LINH MỤC, NGƯỜI
LÀ AI?
1
- Cha đã gọi điện thoại cho đức giám
mục chưa? Ngài nói vô máy trả lời điện thoại.
Cha xứ tái mặt khi cha phó Lành hỏi.
- Cha nghe rõ tiếng đức giám mục hay
lại cha nào giỡn nói thế?
- Tiếng ngài rõ ràng; cha nghe thử
máy trả lời điện thoại xem sao!
Cha xứ đi theo cha phó ra phòng
khách; cha Lành ấn nút, sau vài tiếng bíp bíp, giọng đức giám mục trầm trầm rõ
ràng vang lên: "Tôi là giám mục địa phận, muốn nói chuyện với cha
xứ."
Vài tiếng nói đơn giản được ghi
trong máy đã làm thái độ cha xứ khác thường, hơi luống cuống hơn mọi khi; tay
ngài đã hơi run giờ run trông thấy. Ra nhà bếp đun nước để pha trà, cha xứ vẫn
cứ thắc mắc không biết đức giám mục gọi về chuyện gì!
- Đức giám mục gọi lúc nào?
- Có lẽ sau 4 giờ chiều vì tôi để
máy lúc 4 giờ 5 phút trước khi đi thăm mấy gia đình có con không đi học giáo
lý. Có thể đức giám mục gọi thông báo đổi cha đi xứ khác không?
- Tôi không nghĩ thế!
Cha Lành hiểu cha xứ quen những cha
trong hội đồng địa phận nên ngài thường biết rất sớm những sự thay đổi nhiệm sở
của các linh mục. Nếu ngài bị đổi chắc chắn sẽ đã biết trước khi đức giám mục
gọi, nhưng biết đâu!
Chiếc đồng hồ nhà bếp chỉ gần 5g30
chiều mặc dầu trời còn sáng vào đầu tháng tư. Cha xứ dẫu nghĩ rằng đức giám mục
không còn làm việc tại tòa nhưng vì nôn nóng vẫn lập cập bốc điện thoại ngay
bên gọi thử miệng lẩm bẩm:
- Tôi không nghĩ ngài còn làm
việc...
- Hôm nay thứ năm, ngày nghỉ của
cha, đức giám mục gọi không gặp là chuyện dĩ nhiên...
Vài hồi chuông điện thoại reo bên
kia đầu giây nhưng không ai nhắc, cha xứ đành cúp máy, pha ly trà nóng...
Đức giám mục gọi cho linh mục cả là
một sự bất thường, phải là chuyện tối ư quan trọng. Những chuyện thường thì đã
có cha chính địa phận hoặc cha quản hạt thông báo trong trường hợp thư từ không
kịp. Hơn nữa, lề lối làm việc cần phải có giấy tờ hoặc thư từ chứng minh để
tiện việc sổ sách sau này và, dĩ nhiên, ai cũng hay quên do đó càng cần giấy tờ
hay thư từ thông báo vì gọi điện thoại trong hệ thống hành chánh không được coi
là chính thức ngoài sự cần kíp, tối quan trọng. Gần ba năm chịu chức, chưa bao
giờ cha Lành thấy đức giám mục gọi cho mình hay cha xứ. Năm đầu tiên, cha hay
ghé qua thăm hỏi đức giám mục; nhưng sau thấy ngài khá bận, thỉnh thoảng cha
Lành mới gọi điện thoại tới tòa giám mục bởi mấy lần ghé qua bất thường ngài
bận chuyện khác không làm việc tại văn phòng. Cha Lành muốn ghé thăm đức giám
mục thường xuyên vì theo kinh nghiệm lãnh đạo cho biết, một người càng ở chức
vụ cao bao nhiêu càng cảm thấy cô đơn bấy nhiêu vì có những vấn đề khó có thể
chia xẻ được với bất cứ ai và cũng khó cho bất cứ ai có thể thông cảm được.
Trong vấn đề điều hành, người lãnh đạo có cái nhìn bao quát hơn những người
dưới tay phụ giúp. Xét theo cách điều hành công việc và sự tính toán, vị thế
người lãnh đạo trong một môi trường có thể so sánh với người đầu bếp khi nấu
một món ăn biết rõ mình không thể nào chiều lòng hết mọi người vì có người
thích ăn mặn hơn bình thường một chút, người khác ít tiêu hơn, hoặc không thích
mùi hành; người muốn thêm dầu, mỡ, kẻ lại không ăn được chất béo. Dù chỉ một
món ăn đơn giản cũng đã không thể nào làm vừa lòng hết mọi người thì một người
lãnh đạo càng hay gặp những chuyện khó khăn trong cách đối xử; hoặc những thành
phần nhỏ trong tổ chức đôi khi lại cứ như các khách ăn khác biệt khẩu vị thưởng
thức chung một món; kẻ kêu thế này; người kêu thế kia mà người lãnh đạo bởi có
cái nhìn bao quát phải chấp nhận thành phần nào cần được gia giảm cho hòa hợp
và kiện toàn dự án nên thường không thể nào làm hài lòng một vài thành phần nhỏ
nào đó. Vì thế, điều ong tiếng ve hoặc những lời bất mãn vô tình sinh ra khiến
người lãnh đạo cảm thấy phiền lòng. Cho dù một chương trình có thành công đến
cách mấy, người lãnh đạo bao giờ cũng vẫn cảm thấy còn nhiều vấn đề vẫn chưa khai
thác đúng mức. Nỗi cô đơn không thể nói cùng ai và không ai có thể chia xẻ nơi
tâm tư nhà lãnh đạo càng ngày càng chồng chất... Ghé thăm đức giám mục, tỏ lòng
thông cảm, hiểu biết gánh nặng ngài đang mang cũng một phần nào giúp tâm tư
ngài thoải mái hơn, cha Lành nghĩ thế. Hơn nữa, linh mục lo việc mục vụ cho
giáo dân nhưng thường lại rất ít khi nghĩ đến mục vụ cho chính mình, các linh
mục bạn bè và đức giám mục...
Bao công việc chồng chất, giờ nào để
đức giám mục gọi điện thoại hỏi thăm đơn sơ; thế mà ngài muốn nói chuyện với
cha xứ! Hơn nữa, nếu chỉ thăm hỏi đơn sơ, không gặp lúc gọi thì bỏ qua, đàng
này ngài nói vô máy trả lời điện thoại... phải có chuyện gì quan trọng...
Khoảng 8g30, cha Lành, sau khi đi ăn
tối trở về, ghé vô phòng khách nơi cha xứ thường xuyên coi ti vi. Ngài mê
football, thích xem thể thao hoặc những chương trình diễu, vui cười, nhưng lại
không coi phim truyện. Mỗi khi gặp phim truyện trình chiếu trên ti vi bởi không
thể kiếm được đài nào có thể thao hoặc diễu, ngài lẹ làng rơi vào giấc ngủ
khiến cho cơ thể đồ sộ lại càng có dịp phát triển đồ sộ hơn...
Rất ít khi cha Lành coi ti vi ngoại
trừ những khi có chuyện xao động quốc tế lớn lao hoặc những mối đe dọa thiên
nhiên. Do đó cha xứ vừa thấy cha Lành bước vô phòng khách, ngài đã cầm
"remote control" điều chỉnh âm thanh ti vi nhỏ lại, quay sang nói:
- Chiều nay, đức giám mục dùng cơm
với quí cha sau khi khánh thành hội trường tại nhà thờ Đức Mẹ Fatima; ngài nói
về vụ con ông Ảnh gọi điện thoại nói ông ta ốm đã lâu mới dời về bịnh viện gần
đây sau một tuần và đang ở nhà mà không có một linh mục nào tới thăm và kiệu
Mình Thánh cho ông ta. Cũng may, cha tuyên úy bịnh viện đang dùng cơm với ngài
trả lời chính cha đã xức dầu, trao Mình Thánh hằng ngày cho ông ta tại bịnh
viện. Gia đình ông ta có ai gọi điện thoại báo cho cha biết gì không?
- Không ai gọi. Chỉ có chiều nay,
cha Tuyên, bạn già của ông Ảnh ghé qua khi tôi đang ký giấy thực phẩm và xăng
cho cặp vợ chồng lỡ độ đường, ngài nhờ tôi kiệu Mình Thánh cho ông Ảnh đang ở
nhà và tôi đã đi ngay, đồng thời xức dầu cho ông ta nữa; tôi cũng đã ghi tên
ông vào danh sách kiệu Mình Thánh hằng tuần của tôi... Không thể hiểu được họ
muốn gì khi không thèm thông báo cho mình biết chi hết. Vậy nếu đức giám mục
hỏi cha về chuyện ấy, cha sẽ nói sao?
Hỏi như thế vì cha Lành thấy thương
hại cho cha xứ; ngài rất sợ những sai lầm nho nhỏ vô tình xảy ra, không đúng
theo như thường lệ, và chính sự e sợ này đã làm ngài mất bình tĩnh. Có lẽ đó
cũng là kết quả của lối huấn luyện ngày xưa; một thày phải được dạy dỗ trong
một khuôn mẫu nhất định, từ cách đi đứng, ăn nói hoặc vâng lời tuyệt đối...
-Ngày mai tôi sẽ gọi đức giám mục;
nếu ngài nói giống như ở nhà thờ Đức Mẹ Fatima, tôi sẽ trả lời là người của gia
đình đó nói không thật vì họ đã không thông báo cho nhà xứ biết. Hơn nữa cha
tuyên úy đã lo phần thiêng liêng cho ông ta tại nhà thương và chính cha đã kiệu
Mình Thánh cho ông ta...
Sáng thứ sáu tiếp theo, cha Lành
đang chuẩn bị kiệu Mình Thánh cho những người bệnh và già yếu tại tư gia, cha
xứ hỏi:
- Cha có tên của ông Ảnh trong danh
sách kiệu Mình Thánh chưa?
- Có, tôi đang chuẩn bị mang Mình
Thánh cho họ.
- Vợ ông ta nói rằng cha không cho
bà ta rước lễ kỳ trước.
- Phiền quá, nào bà ta có nói gì với
tôi đâu; bà ta dự lễ chủ nhật mà!
- Thôi thì mang thêm Mình Thánh cho
bà ta...
Nghĩ cũng rầu, Mình Thánh là của ăn
đàng cho người bệnh chứ đâu phải cho người khỏe. Chủ nhật trước bà còn đi lễ
thì sao lại đòi rước lễ tại nhà. Hơn nữa bà ta đã không nói gì hết, ai có thể
đoán được bà ta muốn gì. Những phiền hà xảy ra bởi sự khác biệt lối nói hay
quan niệm, tập quán đến với cha Lành khá nhiều nhất là do thực tế đối chiếu với
thần học Công Giáo. Được huấn luyện chuẩn bị làm việc cho giáo dân trong tương
lai với những quan niệm thần học hiện đại cộng thêm sự học hỏi tâm lý phụ họa
cho những công việc mục vụ làm ngài ngỡ ngàng khi đối diện với thực tại dân
Chúa. Công Đồng Vatican II đã gần 30 năm qua, sự thay đổi mới chỉ thực sự được
nhìn thấy nơi Thánh Lễ, nhưng sự hiểu biết của giáo dân về ý nghĩa và sức sống
thần linh nơi Thánh Lễ tuyên xưng thì thật vẫn mù mờ trong khi hãy còn những
người bị ảnh hưởng quá sâu đậm bởi lối giáo dục cứng ngắc ngày xưa đã không thể
chấp nhận ngay cả kiểu cách dâng lễ để rồi cứ "Lễ La Tinh" mới trang
trọng. Trang trọng vì gì? Có phải vì mình không hiểu những lời La Tinh nói gì
nên trang trọng? "Mình được huấn luyện làm linh mục cho dân Chúa thời hiện
đại trong khi lại làm việc với giáo dân thời tiền Vatican II" Cha Lành đôi
khi thầm nghĩ. Thế nên tâm tình chấp nhận đành được sinh ra bởi ngài thấy dù có
muốn thay đổi họ cũng chưa thể đổi được hoặc chính họ không muốn đổi; vô tri
bất mộ mà. Chuẩn bị kiệu Mình Thánh cho người bệnh trong khi ngài thầm nghĩ:
"Thôi thì đem thêm Mình Thánh cho bà ta tránh khỏi những lời nói phiền
hà..."
Con đường Fountain Ave., được gọi là
avenue nhưng chỉ là lối nhỏ tráng nhựa, nằm dọc giữa hai dãy nhà bao bọc bởi
những hàng rào thép lưới cao ngang thắt lưng. Đầu đường, cột điện đứng sát một
bên và bên kia bụi cây lòa xòa chắn lối khiến cho xe muốn quẹo vô phải lấn gần
hết nửa bên kia. Chẳng may nếu có một xe khác đi ra, xe quẹo vô phải nhường dầu
quyền ưu tiên thuộc phần mình. Đầu đường phía kia bảng tên đã mất tự bao giờ
khiến lần trước kiệu Mình Thánh cho người khác cha Lành kiếm mãi không ra dù đã
mấy lần đi ngang. Số nhà lại thay đổi lung tung, nơi số cũ, nơi số mới; cái thì
tán trên hộp thư ngoài lề đường, cái bên trên cửa nhỏ xí như sợ người khác dòm
thấy. Nhà ông Ảnh thì lại không có số, chỉ có bảng nhỏ nâu đen khắc tên dòng họ
Nguyễn. Hình như bảng số nhà đã quá cũ, chán cảnh chường mặt cho thiên hạ dòm
nên đã về hưu.
