này không ở chỗ người ta biết được bao nhiêu, hiểu được bao
nhiêu… nhưng là thái độ của tâm hồn họ trước Lời Chúa - một thái độ khao khát
Thiên Chúa, tin tưởng rằng Người muốn nói với họ, và một lòng khao khát mãnh liệt
được hoán cải.
Đây là
bí quyết lớn lao của lectio. Việc đọc
Thánh Kinh sẽ trở nên hiệu quả gấp bội với những ai có lòng ước ao được hoán cải
mạnh mẽ. Nhiều người bé mọn, ít học đã nhận được ánh sáng và nguồn khích lệ mạnh
mẽ từ Thánh Kinh vì họ tin vào việc gặp gỡ Lời Ban Sự Sống của Thiên Chúa. Thánh
nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu là một ví dụ điển hình.
Nhiều lời
khuyên áp dụng cho việc cầu nguyện cũng có thể áp dụng cho phương pháp lectio divina như: tầm quan trọng của sự
kiên trì, chấp nhận những thời kỳ khô khan, vai trò căn bản của đức tin, đức cậy...
Quả vậy, lectio divina là phương pháp
cổ xưa nhất, phổ quát nhất và được thực hành nhiều nhất trong mọi “phương pháp
cầu nguyện”[68].
Được thực hành theo cách thức được mô tả sau đây, lectio divina sẽ là lối đi tốt nhất dẫn vào một đời sống cầu nguyện.
Và đây là những lời khuyên:
THỜI
GIAN NÀO LÀ TỐT NHẤT?
Nếu có thể được, sẽ
tốt biết bao nếu bạn dành thời giờ mỗi ngày để suy niệm Lời Chúa. Thật bận rộn,
nhưng chúng ta vẫn tìm được thời giờ để nuôi dưỡng thể xác, sao không dành được
thời giờ để nuôi dưỡng linh hồn? Lý tưởng, buổi sáng là tốt nhất, vì lúc đó
tinh thần chúng ta tươi tắn nhất, sẵn sàng nhất, chưa bị áp đặt bởi những lo lắng
chất chồng của ngày sống. Thánh Vịnh 90 nói, “Từ buổi mai, xin cho đoàn con được no say tình Chúa, để ngày ngày được
hớn hở vui ca” (Tv 90, 14); và ngôn sứ Isaia nói, “Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe”
(Is 50, 40).
Thực hành
lectio divina vào buổi sáng chứng tỏ
điều quan trọng nhất trong cuộc sống của một con người là lắng nghe Thiên Chúa.
Lectio đặt con người trong một thái độ lắng nghe xuyên suốt cả ngày. Thế nhưng,
có nhiều người dĩ nhiên không thể dành thời gian vào buổi sáng sẽ phải tìm thời
điểm khác trong ngày cho mình; và nếu họ khát khao Thiên Chúa, Người cũng nói với
họ theo một cách thức như vậy.
Suy niệm
trong bao lâu? Ít nhất mười lăm phút. Tốt hơn là nửa giờ hoặc 45 phút.
SUY
NIỆM BẢN VĂN NÀO?
Để suy niệm, có rất
nhiều bản văn. Người ta có thể suy niệm trong nhiều ngày với một bài đọc đặc biệt:
một bản văn Tin Mừng, một đoạn thư thánh Phaolô hay một đoạn trích nào đó. Tôi
biết một người đàn ông đã có gia đình, một người cha, anh dành thời gian để cầu
nguyện với Lời Chúa mỗi ngày. Anh đã sống với Tin Mừng của thánh Gioan được hai
hoặc ba năm.
Dẫu vậy,
lời khuyên của tôi dành cho những người mới bắt đầu là sử dụng những bản văn được
Hội Thánh chọn lựa để đọc trong thánh lễ mỗi ngày. Ưu điểm của việc làm này là
giúp chúng ta hiệp thông với Hội Thánh toàn cầu và lịch phụng vụ của Hội Thánh,
cũng như chuẩn bị tâm hồn để chúng ta cử hành Bí Tích Thánh Thể nếu chúng ta tham
dự thánh lễ hôm đó. Hơn nữa, theo cách này, ba bài đọc được chọn lựa kỹ lưỡng
luôn có sẵn để chúng ta dùng (Bài Đọc 1, Thánh Vịnh và Tin Mừng), điều này giúp
chúng ta giảm bớt khả năng phải vật lộn với một cái gì đó quá khô khan hay khó
khăn. Thực hành lectio bằng cách đắm
chìm cùng lúc vào một vài bản văn cho phép chúng ta thấy được tính thống nhất
sâu xa của Lời Chúa. Thật là một niềm vui lớn lao khi nhận ra các trích đoạn
Thánh Kinh rất khác nhau về văn phong, thời đại, hoặc cấu trúc nhưng lại bổ túc
cho nhau đến thế nào.