Từ từ đậu xe ép sát bên kia hàng
rào, cha Lành cảm thấy hơi chán nản; sự chán nản khiến chân ngài nặng nề không
muốn bước ra khỏi xe. Kiệu Mình Thánh đến cho họ, đã không một lời cảm ơn lại
còn kiếm cách hoạch họe vô lối. Lần trước kiệu Mình Thánh đến, ông bà ta khoe
nhà có 7 đứa con, đứa nào cũng học hành giỏi giang, làm ăn giầu có. Đứa thì chủ
tiệm này, đứa làm đại diện hãng kia. Cha Lành tự hỏi có phải vì con cái ông bà
ta giầu có nên họ nghĩ mọi người khác phải phục dịch hoặc bợ đỡ, tìm kiếm ý
muốn của họ để làm theo. Nhìn đến cổng rào khép kín, cánh cửa lưới nằm sát bậc
thềm, và những giọt nước từ mái nhà thi nhau nhỏ xuống đang khi trời lất phất
mưa, cha Lành thở dài. Có gọi được người ra mở cửa thì cũng đã bị ướt; mà người
ta có nghĩ đến điều đó đâu; người ta ở trong nhà. Căn nhà tuy cùng đứng theo
dãy với các nhà khác nhưng đầy vẻ cô lập, cô lập bởi hàng hiên bọc lưới không
để thừa chút mái tránh mưa lúc cần kíp. Thôi thì đàng nào mình cũng đã mang
Mình Thánh tới, dù có muốn hay không cũng phải vô! Cha tự nghĩ, hãy bỏ tâm tư
nặng nề lại nơi xe, ráng bọc lấy bộ mặt vui tươi tha thiết tránh những xoi mói
của người khác để tiếp đãi họ. Ta đi thôi!
Cha Lành với ra sau lấy chiếc dù đen
què quặt. Nó què quặt nên đã bị người nào đó cố tình bỏ quên nơi nhà thờ bởi
gẫy hai sống căng vải. Chiếc dù tự động bằng nhôm thứ rẻ tiền nên sống dù mềm
yếu gặp gió hơi lớn cầm không để ý là bị thổi bật ngược. Đã mấy lần kiếm dù mua
mà chưa kiếm ra; chợ Sears thì xa đi mất giờ, Kmart bán đồ rẻ thì sao có thứ
tốt nên cứ đành nhờ vả chiếc dù què quặt này. Tuy nhiên, có nó vẫn còn hơn
không. Thân dù vừa cỡ nhưng so với chiếc xe lại hơi dài, cầm lên không để ý là
đụng. Mới chịu chức được hơn hai năm, dành dụm, bóp chắt từng đồng mới đủ tiền
mua được chiếc xe mới. Hơn hai năm tiền lương đâu phải nhỏ nhặt chi! Hơn nữa,
tâm lý chung của những người có xe mới, hơi chút đụng chạm cũng thấy đau xót.
Tránh được chiếc dù đụng chạm phía trong, cánh dù què quặt lại đụng vào chiếc
mui xe bên ngoài. "Oops" cha Lành lẩm bẩm "Sao mày cứ thích đụng
đến cái xe mới làm chi thế!" và từ từ bước ngang qua đường mở cổng sắt,
bấm chuông đứng đợi người trong nhà mở cửa...
- Chào ông bà, hôm nay ông cảm thấy
khỏe không?
- Tệ lắm.
Câu trả lời cộc lốc như của ông chủ
đối với người đầy tớ...
Một ý nghĩ thoáng qua tâm trí, có lẽ
đêm rồi ông ta ngủ không được nên khó chịu. Ai chả thế, khi người không được
khỏe, lời nói hoặc thái độ trở nên khác thường; thế nên cha Lành điềm đạm hỏi:
- Đêm rồi ông ngủ được không?
- Chán lắm, cứ trằn trọc suốt.
- Cũng phiền thật! Kỳ này khí hậu ẩm
ướt quá hay làm khó ngủ hoặc làm cơ thể đau như dần...
Quay qua bà Ảnh đang đứng tại cửa
vào nhà trong, ngài hỏi:
- Hôm nay bà có muốn rước lễ không?
- Thưa cha có.
Cố gắng nói thật chậm, ngài thêm:
- Hôm trước bà không nói cho tôi
biết. Thật ra, nếu vô tình hỏi một người mà họ không thể rước lễ được vì có sự
ngăn trở nào đó, đôi khi làm cho họ mang mặc cảm; đó là lý do tại sao tôi đã
không hỏi. Thế giờ ông bà đã sẵn sàng chưa?
- Thưa cha vâng...
Dợm bước đi ra sau khi cho hai ông
bà rước lễ, cha Lành cảm thấy thương cho họ. Con cái nuôi nấng lớn lên nhưng
giờ không một ai ở gần cha mẹ. Ai cũng phải lo cho chính mình đến nỗi quên cả
bố mẹ giờ này ra sao. Còn khỏe thì sống riêng một mình, yếu hơn, nhà dưỡng lão!
Cũng chẳng có thể trách ai được vì cuộc sống thúc đẩy người ta bận rộn vật lộn
từng ngày từng giờ. Có thương bố mẹ lắm thì may ra một tuần gọi điện thoại hỏi
thăm được một lần để rồi lại phải chìm vào công việc mưu sinh, ai lo phận nấy.
Cha mẹ, khi tuổi già, có nhớ về con cái thì chỉ còn cách nhắc nhở niềm hãnh
diện của mình về chúng hầu che lấp khoảng trống tâm tư, cảnh thiếu vắng bởi mặc
cảm bị bỏ rơi. Thế nhưng cảm nghĩ này đâu bao giờ có thể nói ra được nên sinh
ra mơ ước được người khác nhận biết công lao của mình... đôi khi đưa đến tâm
trạng cho rằng mọi người nên biết ơn mình thay cho con cái... Mối thương tâm
cảm thông thúc đẩy ngài dừng lại đoạn nhẹ nhàng hỏi:
- Ông bà có gọi điện thoại cho nhà
xứ biết ông bà cần được kiệu Mình Thánh tại nhà không?
- Không, tôi nói con trai tôi gọi
cho nhà xứ.
- Thế anh ta đã gọi nhà xứ chưa?
- Tôi không biết. Sáng nay đức giám
mục có gọi phone cho tôi nói con tôi gọi ngài.
- Anh ta ở gần đây?
- Không, nó ở riêng mình nó bên
Osean Springs.
- Anh ta có hay ghé thăm ông bà
không?
- Ít khi, nó chỉ gọi điện thoại.
- Thế ông có nói với đức giám mục là
ông rước lễ tại nhà không?
- Có, tôi nói cha kiệu Mình Thánh
cho tôi.
- Từ nay, ông bà làm ơn gọi cho nhà
xứ khi có chuyện gì cần thiết vì nếu gọi cho đức giám mục thay vì gọi nhà xứ,
ngài sẽ nghĩ có chuyện gì rắc rối xảy ra. Tôi muốn cho ông bà biết, các cha cầu
nguyện đặc biệt cho những người bệnh trong xứ hằng ngày. Xin Chúa chúc lành nơi
ông bà. Xin chào....
Băng ngang qua đường tới chiếc xe,
Cha Lành chậm rãi bước thầm nghĩ về sự đối nghịch của phản ứng con người. Người
nào càng cố gắng cảm thông cho kẻ khác càng bó buộc chính mình. Trái lại, ai
cho rằng chỉ mình mới là quan trọng hơn hết sẽ gây ra lắm cảnh phiền lụy tai
hại tới người khác. Câu hỏi tại sao con ông Ảnh lại gọi đức giám mục trong khi
không hề gọi nhà xứ cứ luẩn quẩn nơi ý nghĩ. Anh ta muốn gì? Hoặc là anh ta
muốn chứng minh rằng những người khác cũng đối xử với bố mẹ anh ta không ra gì
giống như chính anh. “Cầu xin cho anh nhận ra giá trị của việc đã làm,,,” ngài
lẩm bẩm khi chúi người vô tay lái.
2
Như một cuốn phim sống động quay lại
nơi tâm tư cha Lành - dáng người nhỏ con - quì thinh lặng hướng về nhà tạm. Thi
thoảng tiếng xe chạy trên con lộ ngay trước nhà thờ vọng vô chừng như nhắc nhở
linh mục trẻ, cha phó xứ đạo bao gồm 1500 gia đình này, thế giới bên ngoài hãy
còn đang sinh động. Đôi khi tiếng rú cuồng bạo của xe "sport" vượt
ngang cố nhắc nhở ngài đêm đã khuya. Thế nhưng dường như những dòng tâm tư nặng
nề vẫn cố kéo ngài chùng xuống không cho trở về nhà xứ. Chỉ thấy ngài quì hồi
lâu dường như bất động. Bỗng ngài từ từ đứng dậy, tưởng rằng ra về... thì ra
ngài đứng lên để ngồi xuống. Hai động tác phân biệt rõ ràng, đứng dậy từ thế
quì rồi mới từ từ ngồi xuống ghế dựa, mắt vẫn chăm chăm hướng về nhà tạm, chân
bắt chéo và hai tay nhịp nhàng khoanh lại như đã thường quen làm.
Ánh đèn rọi từ trần làm nổi bật sắc
hoa màu trắng của bình bông phía sau nhà tạm được kê cao hẳn lên. Mầu mạ vàng
của nhà tạm bóng lên đối nghịch sắc hoa dưới ánh đèn bao quanh bởi cả một vùng
tối của ngôi thánh đường rộng lớn càng tạo thêm nét linh thiêng thần bí thu hút
tâm tư. Phía xa về bên trái trong khung tối, một chùm ánh nến đỏ đua nhau linh
động như cố đẩy lời nguyện cầu của những người đốt nến theo sức nóng bay mãi
lên cao xuyên tới cõi thiêng liêng.
Bàn thờ tế lễ đứng âm thầm thinh
lặng chặn giữa cha Lành và nhà tạm. Cứ mỗi khi trông đến bàn thờ, ngài tự cảm
thấy đó là chính mình, chính cuộc đời mình, nơi tế lễ, nơi dâng lên những niềm
vui cùng những nỗi u buồn trong cuộc đời không những của chính ngài mà của con
chiên bổn đạo, của cả Giáo Hội. Tâm tình này mỗi lần đến với ngài là tất cả
những ưu phiền tự giảm dần để được thay thế bằng sự cam tâm chấp nhận. Chấp
nhận vì con đường đã được gọi, chọn và đã được chọn. Đôi khi có những cay đắng
khó thể mang bùng lên đối diện, ngài chỉ chép miệng tự nhủ: "Cuộc đời nào
không có chông gai." Chính nhận thức thực tế này đã giúp ngài sống vui
tươi, cởi mở và chấp nhận nhiều hơn.
Cha Lành một mình nơi nhà thờ trong
đêm vắng không phải là chuyện lạ, nhưng đêm nay ngài ngồi đó lâu hơn, dường như
quên bẵng thời gian. Những sự việc xảy ra cứ tuần tự diễn qua tâm tưởng khiến
hiện tại dừng lại, dừng lại để chuyển mình dẫn đưa về quá khứ, một quá khứ có
chú Lành khắc khoải với niềm tin, với những ước mơ, và thắc mắc về giá trị của
kiếp người.
Khi còn đang học lớp đệ tam (lớp
10), nhân buổi nói chuyện của mấy người lớn, ông cậu khuyến khích chú Lành đi
tu làm linh mục. Chẳng kịp suy nghĩ, chú đồng ý và rồi từ ngày ấy, ý tưởng đi
tu thi thoảng trở lại như một động lực thúc đẩy chú đặt vấn đề tìm giá trị cho
cuộc đời của mình khi so sánh với cuộc sống thực tại nơi những người chung
quanh. Có một lần đứng dựa vào tường cuối nhà thờ xếp hàng chờ vô tòa cáo giải,
ngay phía trước là một ông gần nhà cỡ chừng 45 đến 50 tuổi. Ông thấp hơn chú
một cái đầu. Chú Lành đã chẳng cao gì mà ông còn lùn, lại nhỏ người hơn kèm
thêm nước da cháy nắng bởi làm việc cực nhọc ngoài trời. Chú thầm nghĩ, với một
thân xác nhỏ bé như thế này, tuổi đời chồng chất theo năm tháng làm ăn cực nhọc
để nuôi dưỡng một đàn con 6 đứa; suộc sống còn gì khi xuôi tay nhắm mắt? Phải
chăng con người được sinh ra, lớn lên, lập gia đình, sinh ra một đàn con; rồi
đàn con cũng thế, cũng lấy vợ, lấy chồng... rồi chết đi... và còn gì? Giá trị
cuộc sống ở đâu, và chú sẽ chấp nhận cuộc đời của mình sau này thế nào?
Nếu đem so sánh cuộc đời một con
người trong phạm vi sinh tồn, bảo toàn giống nòi với một con thú, con thú sung
sướng hơn con người vì chúng không phải lo lắng cho ngày mai. Nếu chỉ xét riêng
về sự sống thì con người được sinh ra, lớn lên, già rồi chết. Phải còn gì nữa!
Thế giá trị của cuộc sống con người khác và hơn con thú ở chỗ nào? Chẳng lẽ
cuộc đời của một con người chỉ lo sao cho có miếng ăn để sống, nghĩa là đi làm,
ăn, ngủ, rồi lại đi làm... tiếp tục một cách buồn tẻ như sự luân chuyển của
chiếc nhông trong bộ phận nơi cái máy và chờ ngày hao mòn bị quăng đi. Chắc
chắn phải còn gì nữa mà chú Lành chẳng biết đặt tên nó ra sao. Chú chỉ biết mù
mờ rằng giá trị cuộc sống con người phải hơn con thú trong khi chú không thích
lối sống lặp đi lặp lại vì nó bình thường quá, một ngày như mọi ngày... Chú
muốn mình phải là một cái gì nhưng cái gì thật mơ hồ, chỉ có trong mộng ước mà
chú không xác định được.
Sau năm thứ I đại học, chú được nhận
vô chủng viện; để rồi qua hai năm được huấn luyện, chú Lành nghiễm nhiên trở
thành thày Lành nhưng lòng đầy thắc mắc, nghi ngờ sự cầu nguyện của chính mình.