Khi giải
thích Thánh Kinh, các nhà hiền triết truyền thống Rabbi thích phong phú hoá các
trích đoạn nổi bật bằng “những xâu chuỗi hạt”. Những hạt ngọc là những câu lấy
từ những phần khác nhau trong Thánh Kinh: Ngũ Kinh, các sách Ngôn Sứ, Thánh Vịnh
cùng những bản văn của các sách Khôn Ngoan. Đức Giêsu cũng làm như thế với hai
môn đệ trên đường Emmaus sau biến cố Phục Sinh (Lc 24, 27 và 22, 44). Truyền thống
kết hợp các đoạn trích khác biệt vốn soi sáng nhau này đã được lưu truyền bởi
các Giáo Phụ của Hội Thánh cũng như được áp dụng mãi cho đến ngày nay bởi các
tác giả tu đức.
CÁCH
THỨC THỰC HÀNH CỤ THỂ LECTIO DIVINA
Như đã nhấn mạnh,
lợi ích rút ra từ lectio divina liên quan nhiều đến tâm tình bên trong hơn là kỹ
thuật. Không nên lao ngay vào việc đọc, nhưng cần dành thời gian để chuẩn bị sẵn
sàng bằng việc chấp nhận và thực hiện một tâm tình cầu nguyện trong đức tin và một
niềm khao khát Thiên Chúa. Ở đây, chúng ta có một vài bước thực hiện:
1. Như
bất cứ giờ cầu nguyện nào, tốt nhất mỗi người nên rút lui và tự đặt mình trong
sự hiện diện của Thiên Chúa. Bỏ qua một bên những lắng lo cũng như những gì khiến
chúng ta xao lãng. Như Maria làng Bêtania biết, điều cần thiết là đặt mình dưới
chân Chúa Giêsu và lắng nghe lời Ngài[69].
Như thế có nghĩa là đặt mình trong giây phút hiện tại, một cái gì vốn đôi khi hết
sức khó khăn. Việc quay về thân xác và cảm giác của nó đôi khi có thể giúp ích.
Thân xác có những thiếu sót của nó, nhưng nó có ưu điểm hơn tư tưởng ở chỗ là
luôn luôn ở trong hiện tại đang khi ý tưởng thường lững lờ qua lại giữa quá khứ
và tương lai. Thế mà, con người chỉ có thể gặp gỡ Thiên Chúa trong hiện tại và
thể xác cũng như cảm giác của nó giúp đặt người ta ở đó. Vì vậy, thường thì phải
chuẩn bị về thể xác trước khi đọc: mắt nhắm lại, thư giãn (buông lỏng hai vai
và các cơ), thở chậm và sâu, chú ý đến sự tiếp xúc của cơ thể với môi trường
xung quanh - đất dưới chân, chỗ đang ngồi, cái bàn mà hai tay đang tựa lên, bàn
tay đang cầm cuốn Thánh Kinh hoặc cuốn sách khác sẽ đọc. Sự tiếp xúc đầu tiên với
Lời hẳn là sự tiếp xúc của thân xác. Đụng chạm đã là một hình thức của lắng
nghe. Chẳng phải thánh Gioan đã nói, “Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều
chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng,
và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống” (1Ga 1, 1) đó sao?
2. Một
khi đã đủ thư thái với thân xác và đặt mình trong giây phút hiện tại, chúng ta
nâng tâm hồn lên cùng Chúa, cám ơn Người về giờ phút này, giờ phút mà Người sẽ
kết hợp với chúng ta bằng Lời của Người, cầu xin Người mở lòng để chúng ta có
thể hiểu được Lời Người như Đức Giêsu đã mở lòng cho các môn đệ (Lc 24, 44). Đặc
biệt, hãy cầu xin Người biến đổi tâm hồn, lên án những thoả hiệp sai trái, chiếu
sáng và biến đổi con người chúng ta để biết đáp trả trước kế hoạch thiêng liêng
của Người trên cuộc đời mình.
3. Hãy
dành nhiều thời gian chừng nào cần thiết để chuẩn bị thật kỹ lưỡng, vì điều này
rất quan trọng. Sau đó, mở mắt và bắt đầu đọc. Đọc chậm rãi, đặt cả lý trí và
tâm hồn vào điều đang đọc và suy niệm điều đó.
“Suy niệm”,
theo truyền thống Thánh Kinh, không phải là suy tư đào sâu thật nhiều như việc lặp
đi lặp lại hay nhai đi nhai lại một ý tưởng. Thoạt đầu, suy niệm là hành vi thể
lý hơn là trí óc. Vì thế, đừng ngần ngại đọc đi đọc lại một đoạn trích nhiều lần,
vì thường đây là cách để điều Thiên Chúa muốn nói với tôi hôm nay được hiện lên
rõ nét. Rõ ràng, óc suy tư cũng đóng một vai trò quan trọng. Nó có thể chất vấn
bản văn: bản văn này nói gì về Thiên Chúa? Về bản thân tôi? Nó chứa đựng tin mừng
gì? Lời mời gọi điều gì? Nếu có một câu nào đó vốn tối tăm, thì việc sử dụng những
ghi chú hoặc chú giải có thể hữu ích - nhưng hãy coi chừng, đừng biến Lectio
thành việc nghiên cứu thuần lý trí.
Hãy thư
thái dành thời gian nghiền ngẫm một câu có ý nghĩa đặc biệt đối với bạn. Hãy làm
một cuộc đối thoại với Thiên Chúa về nó. Cách đọc này có ý nghĩa như việc cầu
nguyện. Dâng lời tạ ơn đối với một đoạn trích có tính khích lệ như thế, hãy cầu
xin sự trợ giúp của Thiên Chúa trước một đoạn trích mang tính mời gọi một cuộc
hoán cải đòi hỏi nhiều cố gắng... Tại những thời điểm nhất định nào đó, nếu được
ơn Chúa, hãy ngưng đọc và tạm dừng ở đó trong một thái độ cầu nguyện và chiêm
ngắm nhiều hơn; đó có thể chỉ đơn giản là thán phục vẻ đẹp Thiên Chúa đã cho
chúng ta thấy được trong văn bản: sự ngọt ngào, vẻ uy nghi, lòng thành tín, vẻ huy
hoàng của Người… nơi những gì Người đã thực hiện trong Đức Kitô, và mời gọi mỗi
người một cách đơn sơ chiêm ngắm và dâng lời cảm tạ. Mục đích chủ yếu của
Lectio không ở chỗ đọc được thật nhiều, nhưng ở chỗ đưa chúng ta đến thái độ sửng
sờ thán phục này, một thái độ nuôi dưỡng đức tin, đức cậy và đức mến cách sâu sắc.
Không phải lúc nào cũng được như thế, nhưng mỗi khi được vậy, hãy ngừng đọc và sẵn
lòng với sự hiện diện đơn sơ, đầy yêu thương của mầu nhiệm vừa được bản văn mặc
khải.
Những
gì vừa được nói đến về phương pháp cầu nguyện bằng Thánh Kinh bao gồm 4 giai đoạn
- lectio divina theo truyền thống
Trung Cổ: lectio (đọc), meditatio (suy niệm), oratio (cầu nguyện), và contemplatio (chiêm niệm). Những giai đoạn
này không nhất thiết phải diễn ra theo trình tự, nhưng đây là những hình thức đặc
biệt theo kinh nghiệm. Ba giai đoạn đầu phụ thuộc vào hoạt động của con người,
giai đoạn thứ tư là một quà tặng của ân sủng. Chúng ta phải ao ước và đón nhận quà
tặng đó, dẫu không phải lúc nào cũng được ban. Hơn nữa, như đã nói, sẽ có những
lúc khô khan, nguội lạnh… như bất cứ hình thức cầu nguyện nào. Vì thế, đừng bao
giờ nản chí. Điều được tìm kiếm, cuối cùng, sẽ được tìm thấy.