Nghi ngờ vì cầu nguyện mà không thấy chi hết; cứ như bị rơi vào khoảng không vì
thày suy luận, nếu có Chúa thì Chúa đã nghe, và nếu Chúa đã nghe thì thày cầu
phải được, xin phải có. Cầu nguyện không thấy ai trả lời, thày xin chẳng gì xảy
đến; như thế đối với bản năng thường tình, sự suy nghĩ đơn giản cho thày giải
đáp: không có Chúa, và giả sử nếu có Chúa thì Chúa cũng chẳng làm được gì, chỉ
như những hồn ma bóng quế còn sót lại lang thang sau cuộc sống, chẳng giúp được
ích chi.
Nghe những câu chuyện ma từ những người
dân quê mộc mạc mà thày biết rõ không bao giờ họ có ý nghĩ đánh lừa người khác
khuyến khích thày đặt vấn đề. Họ là người Công Giáo; họ gặp sự thật và sự thật
là họ đã gặp ma. Anh thày, như lời bố mẹ và những người sống cùng thời kể rõ
từng chi tiết, bị sài tréo. Khi còn nhỏ, hai chân cứ bắt tréo qua nhau không đi
đứng được. Ông thày lang lúc bấy giờ bảo bố thày phải đi lấy tổ quạ, lấy đất
trên mả người bị sét đánh trăm ngày và nhiều thứ khác nữa về nhào lộn lại, nặn
thành hình nhân, rồi nấu nước tắm; điều kiện là lúc đi đường không được gặp bất
cứ gì dù là người hay con vật. Tháng chạp ở miền bắc Việt Nam, trời rét, thế mà
bố thày phải lội dưới sông đi lấy đất mả người bị sét đánh vì đi trên đường cứ
bị gặp con chó bông. Rồi anh thày khỏi bịnh, đang ở Mỹ.
Những chuyện bùa ngãi, nuôi hồn để
bói toán, có thật nhưng thày không thể giải thích lý do, chỉ biết nó xảy ra
khiến mọi người phải công nhận rằng con người chết đi không phải là hết; tức là
còn có sự sống đời sau. Ông bà có câu, "Tin ma, ma bắt, tin cọp, cọp
tha." Không hiểu có đúng hay không, nhưng khi thày đi chặt cây bán cho
"nhà nước" làm nhà kinh tế mới và để ý sau mấy lần lỡ miệng. Đúng tám
lần chuyện xảy ra làm thày ớn da gà. Không biết lý do, không tin cũng phải sợ,
là nếu đi rừng chặt cây, bất cứ vì lý do nào đó, chỉ một người trong bọn đề
nghị về, dù chỉ là giỡn chơi, mà cứ tiếp tục kiếm cây để chặt, không chuyện nọ
cũng chuyện kia xảy tới cho người trong nhóm. Những người đi rừng có lẽ giải
thích không đúng, nhưng họ tin là rừng rất thiêng.
Trước năm 1975, bên cạnh nhà thày có
một anh chàng rất hoang đàng, không biết sợ trời sợ đất là gì, vô nghĩa trang,
đứng tiểu trên một ngôi mộ rồi thách thức người đã chết. Đêm đó, anh ta bị vật
như trời giáng, xùi bọt mép khi bước ra phía sau nhà để đi tiểu. Đến sáng, nghe
kể lại chuyện hôm trước, mọi người đều cho rằng anh ta bị như thế vì dám hỗn
với người đã chết; thế rồi từ đó anh ta chừa.
Những người đã chết mà họ còn
thiêng, còn làm thế này, thế nọ vậy sao Chúa cứ như không? Đôi khi thày nghĩ
rằng các cha hù con chiên vì không thế, lấy ai theo đạo. Không có người theo
đạo, các cha chết đói. "Bà phước" cũng vậy, họ có phận sự nói như cái
máy; họ nói những điều họ phải nói thôi, vì có Chúa thật chăng và Chúa có nghe
cũng như có làm gì được cho họ chăng sao không xin Chúa tiền mà chi phí cho
cuộc sống, khỏi phải làm gì. Bao nhiêu người chung quanh theo đạo Công Giáo,
lại sùng đạo, thế mà khi những sự việc không đúng theo ý muốn của họ, có thể
gọi là tai họa xảy ra, họ than trách Chúa. Thày nghĩ, thật nực cười! Chúa đâu
làm được gì mà than trách; Chúa chỉ không có cái miệng để phản đối những lời
than trách nên họ đổ vạ cho. Họ đâu dám đổ vạ cho hồn ma ông bà họ, cho người
khác vì họ sợ bị vật chết; ai mà không sợ chết!
Khi còn nhỏ, nghe nhiều về đức tin
bởi học giáo lý nơi nhà thờ, bởi mẹ thày bảo khi gặp chuyện gì khó khăn, hãy
cầu xin Chúa soi sáng dẫn đường, rồi cũng cầu nhưng không thấy chi. Ông cha dậy
giáo lý thêm sức định nghĩa một cách đơn giản: Cầu nguyện là nói chuyện với
Chúa. Thày Lành hài lòng vì sự định nghĩa này. Làm sao có thể chấp nhận được sự
giảng dạy của các cha già khi các ngài đứng nơi tòa giảng phán rằng phải biết
kính sợ Chúa. Chúa đâu có làm gì được mà phải sợ; thày đâu có sợ! Đâu có bao
giờ Chúa nghe thấy gì khi thày cầu, thày nói mà phải ngán! Nếu Chúa có nghe
chăng thì đã có những chuyện cần thiết thày xin xảy ra. Ừ thì giả sử Chúa nghe
được đi; nghe được mà chẳng làm chi được thì cũng như cuội, coi như không có!
Lớn dần, thày Lành theo đạo Công
Giáo như một sự di truyền của hoàn cảnh, bởi những người chung quanh theo đạo
nên phải theo cho giống với họ, bởi những sáng không dậy đi lễ, không kiếm được
cớ ốm đau gì mà nằm lỳ là bị ăn roi. Ăn roi thì không thể ngủ thêm được lại bị
giật mình khi cái roi quất đau điếng nơi người. Thày nghĩ, theo chi cái đạo khổ
sở này! Thày chỉ dám nghĩ trong sự hậm hực vì phải đi lễ buổi sáng làm mất giấc
ngủ. Thày đâu dám nói, nói ra là ăn đòn. Không có sự trừng phạt nào lớn lao hơn
nếu nói vì bố mẹ thày sùng đạo lắm. Chúa của bố mẹ thày được bênh vực bằng
những ngọn roi trong khi sự xúc phạm chỉ là lời nói. Đổi lời nói lấy những roi
đòn, thày đâu có dại.
Thày Lành cảm thấy Chúa đã chẳng bổ
ích gì dầu đã 28 tuổi. Già rồi, nếu như bạn bè thì đã vài con, đã đang mang
trên vai gánh nặng gia đình. Sau khi Cộng Sản chiếm miền nam Việt Nam, thày có
cơ hội về Sài Gòn ở nhờ nhà một người quen rồi buồn buồn theo dự khóa Thánh
Linh. Thày dự có một khóa vì không thể có thì giờ theo tiếp khóa hai. Những sự
kiện xảy ra nơi khóa học như rên la, ngất xỉu, làm chứng Chúa đến với những
người theo học được thày coi như hiện trạng tâm lý vì quá tưởng tượng. Hai ông
cha lên thú nhận rằng họ đã là linh mục mười mấy năm nhưng cũng nghi ngờ, không
tin, giờ mới nhận biết. Có người kể rằng họ quăng cả ảnh tượng Chúa đi rồi được
ơn trở lại; kẻ thế nọ, người thế kia. Ông cha diễn giảng khóa học thì dường như
giả bộ đóng kịch theo sự nhận xét của thày. Đức tin gì mà kỳ thế; Chúa mà cầu
dễ dàng như vậy à? Bao nhiêu năm rồi, thày cầu; thày lại đạo gốc nữa, đạo nằm
ngửa từ khi mới chui từ bụng mẹ ra mà cầu đâu thấy gì! Chỉ thấy đủ mọi thứ; nào
sợ bị đòn, sợ bị xuống hỏa ngục, sợ hình phạt tưởng tượng. Chúa ngày ấy đối với
thày chỉ là những sự đe dọa bị khốn khổ đầy ải vì chấp nhận con người chết đi
còn một sự gì nữa tiếp theo; cái đó như là những hồn ma.
Tuy nhiên, những sự kiện xảy ra nơi
khóa học thánh linh cũng ảnh hưởng thày không ít khiến có ý thử. Thử thôi vì
muốn biết thực sự thế nào bởi có gì xảy đến với thày trong suốt khóa đó đâu.
Hơn nữa, thày đâu có yếu tim, đâu có dễ dàng bị lừa bởi một vài lời nói, bởi sự
mê hoặc của kẻ khác. Chúa phải thực sự chứng minh cho thày biết mới thèm tin,
không có sự chứng minh, không thể chấp nhận được. Tin một cách mù mờ như đã
phải tin, đó là cuồng tín; đó là sợ bị phạt sau này; đó cũng là ảnh hưởng bởi
những roi đòn, bởi thói quen đi dự lễ mỗi sáng, bởi đã bị tiêm nhiễm rằng chúng
ta phải kính sợ Chúa, và bởi vì thày đã tưởng tượng Chúa như con hổ giấy đang
nhăm nhe vồ phía sau. Chúa sao mà ghê gớm thế!
Sau ngày 30 tháng 4, 1975 thày Lành
về một miền kinh tế mới sống với một người bạn cũng tu muộn nơi chủng viện Phú
Quí, Sài Gòn. Thày thường tập hát cho ca đoàn gồm 32 người lớn nhỏ từ 14 dến 33
tuổi. Với tính chất lè phè, sống bạt mạng, ca đoàn và mọi người chung quanh dễ
cảm thấy mến. Họ mến thày vì thấy tính chất lè phè, gần gũi với họ mặc dầu
chẳng giúp ích gì ngoại trừ giúp đọc kinh mỗi sáng chủ nhật. Thử sự cầu nguyện
với nhóm ca đoàn, lúc đó thày lại đứng vào vị thế của người khuyến khích đức
tin nơi kẻ khác. Thày Lành đưa những chứng minh thật đơn giản trong cuộc sống
hàng ngày một cách ngây ngô để nói cho họ biết rằng họ cũng chẳng tin gì, chỉ
mù mờ như thày. Chẳng hạn khi thày hỏi họ có tin rằng Chúa nghe lời cầu của họ
mà cho họ những gì họ xin không; mọi người đều nói rằng tin. Thày hỏi lại từng
người để chính họ xác nhận rõ ràng điều tự họ vừa chấp nhận, thày nói tiếp:
-Nào, mọi người đều tin rằng chúng
ta cầu; Chúa nghe; bây giờ chúng ta thử. Chẳng cần gì chuyện to tát, chúng ta
xin ngay điều cần thiết. Mọi người biết chúng ta đang đói, không có gì để ăn
ngoài khoai lang và bắp, lâu ngày thèm ăn thịt. Bây giờ, xin Chúa cho chúng ta
một con nai chạy vào đây, đóng cửa lại, bắt nó làm thịt ăn. Mọi người có tin
rằng Chúa cho hay không? Và chúng ta có chắc chắn có con nai ngay bây giờ
không?
Tất cả im lặng! Họ vừa xác nhận cầu
Chúa nghe, xin Chúa cho mà bây giờ xin son nai, ai cũng nghi ngờ. Mọi người
giương mắt ếch nhìn nhau đầy vẻ ngỡ ngàng... Thày hỏi lại, không ai nói thêm
được câu nào; tất cả đều ngậm tăm, bất động. Đến lượt một chú nhỏ, tốt lành
nhưng cũng thuộc lại ngổ ngáo không thua gì thày; chú ta trả lời:
-Thưa thày, em thấy hơi nghi nghi!
-Đức tin chúng ta là thế đó. Hơi
nghi nghi! Tất nhiên chúng ta luôn nghi ngờ.
Thày Lành nói thế nhưng lại biết
chắc không bao giờ có chuyện có con nai chạy vào nhà bắt làm thịt. Chuyện phi
lý, có gì để mà tin, mà cầu cách vớ vẩn. Tuy nhiên, từ đó thày dẫn họ đi sâu
hơn vào Tân Ước, khởi đầu rằng Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 1 câu 18, và theo thứ
tự giống như khóa thánh linh mà thày mới dự qua. Dĩ nhiên có những thêm nếm
khác với khóa học vì khác thành phần tham dự. Nào thực tập cầu nguyện lớn tiếng
trong khi một tay đặt trên vai người khác, một tay giơ lên trời. Thày phải tắt
đèn, dùng ánh sáng lờ mờ của buổi tối để những người cầu nguyện đỡ cảm thấy
ngại ngùng vì không quen cầu nguyện lớn tiếng trước mặt mọi người. Bắt đầu với
sự nhận lỗi, xin Chúa thứ tha; cảm tạ Chúa vì Ngài đã đổ máu mình ra để chuộc
tội cho mọi người; nhắc lại lời Chúa hứa ai làm gì, xin gì bởi danh Ngài, Ngài
sẽ thực hiện; nhân danh Chúa Kitô xin cùng Chúa Cha điều cần thiết; và đoan hứa
tin chắc rằng Chúa nghe rồi cảm tạ Ngài vì Ngài sẽ thực hiện lời cầu.
Thế rồi những sự việc xảy ra liên
tiếp khiến thày Lành bàng hoàng và đặt rất nhiều nghi vấn. Trong thời gian đó,
nơi miền thày ở mưa liên miên. Tại miền nam Việt Nam quanh vùng thày ở trước,
chưa bao giờ thấy mưa như thế trong suốt hơn 10 năm kể từ ngày có trí khôn.