Trong
khi suy niệm, sẽ rất hữu ích nếu chúng ta viết ra những lưu ý về những lời chạm
đến chúng ta cách đặc biệt. Hãy dùng một sổ ghi chép cho mục đích này. Việc ghi
chép giúp cho Lời thấm nhuần sâu hơn vào lòng trí chúng ta.
Một
khi, thời gian dành cho lectio kết
thúc, hãy cám ơn Chúa về những giây phút được ở bên Người, và cầu xin Người ban
ơn để giữ lấy Lời trong tâm hồn bạn như Đức Trinh Nữ Maria đã làm, đồng thời đem
thực hành những soi sáng nhận được từ việc suy niệm.
Tôi muốn kết luận
với một đoạn trích tuyệt vời của Matta el-Maskin, một đan sĩ chiêm niệm người Ai
Cập đương thời, người đã cổ vũ một cuộc canh tân thiêng liêng vĩ đại trong đời
sống đan viện Ai Cập.
Suy niệm
không đơn thuần là việc đọc thành tiếng trong sâu thẳm, nó còn mang ý nghĩa lặp
đi lặp lại trong yên ắng Lời nhiều lần cùng đào sâu bất tận cho đến khi tâm hồn
được ôm chầm bởi ngọn lửa thần thiêng. Điều đó được minh hoạ bởi những gì Đavít
đã nói trong Thánh Vịnh 39, “Nghe trong mình nung nấu tự tâm can, càng nghĩ ngợi,
lửa càng bừng cháy”. Ở đây, sợi chỉ hồng bí mật xuất hiện… liên kết thực hành, nỗ
lực với ân sủng và ngọn lửa yêu mến Thiên Chúa. Chỉ việc suy niệm trên Lời Chúa
một vài lần, cách chậm rãi lặng lẽ… cũng sẽ làm thành - qua lòng nhân từ của
Thiên Chúa và ân sủng của Người- cái ôm hôn của tâm hồn! Thế nên, suy niệm đứng
hàng đầu, là mối liên kết thông thường giữa những nỗ lực chân thành khi cầu
nguyện với những quà tặng của Thiên Chúa và ân sủng không thể xoá nhòa của Người.
Vì lý do này, suy niệm được coi là số một và quan trọng nhất trong các cấp độ cầu
nguyện của tâm hồn; từ đó, con người có thể nâng chính mình lên tận lòng sốt mến
của Thần Khí và sống ở đó chừng nào sự sống còn kéo dài[70].
Kính nhớ
và cám ơn Hương Hồn Matta, Mẹ yêu, đã luôn cầu nguyện và thúc bách con; nhờ đó,
con kịp phát hành tập sách này trong dịp Tĩnh Tâm Linh Mục Giáo Phận nhà, cũng
là dịp Kỷ Niệm Ngày Giỗ lần thứ 8 của Mẹ (25/02/2007 - 25/02/2015) khi mà cách
đây 8 năm, “Sống Theo Đúng Mục Đích” ra mắt, đúng ngày Chúa gọi Mẹ về.
Lm. Minh
Anh, người dịch.
[1] Jean-Claude Sagne, Les sacrements et la vie spirituelle (Paris : Mesdiaspaul,
2007), 57.
[2] Catechesis of February 9, 1983.
[3] St 12, 1-15; Xh 3, 1-20; 1Sam 3, 1-20; Is 6, 1-13; Gr 1, 1-10.
[4] Khía cạnh Ba Ngôi ứng với ba trục căn bản của việc suy niệm: sự
Quan Phòng của Chúa Cha (qua các biến cố), Lời của Chúa Con và sự gợi hứng của
Chúa Thánh Thần.
[5] St. Thérèse of Lisieux, Poem number 5.
[6] Sagne, Les sacrements et la
vie spirituelle, 52. Trong tác phẩm này, rất nhiều đoạn văn hay nói đến ý
niệm của lời mời gọi.
[7] Sr. Genevière, Conseils et
souvenirs (Cerf), coll. Foi vivante, 131.
[8] Chủ đề sa ngã và cứu chuộc được khai triển rất nhiều trong tư
tưởng Kitô giáo, nhưng xem ra chủ đề “tạo dựng” chưa đủ.
[9] Mời đọc chương Chấp Nhận Chính Mình trong cuốn Tự Do Nội Tâm của tác giả (Lm. Minh Anh
đã dịch và xuất bản).