Vùng kinh tế mới cũng gần nơi ở cũ, cỡ 20 cây số đường chim bay; thế mà mưa cả
tuần lễ, dường như không dứt đến độ bắp, cây mì, khoai lang đỏ hết trong khi
đất thuộc loại cát pha đất sét. Tối hôm trước mọi người cùng nhau hợp ý cầu xin
cho ngưng mưa. Từ ngày hôm sau, trời mây và mây, che kín cả bầu trời, không một
chút ánh nắng, nhưng không mưa dù chỉ một giọt trong suốt cả tuần lễ tiếp theo.
Khoai lang hư bởi mưa; bắp mới lên
được sáu tuần lễ; mì chưa có củ; dân chúng không biết kiếm chi ăn. Gạo đào đâu
ra trong khi tiền không có. Sống trong vùng kinh tế mới, xác xơ, lấy ai cho
vay? Có một gia đình gồm hai vợ chồng trẻ, năm con; đứa con gái lớn nhất mới
chín tuổi. Hôm ấy bất chợt thày ghé qua, gặp gia đình đang ăn. Chỉ một rổ lớn
rau luộc, gồm có đọt cây mì, đọt dây lang, đọt cây hồng tiên, đọt cỏ hôi (người
Bắc gọi cây cứt lợn) và một chén muối đâm với củ xả và ớt. Vợ chồng con cái bảy
người ngồi quấn đọt cây luộc chấm với muối xả, ngoài ra không còn gì khác. Thày
Lành cảm thấy thổn thức vì cảnh lầm than mà miếng ăn cũng không có. Ngồi xuống,
cũng quấn đọt cây chấm muối với họ trong khi nói chuyện thăm hỏi; tối đến, thày
nói với nhóm cầu nguyện:
- Mọi người đều biết hiện giờ không
ai có thể kiếm gì ăn để mà sống, tiền lại không có, chỉ còn cách xin Chúa cứu
đói; nếu không, dân làng sẽ chết hết.
Tất cả cùng nhau cầu nguyện như
thường lệ, cầu lớn tiếng; sau đó mọi người ra về. Hai ngày sau, một xe trọng
tải khoai lang tới bán chịu cho những gia đình đi chặt cây bán cho nhà nước;
những người không đi chặt cây cũng có thể nhờ những người đi chặt cây mua chịu
cho được một bao 50kg khoai lang ăn cầm cự lấy sức. Ngày hôm sau nữa cũng thế,
thêm một xe trọng tải khoai lang về bán chịu. Nạn đói được giải quyết cấp thời;
số khoai lang dân làng mua chịu để ăn vừa kịp cho những trái bắp non mới đơm
sữa, có thể ăn cả cùi; củ mì đã lớn bằng ngón chân cái và dây lang kịp làm củ
sau đó. Đường bắt đầu khô, xe mới có thể vô bốc cây; xe bốc cây dân mới có
tiền. Tuy nhiên, thày biết, hai xe trọng tải khoai lang bán chịu cho dân chúng
lại do hai chủ đề bô cây xuất vốn mua về...
Thày Lành vẫn cứ cho rằng những sự
việc xảy ra chỉ là những trường hợp ngẫu nhiên trùng hợp; chẳng lẽ Chúa lại làm
những cái vớ vẩn thế! Tối tiếp theo, một trong những người cầu nguyện bước ra
giữa vòng tròn xin mọi người cầu cho bàn tay anh ta, nó đau cả tháng rồi không
khỏi. Thày thầm nghĩ, sao mà khùng thế, tay đau rồi tự nó khỏi; vết thương đâu
có làm chết người được mà xin với xỏ bởi có thể chết thì đã chết rồi. Có lẽ
chúng mê tín hoặc cuồng tín quá đỗi nên cứ xin những chuyện vặt vãnh chẳng ra
gì! Nhưng biết sao hơn, anh ta đã xin cầu nguyện; mọi người đặt một tay lên anh
ta, tay kia giơ lên trời và nhân danh Chúa Kitô cầu lớn tiếng sau khi ăn năn
tội như thường lệ. Thày Lành cũng đành đặt tay lên anh ta và giả đò cầu
"lấy lệ" như mọi người nhưng cảm thấy bực bội lẫn ngại ngùng vì chính
thày đã dạy nhóm người này cầu nguyện. Suốt thời gian còn lại của buổi tối, sau
khi mọi người đã ra về, thày hậm hực với cái "ngu xuẩn cuồng tín" của
anh chàng xin cầu nguyện.
Mới sáng hôm sau, khi thày Lành vừa
ăn xong mấy củ khoai lang luộc to bằng mấy ngón chân cái và ngồi hút thuốc lào
nơi một cửa sổ đang định đi lang thang, anh chàng xin cầu nguyện tối qua bước
vô nhà và nói:
- Thầy, tay em khỏi rồi.
- Vậy em có tin không?
- Có chứ thầy. - Trong khi đưa bàn
tay trái lên, nơi gò kim tinh dưới ngón cái ở lòng
bàn tay, chỉ vào đó và nói:
- Hơn một tháng rồi, một chiếc gai
"ngành ngạnh" đâm vào đây khi em róc gai; em rút ra và nó cứ khỏi bên
ngoài nhưng vẫn đau bên trong, được ít bữa rồi lại phá ra mâng mủ lại. Tối hôm
qua, em không biết làm sao hơn, đành liều xin cầu nguyện để mặc Chúa chữa nó.
Mới sáng nay dậy rửa mặt, em cảm thấy nó ngưa ngứa, lấy tay bóp một cái, một
đoạn gai phọt ra, thế là không còn gì đau đớn nữa.
Thày Lành thầm nghĩ, thì tất nhiên
cái dằm thoát ra được là tự nhiên khỏi, nào có chi đâu! Chúa với cha cái gì, vớ
vẩn, nhưng không nói ra, lờ đi và hỏi hôm nay anh ta định làm gì, có đi câu
không!
Chưa hết, những chuyện bình thường,
lăng nhăng hằng ngày thiên hạ cũng cứ đưa ra xin cầu nguyện khiến thày khó
chịu, nhưng chỉ nhăn nhó một mình. Thày đâu dám nói ra, nói ra làm nhụt đức tin
họ thì sao! Mặc dầu thày dậy họ cầu nguyện nhưng sao mà họ ngụy tín đến thế! Thế
nhưng, người đã xin cầu nguyện, cứ mới tối hôm trước, là hôm sau đã bước ra làm
chứng rằng điều họ xin đã được như ý muốn. Nó mất chiếc bút máy Pilot, nó hỏi
thày biết làm sao kiếm lại; mất chỗ đông người nữa, không ai nhận trông thấy;
không ai vớ được; chiếc bút máy kỷ niệm quí giá! Cái gì cũng thầy, làm như thầy
là ông thánh sống! Thày nghĩ, mình cũng phải ăn như mọi người, cầu nguyện nào
thày có thèm tin đâu mà cứ thày với bà! Thày trả lời không thèm suy nghĩ:
- Vậy em không tin "Cha"
em có thể kiếm lại cho em hay sao? Nói với Ngài, xin Ngài cho người đưa nó tới
nhà cho em.
Cỡ bốn tiếng đồng hồ sau khi trả lời
như thế, chủ nhân chiếc bút đã rối rít đến khoe và cảm ơn.
- Em cầu xin và Chúa cho người đưa
tới nhà như thày nói.
Thày trả lời với giọng chán nản vì sự cuồng
tín của thiên hạ:
- Em tin thì em được chứ có mắc mớ
gì tôi đâu! Tôi cũng như mọi người thôi!
Tuy thày Lành nói với người ấy nhưng
thực ra là nói với chính mình vì có tin đâu! Vả lại, những chuyện cỏn con ấy
nào có đáng gì để tin, để cầu nguyện với cầu xin; chỉ là sự trùng hợp ngẫu
nhiên.
Có một người bệnh đã hai tháng, bệnh
gì không biết mà cứ nhổ nước bọt liên miên. Thày Lành ăn cơm ở gia đình đó vì
không tiện nấu nướng. Ông thày bạn lại là y tá bất đắc dĩ của cái vùng khỉ ho
cò gáy này; y tá đôi khi phải cho thêm tiền bệnh nhân để mua gạo nấu cháo vì ăn
củ mì làm sao chữa bệnh được. Tiền thuốc không tính, tiền công không lấy, cho
nên ai cũng chạy tới; hơn nữa chẳng còn ai khác. Bạn thày ra sức chạy chữa cho
con bệnh nhưng chẳng thấm gì! Nào thuốc nọ thuốc kia, nước biển, nước suối, hết
bình này đến bình khác, thứ này sang thứ nọ, con bệnh cứ mỗi ngày một gầy như
que củi và tiếp tục nhổ nước miếng. Mặc dầu thày ăn cơm ở nhà ông bố con bệnh
nhưng không ưa ông ta vì có lần ông nói xấc, hoạch họe thày trong khi vấn đề
xảy ra không phải việc của thày vào một buổi tối văn nghệ giáng sinh 1976.
Trước khi rời vùng kinh tế mới để về quê cũ, thày đề nghị mọi người trong nhóm
cầu nguyện đến nhà đặt tay và cầu xin Chúa chữa bệnh anh ta. Tối đó mọi người
đến, không thèm báo trước, mặc ai muốn nói gì thì nói; họ cứ cầu cho anh ta bởi
thày biết rằng nói trước ông chủ nhà sẽ phản đối vì ông cũng không ưa thày, chỉ
có thế!
Thày Lành kêu gọi mọi người trong
nhà hợp ý cầu nguyện, và như thường lệ, nối tiếp đặt tay trên anh ta; người
đứng sau đặt tay trên vai người đứng trước; ai nấy ăn năn tội, kêu nài lớn
tiếng, rồi giơ tay lên tha thiết xin Chúa chữa con bệnh, xác tín lớn tiếng rằng
Chúa sẽ làm, cảm ơn và về. Đúng là một cảnh xỗn độn, cầu nguyện gì mà mạnh ai
nấy nói, tay giơ, đầu ngẩng, đầu cúi lộn xộn giống như một lũ điên kêu gào.
Sáng hôm sau, khi tới ăn sáng, thấy
anh ta đang ngồi, nét mặt tươi tỉnh cầm ly nước nóng uống, thày hỏi:
- Sao, cảm thấy thế nào?
- Cảm ơn thầy, em khỏe rồi, hôm nay em
ăn được hai chén cháo thấy ngon miệng.
- Còn mọi lần thì sao?
- Ăn đâu có được, như uống thuốc độc
vậy!
- Còn nhổ nước miếng nữa không?
- Từ lúc thức dậy đến giờ thấy hết
hẳn, chẳng biết sao nữa.
- Tin vững rằng Chúa chữa, khỏi cần
lo lắng thì sẽ khỏi.
Bạn thày bảo rằng bệnh khỏi nhờ mới
đổi hai chai nước biển; nó làm mát máu. Nhóm cầu nguyện thì như lũ quỉ ám. Thày
cũng nghi ngờ, chỉ mình thày thôi; có lẽ nước suối chữa anh ta! Nhưng không
sao, có quỉ ám thì thày cũng sắp rời đây rồi; họ nói gì thày đâu có phải nghe.
Vấn đề cầu nguyện cũng chẳng đánh động gì lại chỉ làm thêm sợ vì có vài người
đã nói rằng thày cầu nguyện Chúa mới nghe. Thày e ngại họ tin vào lời thày cầu
chứ không phải tin vào Chúa trong khi thày cho là trùng hợp. Chúa làm sao lại cứ
dính con người vào làm gì? Còn anh chàng bệnh, hiện đang ở vùng Houston, Texas,
Hoa Kỳ (năm 1985).
Nơi vùng kinh tế mới cũng có một anh
muốn tham gia nhóm cầu nguyện nhưng vì quá bận bịu với gia đình, anh ta không
đến được tối cầu nguyện nào. Anh kể rằng khi anh ta còn là học sinh tại trường
thánh Giuse Đà Nẵng, vào mùa hè, các thày dòng muốn làm hai sân bóng rổ nhưng
đất cứng quá không thể làm gì được phải cần nhiều nước mà nước đâu cho thấu nên
ra giải thưởng lớp nào cầu xin mưa được sẽ có một ngày nghỉ đi chơi. Mỗi lớp
theo thứ tự cầu nguyện nhưng chẳng thấy gì. Đến lớp anh ta, thày dòng phụ trách
cùng với cả lớp nhất trí cầu nguyện cho tới khi mưa mới thôi, chưa mưa, không
ngưng cầu nguyện. Ba ngày sau, trời mưa một trận nên hồn. Đà Nẵng vào mùa hè, nóng
gay gắt đến cháy da người, và có bao giờ mưa. Thế mà mưa! Lớp anh ta có một
ngày du lịch trên một chuyến xe đò. Tới khi đầm sân cho phẳng và đổ xi măng,
cần nhiều nước, lớp anh ta đã có kinh nghiệm lại thắng một keo nữa. Theo như
anh ta kể, lớp anh ta cầu xin được mưa vì thày dòng phụ trách và cả lớp tin
chắc rằng nhất định Chúa cho mưa bởi lời cầu của họ. Nghe những người trong
nhóm kể về những điều họ xin được, anh ta đoan chắc rằng tại họ tin nên được.
Thày Lành thầm đặt câu hỏi, tin là được ư? Thế thì đã bao lâu rồi, thực ra thày
chẳng tin vững rằng Chúa nghe, tại vì nghi ngờ! Nhưng những việc đã xảy ra lại
cứ như những sự trùng hợp ngẫu nhiên trong cuộc sống bình thường.
So sánh với những phép lạ, ơn xin
được loan truyền đây đó thì những biến cố xảy ra đâu có trùng hợp như những
trường hợp đã xảy ra trong nhóm cầu nguyện nơi thày ở. Thày Lành suy nghĩ nhiều
về vấn đề này, đặt nhiều câu hỏi tại sao, thế nào. Thật khó có thể trả lời
được, tất cả cứ như mây mù, mờ mờ ảo ảo. Mọi sự kiện theo ngày tháng dần chìm
vào quên lãng đến nỗi thày không nghĩ gì về sự cầu nguyện hoặc Chúa nghe hay
không nữa bởi sau thời gian đó thày thay đổi chỗ ở, trở về xứ nhà quê, chạy ăn
từng bữa và vất vưởng với ngày tháng dần trôi trong khi lên giường ngủ vào buổi
tối với một bụng nước lã, ngủ không được vì cơn đói hành hạ, lại thêm một bụng
nước nữa và mong sao cho trời mau sáng để rồi thiếp dần vào giấc ngủ trong sự
dằn vặt nơi cái bụng rỗng không. Khi trời sáng, lại mong sao cho mau tối vì
cuộc sống kéo dài mang đến nơi thày cảm giác một chuỗi ngày tháng vô vị, và
thày có cảm nghĩ rằng con người mình chỉ như con thú lần mò cho no cái dạ dày.
Tương lai mịt mù, thày Lành còn gì
để tính chuyện tương lai, để dám mơ ước đến cái ngày nào đó. Hai bàn tay trắng
có gì có thể làm vốn liếng kiếm tiền; dù chỉ một bữa ăn còn chưa đủ sao có thể
tính toán nọ kia. Đôi khi thày nghĩ, hay là lấy vợ. Lấy vợ đối với trường hợp
thày không khó chút nào nhưng lại tự cảm thấy lấy vợ là sẽ bị mang cái nhục
suốt đời. Không tiền, không nghề nghiệp, không chi hết vẫn lấy được vợ nhưng
sau đó sẽ ra sao? Dĩ nhiên phải nhờ vả vào gia đình vợ! Tiếng đời không bao giờ
rửa sạch, và về sau sẽ bị vợ khinh vì phải nhờ vả vào gia đình nó... "ăn
bám gấu quần vợ." Lúc êm ấm còn dễ chịu, nhưng khi bất hòa xảy đến, chỗ
nào cho thày độn thổ? Niềm cay đắng và cảm nghĩ bó tay bó chân thường dồn đến
nơi tâm tư mỗi khi thời giờ của bữa ăn một ngày hai lần tuần tự kéo tới. Sáng
đã nhịn, trưa vớ vẩn gì cũng được hay chạy quanh kiếm chén cơm ở một nhà nào đó
và tối đến, đa số là không có chi, nước lã và nước lã. Hôm nào may mắn lắm thì
có tiền mua được miếng bánh mì kẹp vài lát thịt mỏng như tờ giấy, thế là hạnh
phúc! Dầu anh em họ hàng đông nhưng họ còn phải lo cho họ; có vác miệng ăn rình
thì cũng phải nghĩ đến cái nhục của một người đầy tự ái! Chỉ một cái nhìn vô
tình, một thái độ bình thường, hoặc một câu nói quá quen thuộc của người trong
gia đình với nhau cũng khơi dậy nơi thày Lành mặc cảm rằng họ sợ mình ghé tới
nhờ vả hoặc trở thành gánh nặng cho gia đình họ vào cái thời buổi người khôn
của khó ấy.
Một người bạn giới thiệu thày đến ở
nhà mẹ vợ anh ta nơi vùng biển. Thày chỉ xoay đủ tiền để trả nửa tháng tiền
cơm; rồi leo núi đốt than... không thể chịu nổi! Thày đành xin tiền một người
bạn mới quen để về xe trở lại chốn quê nhà rình ăn từng bữa. Có một lần theo
người bạn đi rọc lá chuối; gọi là rọc nhưng thực ra ăn cướp. Những cây chuối
trong dẫy tư nhân sắp đến lúc trổ buồng hoặc đang có trái, có được tàu lá nào
lành, cắt trộm, rọc lấy lá đem về bán. Lỡ một lần, sợ quá vì làm như thế còn
chi buồng chuối, chắc chắn sẽ bị chột. Trong thời gian này, một nhận xét rõ
ràng đến với tâm tư; thày không còn biết trông cậy vào đâu! Thôi thì chỉ còn có
Chúa. Mỗi lần vô nhà thờ, để cho mặc cảm đắng cay dâng lên, và thầm thĩ rằng thày
không còn hy vọng chút nào nữa; chỉ có Chúa mới giúp được. Hai tuần sau, có
người nhắn ra đi làm ghe. Thày phải nói dối bà cô ruột để vay tiền đi xe! Đâu
ai dám tin mình mà chẳng nói dối.
Mới được sáu tháng, chủ ghe tính
chuyện vượt biên, có thày Lành trong đó canh chừng con anh ta. Chuyến đi bị
lừa, chiếc "hai xanh" vừa bắt đầu vô bốc khách thì công an, du kích
bắn xối xả. Một người chết; một người bị thương; ghe lên cạn. 11 giờ đêm, thày
nhảy khỏi ghe lao mình xuống nước thoát trong đêm tối. Con nước dâng cao, thày
bất kể sống chết nhoài, bơi, chuyền từ cụm cây nọ qua cụm cây kia, sao cho
tránh xa nơi chiếc ghe mắc cạn. Sợ, đói, khát! Nước mênh mông mà thày khát bỏng
cổ. Cố gắng tránh xa tiếng nói nơi chiếc ghe vọng tới; hồn vía tồn vào lời thầm
thĩ cầu xin; chính lúc này thày mới biết thế nào là đặt hết niềm tin vào lời
cầu. Còn gì để bám víu nữa đâu! Thày lại không thông thuộc đường lối rừng đước
nên bài học đức tin xem ra hữu ích nhưng khá mắc mỏ.
Mờ sáng, hai chân thày nát bấy với
những vết thương do gốc đước bị chặt vát ống dầu chìm sâu dưới nước như những
tác phẩm còn sót lại của những người lấy củi cắt rách. Bùn, rác kẹt vào những
vết rách nơi hai bàn chân trong khi nước ngập tới thắt lưng; dợm bước là phải
rụt chân lại bởi đau thấu xương! Một chiếc xuồng máy với ba tên du kích võ
trang súng ống trờ tới hỏi thày có phải là người vượt biên chạy lạc không thì
họ rước. Thày chối phắt, nói là mới đi đánh xịch với một người bạn lần đầu; anh
ta đẩy xịch đi đâu mất nên thày lạc luôn cả xịch vì tìm kiếm anh ta. Ba tên du
kích nói nếu thày nhận vượt biên hụt, họ vớt, nhưng thày vẫn chối trong khi tim
đập loạn lên! Chết! Vào tù, ai thăm nom. Thày nhất định không nhận; vả lại du
kích cũng nhận ra rằng không còn đường nào cho thày thoát khỏi bàn tay họ; họ
để mặc đó, lái xuồng đi chỗ khác kiếm mồi béo bở hơn và nói là sẽ trở lại bắt
thày sau.
Phải thoát, không thoát được thì tù!
Cảm giác đau đớn nơi hai bàn chân cũng không làm cho thày Lành chấp nhận vô tù
được. Thày tiếp tục lần từng bước dọc theo dòng nước đang hạ dần. Một chiếc tam
bản đi xịch chèo ngang qua; thày năn nỉ họ, hai anh em cỡ 16 đến 18 tuổi. Thày
định giá trả 40 đồng. Tiền đâu, họ hỏi! Chỉ còn biết hứa về nhà trả và chỉ cần
họ đưa thày tới khoảng lạch bên kia để tránh sự theo đuổi của du kích. Năn nỉ,
cam đoan, cuối cùng họ nhận và đưa thày tới một bờ khác, cỡ mười phút chèo xuôi
dòng nước. Thày Lành đành cởi áo ngoài hy vọng đánh lạc hướng ba tên du kích
nếu chúng trở lại bắt và tìm lối xuyên trong các lùm cây đước rậm rạp để kiếm
đường ra. Một con lạch khá lớn chận hướng đi tới quốc lộ 15; bùn lội tới đầu
gối, chân đau, sợ, mất sức khát, và đói... sao thày có thể bơi! Bên kia, 7 tên
du kích bắn ầm ầm và lục soát khắp nơi bắt người vượt biên. Bên này, thày nửa
sống nửa chết nhưng vẫn phải mò từng rước một cách vô cùng mệt mỏi, đau đớn.
Thày thầm thĩ: "Lạy Cha, thà rằng Ngài để con bị bắt ngay khi đêm, con còn
đủ sức đi theo họ, chứ giờ này, nếu chúng bắt được, sao con có thể lết theo
chúng!" Chẳng hiểu tại sao, bao nhiêu người, nào du kích, nào những người
đi đãi hến bên kia bờ mà không ai để ý đến thày vật vờ bên này bìa rừng đước...
Trời gắt nắng, đôi khi thày Lành
phải nhoài người trên bùn vì bước không nổi; bùn lại ngập tới thắt lưng; lầm
lũi tới được con đê ngăn nước mặn thì cũng đã là giờ không ai nghĩ rằng còn có
người vượt biên hụt nào còn sót lại. Bước qua bên kia con đê, thày lội xuống
ruộng lúa vớt nước lên giặt quần áo, rửa mặt và ngồi nghỉ một lúc. Cơn khát lúc
đó làm thày cảm thấy thoải mái với vài vốc nước lờ lợ của ruộng lúa nơi vùng
nước mặn. Chẳng cần để ý đến quần áo khô hay không, thày lang thang dọc theo
con đê tiến dần về phía bến ghe. Độ nửa tiếng sau, vừa bước chân xuống chiếc
ghe "hai bạc", ông chủ ghe, người thày đã ở nhờ ít bữa, hỏi một câu
lạ lùng:
- Sao, tôm tép phơi thế nào? Thuốc
hút nơi phòng máy, lấy mà hút.
Không hiểu ất giáp gì, chỉ ậm ừ cho
qua bởi quá mệt, mệt đến độ không muốn nói và tiến gần tới cửa phòng máy thì
ông lấy chân đẩy mạnh thày vào. Thày kiếm một chỗ nằm để ngủ; mấy phút sau, ông
chui vô nói:
-Thằng trưởng công an xã đang ngồi
nhậu, thay quần áo đi! - Trong khi ông đưa cho thày bộ đồ của ông và một ít
lòng heo sau khi sớt ra một nửa mang lên cho nhóm người đang nhậu.
Sau giấc ngủ, thày Lành ngô nghê dậy
tát nước chiếc ghe đi làm còn đang cắm sào ở đó thì công an tới lấy. Mọi người
nhìn thày dị kỳ; họ không nói nhưng ai cũng e sợ... Thày cố làm ra vẻ bình tĩnh
chống ghe ra cho công an như một người vô tình giúp và sau đó leo lên phía sau
chiếc xe đạp của một người quen vượt 7 cây số ngàn về chỗ ở. Không ai tin được
thày không bị bắt; chỉ mình thày hiểu; tất cả như một cuộn phim xác thực, vạch
rõ cho thấy từng chi tiết, những nguy hiểm kề sát và hiệu lực của lời cầu. Thày
không thể nào chối cãi được, không còn có thể nghi ngờ về giá trị của lời cầu trong
những lúc cấp bách dồn dập. Ba tên du kích, hai chàng đi xịch, du kích lùng
bắt, công an ngồi tại ghe, thế mà thày về tới nơi ở anh bình. Dường như có một
bàn tay ngăn chận tất cả và bịt mắt công an, du kích để không ai để ý đến thày
trong khi ai mà không nghi ngờ rằng vượt biên là có vàng mang theo.
Từ dạo đó, càng ngày thày Lành càng
nhận ra giá trị của lời cầu. Bất cứ trường hợp nào, khi cảm thấy không còn bám
víu vào đâu được, tài năng, sức lực của mình không giải quyết nổi; thày kêu cầu
tới Chúa, để mặc Ngài lo liệu và tin chắc rằng mọi sự sẽ qua. Kết quả thường
làm thày lạ lùng. Đến nỗi thày cũng phải nhiều lần ngạc nhiên bởi chỉ vài lời
thầm thĩ, phó thác cho Ngài mà có được những sự ngoài cả ý muốn. Sau này, kể
lại cho một vài người, họ cũng khó có thể tin được như thế. Họ hồ nghi rằng
thày nói dối hoặc phóng đại để tỏ ra mình quan trọng. Thày là gì mà Chúa nghe;
vì họ cũng thế, cầu nhiều rồi mà có thấy Chúa làm gì đâu!
Những lần vượt biên sau, 4 ngày 4
đêm lênh đênh trên biển; người trên ghe đông nghẹt trở về giữa ban ngày; các
ghe đánh lưới trên biển trông thấy mà rồi không ai bị bắt, cũng chỉ lời cầu.
Rồi những chuyện nho nhỏ, thày chẳng biết làm thế nào, tiền đâu, giờ đâu, thày
cũng chỉ còn biết để cho Ngài lo, và rồi được như ý muốn. Từ đó thày nghiệm ra
rằng nếu bất cứ gì, ngoài khả năng, nếu nó là ý hướng tốt, xin Ngài thực hiện;
tin chắc Ngài làm; cảm tạ Ngài; thế là xong, không cách nọ thì cách kia cũng
xong; không những như ý mà còn tốt đẹp hơn điều mình mong muốn. Bất cứ gì còn
có thể làm được, thày Lành cầu nhưng vì biết rằng mình còn nghi ngại, không gì
xảy đến; chẳng những thế mà sự việc đôi khi còn trở nên tối tăm hơn; tối tăm
chỉ vì nghi ngại!
Kinh nghiệm cho biết, không phải mọi
sự khó là không có thể làm; vì còn có Chúa để trông cậy. Tin, Ngài làm; nghi
ngờ, không chi xảy đến. Khi cầu nguyện, Chúa không trả lời đó là tại không tin
đủ, không chắc Ngài làm. Chỉ một chút xíu nghi ngờ rằng chẳng biết Chúa có làm
hay không là cầu cũng như cuội. Kêu cầu Chúa không nghe là tại không tin mà
chớ; chỉ có nghi ngờ Ngài mới không làm. Tuy nhiên, tin vào Chúa không phải chỉ
tin suông là đủ mà phải có sự cố gắng của chính mình, dùng khả năng Chúa đã ban
cho để cùng Chúa thực hiện công việc nơi mình.