[10] Catherine of Siena ,
Prayers. Lời nguyện này được làm tại Avignon để cầu xin tái
lập bình an cho Hội Thánh.
[11] Etty Hillesum, Une vie
bouleversée (Séuil), 166
[12] St. Thérèse of Lisieux, Complete
Works, Manuscript A, 9 and 10 (Cerf), 84.
[13] Trích dẫn trong Paul Lebeau, Etty
Hillesum, un itinéraire spiritual (Albin Michel), 179.
[14] Henri Nouwen, Adam, God’s
Beloved (Orbit, 1997).
[15] St. Thérèse of Lisieux, Complete Works, Manuscript C, 36 verso, p.
285.
[16] Dei Verbum, Công Đồng
Vaticanô II, Hiến Chế Tín Lý Về Mặc Khải Của Thiên Chúa số 21 (UBGLĐT,
HĐGMVN 2012).
[17] Trích bởi Enzo Bianchi, Prier
la Parole, p.30.
[18] Tông Thư Ngàn Năm Mới
của thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gửi các Giám mục, Linh mục, Tu sĩ nam
nữ và giáo dân nhân kết thúc Năm Thánh 2000, số 39.
[19] Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều nói đến: Mt 13, 1-9; Mc 4, 1-9; Lc 8,
4-15.
[21] Tông Thư Đời Sống Thánh Hiến số 34.
[23] Hãy đọc phần mô tả thánh Antôn mà người viết tiểu sử của ngài,
thánh Athanasio Alexandria, đã ghi vào lúc ngài lần đầu tiên gặp lại các giáo
hữu sau những năm ẩn tu: “Diện mạo bên ngoài của ngài xem ra chẳng đổi thay,
ngài không mập ra bởi thiếu tập thể dục cũng không gầy đi bởi chay tịnh và
chiến đấu với quỷ… ngài vẫn vậy như chúng ta biết ngài trước khi ngài vào ẩn
tu. Thuần khiết một cách thiêng liêng, ngài không đánh tội cũng không hao mòn
bởi vui thú; nơi ngài, không hồ hỡi cũng không buồn bả; đám đông không làm
phiền ngài nhưng nhiều người chào hỏi ngài cũng không vì thế mà ngài vui cười
phỡ lỡ: con người ngài luôn luôn là vậy, được điều khiển bởi lý trí, rất tự
nhiên… Linh hồn ngài ở trong bình an, khả năng phán đoán bên ngoài của ngài
cũng kiên định; ấy thế, niềm vui trong tâm hồn làm cho ngài có một khuôn mặt
rạng rỡ; những cử động của thân xác để lộ
tình cảm của ngài khiến người ta thấy được tình trạng linh hồn của ngài,
một linh hồn sống theo lời Thánh Kinh: một
con tim đầy niềm vui tạo nên một khuôn mặt thanh thản… Đây là những gì
chúng ta thấy được nơi thánh Antôn: ngài không bao giờ bất an, linh hồn ngài
bình lặng; không bao giờ ngài ủ rũ, tinh thần ngài đắm chìm trong niềm
vui”.
[24] Theo một nghĩa nào đó, chúng ta đã là con của Thiên Chúa với tư
cách thọ tạo. Bí tích Rửa Tội thêm một chiều kích hoàn toàn mới mẻ vào tương
quan cha con. Về điểm này, hãy xem thêm những suy tư của Xavier Lacroix trong Passeurs de vie, essai sur la paternité
(Bayard, 2004), 282ff.
[25] Tôi không phủ nhận hay phỉ báng những khám phá của khoa học hiện
đại. Những gì hôm nay chúng ta biết về vũ trụ, về tiến hoá và về di truyền thật
là hấp dẫn và đối với những kẻ tin, đó là một chứng từ kỳ diệu cho sự khôn
ngoan và quyền năng của Thiên Chúa. Nhưng trong cái nhìn của người vô thần,
được giải thích và thông tục hoá một cách duy vật, những chân lý khoa học này
có thể có một tác động tiêu cực trên hình ảnh mà con người có về chính mình
cũng như sự hiểu biết của họ về cuộc sống.
[26] Đôi lần tôi tự hỏi, liệu cái điên cuồng tình dục trong thế giới
hôm nay đôi khi không phải là cái cần thiết như là lý do để con người tìm gặp
nguồn cội của mình?