Mặc dầu tin khi cầu nguyện và những
lời cầu đã được đáp ứng... nhưng thày Lành vẫn còn mặc cả: "Nếu Chúa muốn
con trở thành linh mục, Chúa đưa con đi. Con chấp nhận bỏ ra 5 năm tìm đường
vượt biên; tuy nhiên, ngày đầu tiên của năm thứ 6 là ngày hết 'giao kèo.' Ngày
đó cũng là ngày con bắt đầu chấp nhận cuộc sống buồn tẻ bình thường cho qua năm
tháng như mọi người chung quanh…..
… Hai năm rưỡi sau, thày Lành đặt
chân trên đất Mỹ và sống với người anh ruột ở Roanoke, Virginia…
3
Hello pha đơ, hau a giu! - Anh thày
chào vị linh mục người Mỹ khi gặp ngài nơi cuối nhà thờ sáng chủ nhật thày cùng
gia đình ông đi dự lễ.
- I'm fine, how are you?
Chỉ tay về phía thày Lành, người anh
bập bẹ:
- dit idz mai bờ rá dơ, hi dớt căm
lat oét đây.
- How are you doing? - Cha xứ ngó
phớt qua thày Lành miệng xổ tiếng Mỹ như cái máy rồi vội vã bỏ đi, chắc có
chuyện gì cần kíp. Thày Lành đớ ra, chẳng biết trả lời sao! Mình đang đi dự lễ;
ông ấy hỏi mình làm gì; sao lạ kỳ! Động từ "to do" nghĩa là làm gì
mà...!
- Cha ấy chào sao chú không trả lời!
- Ông ấy hỏi em làm gì sao em có thể
nói!
- Vậy mà chú cũng không biết à?
Học tiếng Anh tại Việt Nam, do giáo
sư anh văn người Việt dạy và chỉ đọc trên mặt chữ... thì chỉ có Chúa nghe dùm!
Mấy tuần chờ đợi đi học Anh văn, lòng thày Lành cũng xốn xang không hiểu rồi sẽ
ra sao... Lỡ học đòi làm người lớn ngay từ khi mới 12, 13 tuổi, phì phèo ngậm
điếu thuốc lá cho oai; chẳng may nhà hết thuốc hút; thày Lành đi bộ ra tiệm tạp
hóa gần nhà.
- Ai oăn to bai one boóx Sa Lem!
- Excuse me...
- Ai oăn to bai one boóc Sa Lem! -
Thày Lành cảm thấy ngột ngạt...
- What!... I couldn't understand...
Thế là tay thày tự động vung lên chỉ
vào những cột thuốc lẻ trên kệ:
- Sa Lem!
- What!
- Sha... Lem...
- This one? Người đàn bà Mỹ bán hàng
to kềnh càng đưa bàn tay với những ngón "chuối mắn" đặt vào từng cột
thuốc...
- Nô, Sha... Lem...
- This...
- Giét, giét.
- Oh! "Xế lầm!" How many?
Thày Lành mặt đỏ tía tai, có mỗi chữ
"xế lầm" mà không biết, lại cứ sha lem... Người Mỹ nói ngọng hay mình
nói ngọng!
- Oăn boóx!
- Do you mean a case, we don't have
enough!
Cái gì mà nói nhiều thế! Mình muốn
mua một cây thuốc Salem trong khi nó có mười mấy gói xếp chồng lên đó hơn một
cây rồi; cái gì case...?
- Ai oăn oăn boóx.
- Tell me, how many packs like this?
- Người đàn bà cầm một gói thuốc lên miệng xổ một tràng tiếng Mỹ.
- "ten"...
- Alright, you want a carton here
you are.
À, thì người Mỹ gọi cây thuốc là cát
tần. Cát tần là cây thuốc; cây thuốc Salem là "ơ cát tần óp xế lầm."
Anh văn của 7 năm trung học cộng thêm hai năm Văn Khoa và hai năm nơi chủng
viện chẳng giúp ích gì khi mua thuốc lá... Thày Lành lững thững trở về nhà, vừa
đi vừa ngẫm nghĩ... Sống trên đất nước này, mình phải biết ngôn ngữ của họ...
không còn cách nào hơn... vả lại cũng không thể trốn thoát...
Rồi ngày đi học tiếng Anh cũng
đến...
- Chú đứng chờ ở đây đón chiếc xe
bus số 10 tới trạm... chú xuống, rồi bắt xe bus đi về... và đổi xe lần chót ở
trạm... - Ông anh dặn dò rồi lái xe đi làm.
Một lô tiếng Mỹ lòng thòng ông anh
viết ra giấy cho thày Lành... Tên ngố giữa rừng người... thày thầm nghĩ... lần
đầu tiên đi xe bus tại thành phố Mỹ... Xe ngừng mấy lần, chẳng thấy có bảng nào
ghi tên trạm thì làm sao kiếm được những tên anh mình đã dặn... hơn nữa, nếu
lỡ, mình sẽ bị xe đưa tới đâu... sao mà về...
- Giu tel mi... Thày Lành nhờ người
đàn bà ngồi cạnh trong khi lấy ngón tay chỉ vào tên trạm xe bus đầu tiên..
- Ừ hứ! I will...
Và rồi trạm kế tiếp... chỉ còn 10
phút nữa tới giờ học; vả lại, thày Lành không biết sẽ còn bao lâu nữa mới đón
được chuyến xe bus thứ 3 rồi còn lớp học... đành bắt đại một chiếc taxi. Nơi
đồng đất nước người, thày lại e ngại lỡ ra bị bịp, nhất là mấy anh tắc xi, chúa
chổm ma giáo, cứ để thiên hạ leo lên xe chẳng có đồng hồ tính tiền và chạy vòng
vo tam quốc để đòi trả cho nhiều. Không chịu trả, hắn la toáng lên làm khách đi
xe cảm thấy quê chịu không nổi đành trả phứt cho xong. Trong túi thày Lành lại
chỉ vỏn vẹn có 8 dollars... lỡ bị tên tài xế taxi đánh lừa như ở Việt Nam, làm
sao trở về nhà... Chiếc taxi rề rề ghé lại; người tài xế mở cửa, nhưng thày
Lành đi vòng qua bên hông tài xế, đưa ra miếng giấy ghi tên trường...
- How much?
- Three "bấk".
Cái gì mà bấk? Nó đòi 3 chục? Thày
nghĩ.
- What?
- Three dollars.
-" Ai đu nót hev mor!"
- Oke, I will get you three dollars
only.
Những hành lang trường học nối tiếp
nhau chia đi lung tung làm thày Lành phải dừng lại hỏi bởi chưa bao giờ biết về
hệ thống đánh số phòng. Sao mà nhà trường này lắm phòng thế. Những ba trăm mấy
chục phòng thì đi bao giờ mới hết!... Còn đang dồn bước cho kịp tới lớp ở mãi
tận cuối hành lang, một hồi chuông reo như xé màng tang ngay trên đầu tường
ngang chỗ thày đang đi. Đây đó vài cái chuông cũng ầm lên thi nhau vọng lại.
Phiền quá, mới lớp học đầu tiên đã trễ! Thày Lành ít khi bị trễ lớp bởi rất sợ
bị thày giáo xách tai hoặc chí những cái đau điếng nơi cánh tay mãi đến khi về
nhà cởi áo ra coi vẫn còn vết thâm bầm... Hành lang trở thành trống trơn sau
hồi chuông vì một số người Mỹ tụ tập nói chuyện ở gần cửa đã vội vã vô lớp...
Còn lại mình thày Lành, nổi bật giữa hai dãy tường kèm theo tiếng vang rõ ràng
của đế giầy trên mặt gạch vọng mãi tới những hành lang yên tĩnh xa lắc nối tiếp
khác...
Vừa đến cửa lớp, người người đã ngồi
chỉnh tề nơi vị trí của mình; mọi cặp mắt hướng về phía kẻ tới muộn... Kinh
nghiệm nơi những lớp học thời ấu thơ gợi về khiến thày Lành cảm thấy mình như
bị một áp lực nặng nề nào đó dồn tới làm cho khó thở... Đủ mọi thứ người, màu
tóc, màu da khác nhau. Đây đó vài chiếc đầu đen ngồi gom lại nhưng hình như Đại
Hàn hay Nhật; số còn lại toàn người Mỹ... Thày Lành cảm thấy hơi ngán...
- "Hai!"
Bà giáo ngồi nơi bàn riêng giữa đầu
lớp học, ngưng viết ngước lên hướng qua thày Lành vừa chợt chùn chân nơi cửa.
Miệng bà đỏ chói với lớp son buông lời ngắn gọn, lạ hoắc. Chưa bao giờ thày
Lành gặp tiếng Mỹ ngắn và gọn như thế này. Cái gì mà "hai". Còn đang
quê chết người bởi tới trễ, mọi cặp mắt dường như vẫn đang dính chặt trên mình;
giờ lại đụng tiếng chi lạ kỳ: "hai." Bà giáo nói chi thế! giống như
tiếng "Ê" người ta gọi bồi bàn. Chắc có lẽ tới trễ là cả một vấn đề
quan trọng nơi đất nước văn minh này nên bà giáo dùng tiếng "Ê" nói
lên phần nào rằng mình bất lịch sự vì trễ giờ... Thày Lành chợt cảm thấy sững
sờ; mặt nóng bừng bừng bởi máu dồn lên; vội cúi đầu chào trong khi miệng câm
như hến bước vô kiếm chỗ ngồi...
Thiên hạ nói chuyện như sáo với bà
giáo khi được phát bản thi khả năng văn phạm Anh ngữ làm thày Lành sợ đến rét
cả người. Họ nói nhanh như gió mà còn học lớp này trong khi thày chẳng hiểu gì
thì làm sao có thể theo... Có lớp ESL (English as a Second Language) nào thày
đã ghi danh hết, nào "reading," văn phạm, "composition,"...
Lớp này là lớp văn phạm cho những người ngoại quốc thế sao những người Mỹ này
giỏi như vậy mà còn phải học lớp này... Rồi "tiếng" mà bà giáo nói
ngắn gọn lúc thày vừa tới cửa nghĩa là gì; bà giáo nghĩ gì... Tất cả cứ xoay
quanh trí óc khi thày làm bản thi...
Mang tiếng học Anh văn mà cả giờ chỉ
hí hoáy với một bản thi trong khi thiên hạ chỉ nửa giờ sau đã ra về hết... Khổ
nỗi... thật là không may cho mình, đã học Anh văn đâu mà thi; thôi thì cứ
"bói," a, b, c và khoanh bừa đi... Nhớ lại kỳ ở Việt Nam, thằng em kế
về kể có thằng bạn đi thi; chẳng chịu học hành gì, bắt theo con kiến càng cho
chạy trong cái hộp có 4 ô a, b, c, d rồi chấm theo cho môn vạn vật. Kết quả hắn
lại trúng hết... Mình kiếm đâu ra kiến giờ này... Mấy câu hỏi lõm bõm chữ hiểu
chữ không, đổi đại mấy động từ cho thành câu trả lời... đem nộp cho bà giáo,
miệng lắp bắp "guốc bay" với tâm trạng ngượng ngùng không biết sao
trả lời khi bà giáo nói: "See you next class."
Đang bước vội vàng nơi hành lang bởi
chỉ còn 4 phút nữa là lớp "reading" bắt đầu, khi vừa ngang cửa phòng
một lớp học, một ông Mỹ đang ngồi tại bàn giáo sư giơ tay chào miệng buông
tiếng "hai" với một người Mỹ đang đi bên cạnh thày Lành có lẽ cũng là
giáo sư đang đi tới lớp. Ông này vội giơ tay hướng về phía ông kia, miệng bật
tiếng "hai." À thì ra "hai" là câu chào mà mình không biết.
Rõ ngớ ngẩn, mình biết tiếng "hello," "good morning,"
"good afternoon," "good evening," mà tiếng "hai" không
hiểu nghĩa là gì... Kinh nghiệm nào không phải trả giá....
Thày Lành thậm chí khổ sở trong sự
cố gắng, hết sức vật lộn với cái ngôn ngữ quỉ quái viết một đàng đọc một nẻo
này. Bà giáo dạy lớp "reading" lại còn bồi thêm: "You have to
dream in English" khi nói chuyện với bà ta ngoài giờ học. Thật là bực
mình, làm sao mà "dream in English!" Đến ngay nói ngọng trếu ngọng
tráo mà còn rặn từng chữ như kẻ táo bón lâu ngày phải kèm theo những tác động
vung chân múa tay quay suồng theo ngôn ngữ quốc tế mà thiên hạ vẫn sòn cứ
"excuse," "pardon," "what" tới tới lui lui nữa là
"dream in English"... Bà muốn bắt tôi phải biến thành Mỹ vàng ư? Tôi
là người Việt Nam, dân bắc kỳ "dốn"... Thày Lành thầm bực bội...
Mình đã mặc cả với Chúa là trong năm
năm nếu vượt biên được là ý Chúa muốn mình tiếp tục đi tu... Phải kiếm chủng
viện theo học thế mà Anh ngữ chưa xong, biết sao bây giờ... Nhờ ông anh hỏi cha
xứ về địa chỉ chủng viện, cha xứ nói cứ hãy học xong Anh văn đã. Những lớp học
Anh văn thì chẳng thấy chữ nào về triết học và thần học cả... Học ba chữ buôn
bán, chào hỏi thì vô chủng viện cũng chẳng hiểu chi... Ôi! Cái nhà trường Mỹ
cũng giống như dân Mỹ, chữ mình muốn học không thấy, chỉ những chữ vớ vẩn đâu
đâu lại đầy rẫy nào có khác chi nói một đàng viết một nẻo...
Thế rồi cũng mò mẫm biết được cha
Huân ở Richmond, Virginia, thày Lành viết thư hỏi về chủng viện. Gần tháng sau,
một bao thư cứng ngắc từ một phương trời xa lạ với địa chỉ chưa bao giờ nghe
thấy gửi đến bao gồm một xấp hồ sơ mẫu cần được điền kín các chi tiết kèm theo
là một lá thư cha Hùng nói là cha Huân chuyển thư của thày Lành cho ngài. Ngài
dặn đây là hồ sơ nhập chủng viện và phải có 3 giấy giới thiệu trong đó bao gồm
ít nhất giấy giới thiệu của một linh mục... Nghe đâu cha Thu là anh em họ xa cỡ
vài trái đạn đại bác 220 ly đang làm việc tại Philadelphia, thày Lành gọi điện
thoại nhờ người anh em hỏi cho được số phone của ngài... để xin giấy giới
thiệu...
- Father Peter Thu...
- Xin chào cha, con là Lành, em anh
Trung con ông Trần. Con cần giấy giới thiệu của một linh mục để nộp vào hồ sơ
xin nhập chủng viện ở Iowa; xin cha giúp cho con...
- Tớ đâu biết cậu mà viết giấy giới
thiệu...
Bà nội mình vẫn còn nhận họ với bố
mẹ ngài; rồii mẹ mình cũng nói còn anh em, ngài là vai trên dầu xa nhưng mình phải
gọi ngài là bác... Thế mà ngài trả lời "Tớ đâu biết cậu"... Vậy những
lần gặp mặt anh em chủng sinh tại xứ cũ, rồi tập hát, rồi trình diễn văn
nghệ... mình lại là đứa dám mặc chiếc mini sutan đầu tiên đi nhà thờ quì nơi
gian cung thánh để rồi Nguyễn Hoàng Đắc nói mình bạo phổi... Thế mà ngài nói
không biết... hoặc vì gọi điện thoại, ngài không thấy... nên không biết... Ông
cha nào thuộc địa phận Nha Trang chạy loạn sang bên này... Sao mà kiếm!... Thày
Lành cố moi trí nhớ xem có biết cha nào khác ngày xưa mình quen biết không, vừa
chán nản, vừa bực mình... "Tớ đâu biết cậu... tớ đâu biết cậu..."
12 tuần của khóa học mùa thu thấm
thoát rồi cũng qua. Thày Lành kiếm gặp giáo sư toán xin lấy "Test"
Calculus 1 và 2 vì đã học năm MPC ở Việt Nam. Vào một buổi sáng, đang học ôn
cho kịp ngày hẹn thi thì chuông điện thoại reo:
- Hello,
- Có anh Lành đó không, tôi là cha
Hùng tại Iowa muốn gặp.
- Thưa cha, con đây.
- Sao, có định đi tu thật không đó
mà chưa thấy giấy tờ gửi tới nhà trường chi hết?
- Con đang chờ giấy chứng nhận Rửa
Tội và Thêm Sức từ Việt Nam; hơn nữa, con cũng chưa kiếm được linh mục cho giấy
giới thiệu.
- Vậy có định đi tu thật không?
- Thưa cha, con năm nay 32 tuổi rồi
có gì mà phải nói thật với không. Chẳng lẽ con muốn phí thêm thời gian vì không
biết mình muốn gì nữa sao!
- 32 tuổi rồi cơ à! Khỏi cần giấy tờ
vội, cứ mua vé phi cơ lên thẳng đây rồi giấy tờ tính sau. Lên đây, cha sẽ lo
cho. Ngày khai học là 13 tháng 9; lo mua vé và sau đó gọi cho cha biết chuyến
bay để cho người ra phi trường đón. Nhớ phi trường Epworth, Iowa.
- Thưa cha vâng, con sẽ nói anh con
mua vé phi cơ ngày mai rồi gọi tới cha...
-
Được rồi,,, cứ như thế, đừng lo gì hết.
Gánh nặng ngàn
cạn được trút khỏi, thày Lành lo sắp xếp quần áo vì chẳng còn mấy ngày…
4
-
Lấy hai cái 25 cent bỏ vào lỗ nhỏ này; rồi chọn loại
nước muốn uống; ấn cái nút phía dưới thì lon nước sẽ rơi xuống chỗ này... Nhớ
rằng chỉ loại "quarter" thôi, máy không nhận "dimes" hay
"nickels"...
Anh nghĩ tôi ngu đến độ không biết
mua lon nước ngọt hay sao mà phải rườm lời thế. Quân Mỹ tụi anh cứ tưởng chỉ
các anh là biết hết mọi sự, còn các dân khác là ngu muội. Nơi phi trường, tôi
đã thấy người ta mua rồi, cần gì phải nói. Tôi còn biết cách làm hay hơn anh
nữa, chỉ cần ấn nút, đá mạnh vào máy là có lon nước chứ cần gì phải bỏ 2 cái
quarters cho tốn phí!... Thày Lành ráng nhẫn nhục theo anh bạn Mỹ đầu tiên được
phái tới đưa mình xuống phòng cơm ăn sáng và giới thiệu trường sở đồng thời chỉ
dẫn những điều cần thiết muốn biết. Điều thày Lành muốn biết là lối đi lên
xuống từ phòng ăn, tới nhà nguyện, lớp học và trở về phòng ngủ thì không thể
xác định để nhớ hết được; anh bạn Mỹ hướng dẫn cứ chỉ những điều vớ vẩn không
cần thiết...
- Cầm cái cơ như thế này, để tay
trái như vầy, thục mạnh để "break" rồi chọn banh "strike"
hay "solid," nhưng không được đánh trái số 8 đem ngòm kia vô lỗ trước
khi đánh hết 7 trái của mình vào các lỗ. Nếu trái số 8 vô lỗ trong khi còn trái
của mình trên bàn, tức là mình thua...
Cái mục bida lỗ này mà thú vị; sau
sơm trưa, thày Lành lò dò xuống bàn bida, một mình bao luôn hai phe thục bida
lỗ... Và rồi một tuần sau, người bạn Mỹ đã chỉ thày Lành cách để tay thế nào...
đã không bao giờ còn có cơ hội thắng thày dù chỉ một bàn... Tôi muốn nói cho
anh biết... Cái tên mà anh nghĩ là mọi rợ đến độ phải chỉ dẫn cách bỏ đồng 25
cent mua nước ngọt không dốt nát như các anh tưởng đâư!
- Lấy cây chống này kê mà đánh!
- Khỏi cần, thục bida một tay mới
hay chứ dùng cây kê đó thì quá thường rồi...
- "Good shot!"
- Tôi sẽ đánh trái số 3 kia vô lỗ
góc đó.
- Anh có khùng không?
- Yên chí đi, tôi đánh trái banh
trắng nhảy qua hai trái số 5 và số 8 rồi mới đẩy trái số 3 vô lỗ...
- Anh đánh kiểu gì vậy, chưa thấy ai
đánh như thế bao giờ!
- Mình phải sáng tạo mới hay chứ!
...
Bida lỗ chơi thì dễ; những tối
"bar" của nhà trường mở cửa, uống bia nói tiếng Anh văng mạng thì dễ,
nhưng Anh văn vẫn là mối trở ngại lớn lao dẫu thày Lành hay nói, dám nói, và
muốn nói cho quen với cái tiếng Mỹ ngọng ngoẹo này. Thật cả một cực hình cho bộ
óc lý luận phải nhớ nghĩa từng chữ, phải nhớ cả nói nhấn vào vần nào, và vần đó
phải trẹo quai hàm phát âm ra sao. Hơn nữa, Anh văn giống như một thứ ma quỉ,
càng cố gắng học lại càng thấy nhiều chữ không biết, càng cố gắng nói cho trúng
giọng, lại càng nói trật... Bao giờ mới có thể nói tiếng Mỹ cho trôi chảy, bao
giờ mới hiểu hết được những lời người Mỹ nói ra... Thày Lành nhiều lần muốn
khùng lên vì cái tham vọng muốn nói và đọc sách tiếng Anh cho trôi chảy... Không
đọc, không nói được tiếng Anh, sao có thể đi tu làm linh mục nơi đất nước
này...
- "Please, open it up."
Một chị người Mỹ tay ôm chồng sách,
tay kia xách chiếc xắc cũng chứa đầy sách đến trước cửa thư viện lúc ấy thày
Lành cũng đang đứng xớ rớ nói chuyện với một người bạn... Cái gì là "open
up"... Chị ta muốn mình nâng chồng sánh ở tay cao lên hay sao mà
"up"... Nhưng sao lại "open"... Người bạn cũng chẳng hiểu
gì nên giống như thày Lành; cả hai còn đang giương mắt ra nhìn không hiểu chị
ta muốn gì... Thấy hai người nhìn mình không nói lại cứ đứng yên chằm chằm dòm,
chị ta nổi cơn điên, giơ chân đạp cái bình vô cửa thư viện chỉ được khép bởi
nhún tự động miệng buông tiếng thô cộc "Sh..." rồi giận dữ ngúng
nguẩy bước vô. À thì ra "open it up" là mở cửa ra. "Open"
là mở đủ rồi, mắc mớ gì lại thêm chữ "up"... Đòn đau nhớ đời!
"Open it up" nghĩa là mở nó ra, có vậy thôi mà cũng không biết...
Tiếng anh với tiếng em kỳ cục...
Sống tại nhà trường Mỹ, vấn đề ăn
nói đã khổ; học với người Mỹ mà nghe tiếng Anh như vịt nghe sấm lại càng đau
đớn hơn... Hỏi bạn cùng lớp thì quê, tự ái vặt cứ cao ngút ngàn; không hỏi
chẳng biết lối nào mà rờ. Những bài phải đọc cho lớp "Bio-Ethics" với
những danh từ chuyên biệt làm thày Lành nản chí. Câu nào cũng phải lật tự điển
mà nào phải chỉ một chữ trong một câu, có khi tới 5 chữ không hiểu nghĩa. Dùng
tự điển Anh Việt, dù có tra hết mọi chữ cũng không thể nào hiểu được ý của câu
văn nói gì mà dùng tự điểm Mỹ thì cả tiếng đồng hồ hãy còn mù tịt. Lật được chữ
này, thêm vài chữ mới nơi định nghĩa, rồi lại cứ tiếp tục những chữ lạ hoắc.
Sao mà tiếng Anh lắm chữ thế?... Để rồi cuối cùng, không thể tra tự điển cho
hiểu những bài đọc, thày Lành quyết định chấp nhận bỏ lớp Bio-Ethics.
Niềm cay đắng từ ngôn ngữ khiến thày
Lành e sợ. Đọc mà không hiểu như thế này, nói lại như mắc họng mà nghe thì lõm
bõm, cứ phải đoán mò... mò đến độ trật lất ý người nói thì sao mà có thể học
thần học... Thôi thì đành chấp nhận mặc cả với Chúa lần nữa. Mình hết sức rồi
mà vẫn cứ dậm chân tại chỗ... Suốt một tuần thày Lành chỉ một câu cầu nguyện:
Lạy Chúa, con cố gắng học tiếng Anh mà không thấy khá hơn, chỉ càng ngày càng
lắm chữ không biết... Nếu Chúa muốn con tiếp tục ơn gọi làm linh mục, xin mở
tai con ra để nghe, mở miệng cho con nói, và mở trí óc cho con hiểu. Chúa không
cho con phép lạ này, trách nhiệm về Chúa... Con mệt cùng đường rồi... cần phải
nghỉ, nếu cứ tình trạng này, son sẽ bị khùng vì ngôn ngữ... Một năm rưỡi học
Anh văn với 18 "credits" triết và tâm lý rồi cũng qua, thành Lành
được gửi về nhà tập, tiếp đó vào thần học... Sau ngày chịu chức linh mục, nhớ
lại hai cuộc "mặc cả" vượt biên và Anh văn, cha Lành vô nhà nguyện
thầm thĩ: Bây giờ con mới biết, con được hai điều mặc cả với Chúa và Ngài đã
thắng chính con... Từ đây, Chúa muốn dùng con làm gì…..”
5
Hai chiếc nhà di chuyển bằng bánh xe
(trailler) được đặt đấu đầu vuông thước thợ nhưng cách nhau chừng 10 mét bởi
hai cây oak già rợp róng mát lên mái cho đỡ nóng vào những ngày tháng hạ. Tàn
cây vươn rộng che nắng luôn cả khoảnh sân nơi đó kê một chiếc bàn ọp ẹp như
muốn khụyu xuống bởi muôn thứ dụng cụ; nào kìm búa, đinh, khăn lau, cả những
bịch đồ ăn khô và nước ngọt. Dưới gầm bàn, đồ đạc bày biện như một kho chứa đồ
cũ khiến người mới trông thấy tưởng rằng tiệm bán đồ lạp xoong. Một ông già
ngồi nơi bàn trên chiếc ghế cũ kỹ không kém đang dùng muỗng ăn miếng bánh ngọt.