[27] St. Thérèse of Lisieux, Complete
Works, Manuscrift A, p. 83, reverse.
[28] Chuyện kể trong một bài học dễ thương về Lectio Divina bởi Soeur Marie Pascale, dòng Xitô. Có sẵn trên
Internet: http://users.skynet.be/scourmont/Armand/wri/lectio-fra.htm.
[29] L’abandon à la providence
divine, trước đây được cho là của Jean-Pierre de Caussade (DDB, 2005), 137.
[30] Điều này đúng cho tất cả mọi người chứ không riêng cho các Kitô
hữu. Cuộc đời là một trường học cho tất cả hết thảy; một trường đòi hỏi khá gắt
gao nhưng cũng là một trường học đầy khôn ngoan. Một số người để cho mình được
dạy dỗ với niềm tin và sự dễ bảo; họ đã sớm có những tiến bộ. Một số khác thì
chống đối. Ở đây là mầu nhiệm của ý chí tự do của con người.
[31] Một định nghĩa tốt cho tự do là: khả năng để sống mỗi hoàn cảnh
cách tích cực, không đóng kín hay dồn nén nhưng tìm ra lý do để tin và sống một
cuộc sống đúng đắn hơn. Đây là tự do vinh quang của con cái Thiên Chúa mà Chúa
Kitô dành lại cho chúng ta qua sự chết và phục sinh của Ngài.
[32] Sister Geniviève of the Holy Face, Advice and Memoirs (Cerf).
[33] “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14, 6).
[34] Cần thiết biết bao để nhớ lại một nguyên tắc căn bản: Không phải
hiểu biết, nhưng chính đức tin mới cứu thoát. Điều cứu thoát chúng ta (giúp
tiến tới và lớn lên cách tích cực, sinh hoa trái) không phải là khả năng có thể
giải thích mọi chuyện, nắm bắt cái phức tạp của mọi hoàn cảnh hoặc chu toàn hết
mọi trách nhiệm; nhưng điều chúng ta tìm kiếm là một thái độ đúng đắn, một thái
độ qua đó, Thiên Chúa đang mời gọi. Tin là đón nhận mọi hoàn cảnh với niềm tín
thác và ngoan ngoãn vâng theo ý muốn của Chúa Thánh Thần.
[35] Trích trong B. Pitaud & G.. Chaillot, Jean-Jacques Olier, Spiritual Doctor (Cerf), 243.
[36] Thérèse of Lisieux, Complete
Works, Manuscript A 45r (Cerf), 142.
[37] 1Cor 13, 2.
[38] Thérèse of Lisieux, Complete
Works (Cerf), 143.
[39] Lc 11, 9.
[40] Ep 6, 18.
[41] Conrad De Meester, O.C.D., Brother Lawrence of the Resurrection. Writings and Interviews on the Practice and
Presence of God (Cerf, 1991).
[42] Mc 4, 35-40.
[43] Thérèse of Lisieux, Last
Interview, 30 September.
[44] Etty Hellisum, An Overturned
Life (Seuil, 1985).
[45] Thérèse of Lisieux, Poetry 5, Complete
Works, (Cerf/DDB), 645.
[46] Trích từ bản dịch của Kieran Kavanaugh, OCD, and Otilio Rodriguez,
OCD, trong The Collected Works of St.
John of the Cross, revised edition (1991).
[47] Trong cuốn sách của tôi, Interior
Freedom (Scepter Publisher, Inc., 2007) (Tự Do Nội Tâm, Lm. Minh Anh đã dịch và phát hành).
[48] Gioan Thánh Giá, The Ascent
of Mt. Carmel, book 3, chapter 22.
[49] Auschwitz, trại huỷ diệt Auschwitz
- trại tập trung người Do Thái của Đức Quốc Xã thời Thế Chiến II (Người dịch
chú thích).
[50] Julian of Norwich ,
A Book of Showings (Cerf, 1992), 150.
[51] Cùng lúc đó, thánh nữ ghi thêm một chi tiết để một lần nữa cam
đoan về điều đó: “Phải mất một thời gian lâu, tôi mới có thể đạt đến cấp độ từ
bỏ này”. Last Interviews, July 7.
[52] Về vấn đề ràng buộc vợ chồng, xem thêm cuốn sách rất nổi tiếng của
Xavier Lacroix, Of Flesh and the Word,
Founding a Family (Bayard, 2007), đặc biệt chương 3: Why Grow Old Together?
[53] x Ep 6, 5-9.
[54] In the School of the Holy
Spirit (Scepter Publishers, Inc., 2007). (Đón đọc Trường Học của Thánh Thần, bản dịch của Lm. Minh Anh).
[55] Nữ tu người Ba Lan (1905-1938), được phong hiển thánh vào Chúa
Nhật II sau lễ Phục Sinh năm 2000. Từ Chúa Giêsu, chị đã nhận được bao mặc khải
nói về lòng thương xót của Thiên Chúa, kể cả việc mời gọi dành Chúa Nhật này
mỗi năm để kính lòng thương xót Người.
[56] “Để có thể lắng nghe, trước hết và trên hết, phải có sự im ắng từ
bên trong cũng như bên ngoài; nhờ đó, chúng ta có thể chú tâm đến những gì đang
ngỏ với mình”. Jean Louis Chrétien, Call
And Response (Editions de Minuit, 1992), 32.
[57] Sứ điệp Mùa Chay 2003.
[58] Những lưu ý này thật quan trọng cho việc biện phân. Xem thêm,
chẳng hạn, Andre Luof, Grace Can Do More,
Chương 9 (DDB). Nói đến những biện phân về ơn gọi. Sẽ an toàn hơn khi nói rằng,
một lời mời gọi không thể được đón nhận hoàn toàn một cách tự do nếu nó không
vang vọng ước muốn sâu xa của con tim, đó không phải là một lời mời gọi đến từ
Thiên Chúa.
[59] Những suy tư này được gợi hứng từ một tác phẩm triết học của
Jean-Louis Chrétien, Call and Response
(Editions de Minuit, 1992).
[60] Cách riêng ngày nay, chúng ta cần khám phá (như các thánh và các
nhà thần nghiệm đã làm trong quá khứ) Thiên Chúa như một vẻ đẹp. Canh tân nghệ
thuật Kitô giáo là một điều hết sức thiết yếu.
[61] Denis, De divinis nominibus,
IV, 7. Cited by Jean-Louis Chrétien, op.cit.
[62] Ulrich de Strasbourg, một thần học gia của thế kỷ thứ ba. Cited in
op. cit., 27.
[63] Thiên Chúa cùng lúc là Chân Thiện Mỹ. Ở đây, chúng ta tập trung
vào Vẻ Đẹp (Mỹ), vì có lẽ, cách đặc biệt, chúng quá đẹp để rồi sự chân thực
(Chân) và thiện hảo (Thiện) kéo chúng ta vào trong đó.
[64] Chrétien, op. cit., 23.
[65] “Trong khi tặng trao chúng ta Người Con duy nhất của mình - Chúa
Con, Lời duy nhất, và không còn gì khác - Thiên Chúa đã nói với chúng ta xưa
kia qua chính Ngôi Lời này”. Ascent of
Mount Carmel, cuốn 2, chương 22.
[66] Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng số 41, 1.
[67] Thánh Grêgôriô Cả, Moralia
in Job, XX, 1,1. Thánh
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trích dẫn lời này trong một
bài phát biểu ngày 20 tháng 10 năm 1997, ngay sau ngày ngài tuyên bố thánh nữ
Têrêxa Hài Đồng Giêsu là Tiến Sĩ Hội Thánh.
[68] Tôi sử dụng thuật ngữ “cầu nguyện” ở đây theo nghĩa nó được lấy ở
truyền thống Tây Phương từ thế kỷ 16: cầu nguyện thinh lặng riêng tư, thực hành
cầu nguyện đều đặn các giờ đã định… với mục đích giúp chúng ta đi vào thông
hiệp với Thiên Chúa và hiệp nhất với Người. Đón đọc Time for God của tôi, (Scepter Publishers, Inc., 2008); bản dịch
tiếng Việt, “Thời Giờ Dành Cho Chúa” sẽ được Lm. Minh Anh phát hành trong nay
mai.
[69] Lc 10, 38-42
[70] Matta El Maskin, The
Experience of God in the Life of Prayer (Cerf), 48.
0 nhận xét :
Đăng nhận xét