Hai đứa nhỏ, một trai, một gái cỡ chừng 4 đến 5 tuổi, có lẽ hai anh em mặt mũi
lem luốc đang vui vẻ rượt mấy con gà bu lại nhặt nhạnh những mẫu bánh rơi
rụng... Mấy con gà kể cũng dạn người, chúng chỉ rướn lên nhảy ra xa vài bước
khi đứa trẻ bước gần tới chụp... Con bé vồ hụt chú gà trống té lăn quay nhưng
có lẽ dạn dày với những trò săn đuổi này nên không tỏ ra đau đớn gì, lồm cồm
chống tay bò dậy phủi đất cát nơi đầu và cánh tay đoạn tiếp tục rón rén bước
gần tới chị gà mái giang tay muốn vồ. Cô bé còn ngây thơ quá, vồ gà mà giang thẳng
hai tay như chim bằng cánh thì sao mà chụp được nên may ra đụng phớt bộ lông đã
lấy làm thích chí cười như nắc nẻ khi con gà nhảy cỡn lên chạy ra xa. Chú bé
anh cô khôn hơn, không thèm chạy đuổi theo gà, đứng gần ông già; khi gà tới mổ
những vụn bánh rơi xuống từ bàn mới cúi người, rón rén giơ hai tay về phía
trước chụp cái đuôi. Con gà bị chụp giật mình kêu quang quác rồi nhảy dựng lên,
bung hai cánh cố sức quạt kiếm cách thoát thân khiến chú nhỏ té nhủi vào chân
bàn rồi lăn chổng kềnh trong tay vẫn còn nắm chặt hai chiếc lông đuôi trong khi
anh gà cồ chạy thoát vài bước, ngơ ngác như vừa thoát nạn đoạn quay lại, chiếc
đầu nghênh nghênh lắc qua bên nọ, liếc qua bên kia tỏ vẻ chiêm ngưỡng tác phẩm
vượt thoát của mình...
- Chào cha...
Ông già vừa nhìn thấy cha Lành vội
đứng dậy chào. Hai đứa trẻ cũng quên đuổi bắt gà, hướng về phía chiếc xe nơi
cha Lành đang bước ra khỏi cửa, đưa tay vẫy vẫy miệng bi bô "chào
cha" theo ông già.
- Chào ông cụ.
Ngài hướng qua hai đứa nhỏ...
- Chúng con bắt được con nào chưa?
- Chưa, chúng cứ chạy, - Nhỏ anh trả
lời đoạn giơ hai chiếc lông đuôi gà tiếp tục bi bô - Nó khỏe lắm, nhảy lên cái
vù và kéo con té kềnh ra, chỉ nắm được lông đuôi.
- Sao con không chụp cái đầu nó...
- Có chứ, lần trước con vồ được cái
đầu thằng cồ kia, nó đá con lung tung rồi chạy mất.
- Nó đá đau không?
- Không đau mấy, đau vừa vừa thôi,
nhưng cánh của nó đập vào đầu con rát lắm...
Quay qua bé gái, ngài hỏi:
- Con có chộp được con nào không?
- Nó nhanh lắm, con vồ hụt té cái
đụi, lấm hết!
Con bé có vẻ tỉ mỉ hơn thằng anh;
sau nét lem luốc là gương mặt bầu bĩnh vui tươi sáng sủa với cái miệng như muốn
cười và cặp mắt biết nói.
- Khi nào con bắt được, kêu cha làm
thịt nấu cháo nghen. Con thích ăn cái gì?
- Cái chân con gà mái kìa, nó chạy nhanh
lắm...
- Con ăn cái chân thằng cồ, nó đá
con lung tung... cả cái cánh nữa, nó đập và đầu con.
- Vậy còn mấy đứa choai choai kia...
- Chúng nhát thấy mồ - thằng anh nói
- chưa tới gần chúng đã chạy... Nó cũng không dám mổ cherios ở tay nữa nên không
nắm được cái đầu bao giờ.
- Đợi chúng lớn tí nữa, con sẽ nắm
được cái đầu, thế rồi nó lại đá lung tung con có sợ không?
- Không, nắm đầu nó thích lắm, nó
quạt cánh tối mù hà...
- Tụi con rượt gà tiếp đi để cha nấu
cháo... - Cha Lành xoa đầu hai đứa nhỏ, hướng về phía ông cụ đang đứng đó mỉm
cười nhìn hai đứa cháu líu lo.
- Bà cụ ở trong nhà?
- Thưa cha vâng; con đã nói với bà
ấy là cha tới.
- Thôi, tôi cho bà cụ rước Mình
Thánh.
- Thưa cha vâng.
Hai vợ chồng ông bà cụ kể cũng tội!
Sống trong đất nước giầu có như thế này mà nghèo thật nghèo. Căn phòng hai ông
bà cũng chứa đủ mọi thứ đồ cũ lỉnh kỉnh như một đống rác. Trời nóng như tạt vào
mặt mà không có máy lạnh; chỉ một chiếc quạt vuông bám đầy bụi nơi khung sắt
phần phật quay thổi hơi từ phía ngoài vô nơi cánh cửa sổ đầu giường. Cũng may,
nhờ tàn cây oak không khí đỡ nóng được phần nào. Ông cụ người trung bình; còn
bà cụ thì khá to lớn... Có mỗi mụn con trai lập gia đình được hai đứa con; khi
đứa bé gái mới 1 tuổi, vợ chồng hục hoặc bỏ nhau rồi người nào đi đàng nấy để
lại hai đứa trẻ một tuổi và hai tuổi cho ông bà già chăm sóc. Hơn nữa, nhà lại
chẳng có phone nên lỡ có chuyện gì cũng thậm chí khổ... Tiền bạc hàng tháng
chẳng được bao nhiêu bởi ngày xưa đi làm không đóng tiền an sinh xã hội... Cũng
may, sống trên miếng đất cha mẹ vợ để lại nên không phải trả tiền thuê nhà; tất
cả chi tiêu chỉ hạn hẹp đủ với số tiền già ít ỏi tạm cho qua ngày... Bà cụ mới
bị mổ không đi nhà thờ được nên nhờ người nói cha đưa Mình Thánh... Dân Chúa
thật thậm chí khổ, rồi khi có chuyện cần kíp biết tính sao đây... Cha Lành thầm
nghĩ, khu đất lại tách biệt một nơi thưa thớt nhà cửa... Xin giúp họ tránh khỏi
những chuyện cần kíp khó bề tránh thoát... Lòng ngài chùng xuống, ngậm ngùi nói
lời chào, và đưa tay vẫy vẫy hai đứa bé lững thững bước ra xe tiếp tục mang
Mình Thánh đến nhà khác.
Không những hàng rào sắt ọp ẹp
nghiêng ngả mà chiếc cổng lại cứ như muốn đổ sập vô xe khi chạy ngang qua.
Đường mương phía ngoài hàng rào sẵn sàng chờ đợi người lái vô ý đưa bánh xe
xuống hố... Vài chiếc xe cũ kỹ không biết từ bao nhiêu đời ngự trị choán hết
phần sân ngay cổng chỉ để chừa lại vừa đủ chỗ cho một chiếc xe đậu. Đám sân cỏ
mọc cao lưng chừng đầu gối, chỗ xanh, chỗ héo úa giống miếng da beo như thể
được con mắt thẩm mỹ cố tình sắp xếp cho hòa hợp với hàng rào nghiêng ngả, rỉ
sét và những chiếc xe bong sơn loang lổ, e sợ được cắt xén sẽ làm cho mất bớt
vẻ nghệ thuật.
Phía trước căn nhà được bọc lưới
ngăn muỗi biến mái hiên thành một hành lang dài trong đó một chiếc bàn tròn
ngổn ngang đủ mọi thứ chồng đống trên mặt. Có vài vật rơi cả xuống sàn gỗ ọp ẹp
mà mỗi lần bước qua cứ rung lên khiến cho người ta có cái cảm giác sẽ bị rơi
sập xuống bất cứ lúc nào. Bước qua cánh cửa trước, căn phòng khách tối om hiện
rõ màn ảnh tivi luôn luôn ồn ào khiến vài chiếc nệm nâu thẫm nằm trong vùng tối
lại càng như bị tối hơn, âm thầm chịu đựng cảnh cô độc không được ai đoái hoài.
Ánh đèn néon 4 tấc nơi góc trần nhà mãi tận vách tường bên kia đối diện với
chiếc tivi không đủ soi rõ bộ mặt bà cụ mập mạp đến độ đầy vẻ bệnh hoạn, suốt
ngày ngồi đó hướng về những thay đổi trên màn ảnh giết thì giờ cho qua năm
tháng chẳng biết làm gì.
Bước dọc theo phòng khách, cha Lành
lên tiếng:
- Chào bà, bà khỏe không?
- Cũng thường vậy, thưa cha.
Mới gần tới chiếc bàn, một mùi hôi
thối nồng nặc quất vô mũi khiến ngài muốn ngộp thở. Phản ứng tự nhiên chận chân
dừng bước nhưng lý trí ra lệnh cha phải tiến tới. Chạy sâu về phía trái là khu
vực bếp với cái thùng rác đen ngòm to tổ bố đặt kề ngay bên cửa ra phía sau; có
lẽ mùi hôi thối bốc ra từ đó. Mặc dầu nơi vách tường bên tay phải ngài chiếc
máy lạnh ồ ồ thổi vô nhưng mùi hôi thối vẫn nồng nặc đến nỗi khí lạnh cũng
không thể nào làm giảm bớt. Bà cụ vẫn tỉnh như người tịt mũi bởi quá quen thuộc
đến độ không còn cảm thấy mùi vị gì nữa, đưa tay đẩy vài thứ lặt vặt trên mặt
bàn chờ đợi.
- Bà đã sẵn sàng chưa.
- Thưa cha rồi.
- Bà có cần xưng tội không?
- Thưa cha không, hôm ở nhà thương
con đã xưng tội cách đây một tuần.
Sau khi cho bà cụ rước Mình Thánh,
cha vừa quay lại bước trở ra thì một người đàn bà trẻ, có lẽ là con bà cụ, mở
cửa tiến vô. Ngài bước vội tới chào và nói:
- Hình như chiếc thùng rác đã quá
lâu rồi nên xông mùi khó chịu quá, từ lần sau, chị làm ơn bỏ thùng rác ra ngoài
vào buổi sáng dùm...
Lần sau ngài đưa Mình Thánh tới, căn
nhà được quét dọn tươm tất hơn nhưng mùi hôi thối vẫn còn; không hiểu vì lý do
gì nhưng ngạt thở quá... Liếc nhìn sơ qua khoảng hở giữa tủ lạnh gần ngài xem
có dự đoán được nguyên nhân gì chăng; vẫn không có được câu trả lời.
- Vài năm trước tôi đưa Mình Thánh
cho bà ta cũng đã hôi thối như vậy. Không thể hiểu sao người ta có thể chịu
được.
Cha tuyên úy nhà thương nói với cha
Lành. Thật ngại ngùng khi phải bước vào đưa Mình Thánh cho bà cụ nhưng chẳng có
cách nào từ chối... Nói với bà cụ ra phía trước nơi bộ sa lông, thì cũng chỉ
được một lần, rồi bà cụ quên, vẫn ngồi yên chỗ cũ. Biết sao hơn! Có nhắc lại e
phiền lòng, không nhắc phiền mình, cha Lành lẩm bẩm khi bước lên xe tới nhà một
người bị bệnh ung thư mà bác sĩ cho biết chỉ còn có thể sống tối đa được hai tháng…
6
Về tới nhà xứ khi cây kim đồng hồ
đeo tay chỉ vừa đúng 11 giờ trưa... "May mắn, không bị trễ..." ngài
nghĩ, nhưng người hẹn vẫn chưa tới. Đi thẳng vô nhà bếp định lấy ly cà phê,
bình cà phê không còn một giọt. Ngài lấy nước đổ vào máy...
- Cha để con pha cho... - Chị bếp
vội vã...
- Không sao, tôi pha cũng được mà,
chị lo nấu cơm đi.
Vừa bưng ly cà phê tới văn phòng đã
có ai bấm chuông bên ngoài... thì ra hai mẹ con hẹn đến về vấn đề xin rửa tội
đứa nhỏ.
- Mời vô, đi theo tôi...
- Con đến xin cha rửa tội cho cháu
nhỏ mới sanh.
- Ở nhà gọi điện thoại cũng được đâu
cần phải đến nhà xứ. Thế cháu nhỏ sanh được bao lâu rồi?
- Dạ 7 tuần.
-Vào mỗi tối ngày thứ 5 đầu tháng
lúc 7 giờ có một tiếng học hỏi về bí tích Rửa Tội. Bà làm ơn nói cha mẹ đứa bé
và cha mẹ đỡ đầu đến tham dự tại nhà xứ này.
- Sao mà đời bây giờ các cha khó
thế, con theo đạo từ nhỏ tới lớn, rửa tội cho con cái ngay từ nhỏ, nào có bao
giờ phải học hành gì đâu. Con không hiểu sao lại phải học, mà học cái gì cơ
chứ?
- Vấn đề không phải là học; tôi
không thích dùng tiếng học hỏi nhưng không biết chữ nào có thể dùng hợp lý hơn.
Thật ra, tôi chỉ chiếu hai cuốn phim trên ti vi, một cuốn 15 phút và cuốn khác
25 phút mà thôi. Không có gì nặng nề cả. Có chăng chỉ là chữ dùng không đúng.
- Con không thể hiểu, nào có chi mà
phải mất giờ...
Người ta theo đạo như thế đó! Theo
đạo đâu phải chỉ đi nhà thờ và khi rời khỏi nhà thờ là hết, mạnh ai nấy sống.
Đức tin đâu phải chỉ tơ lơ mơ nghĩ rằng có Chúa là xong. Chính bởi nghĩ như vậy
đã có người hô lên: "Tin đạo chứ đừng tin người có đạo." Biết bao
nhiêu người không Công Giáo ở chung khu vực với người Công Giáo đã không bao
giờ thèm đặt vấn đề Công Giáo là gì. Theo đạo, không muốn học hỏi về đạo, không
hiểu để sống đạo, áp dụng đạo vào trong cuộc đời mình thì cũng như theo đạo cho
vui, cho ra vẻ có đạo hoặc a dua cho giống kẻ khác. Nhưng biết sao hơn, trình
độ họ như thế, đành chấp nhận trước để rồi cố gắng may ra có giúp họ thêm được
chăng... Cha Lành chậm rãi:
- Không sao đâu, tôi nghĩ có lợi chứ
không mất giờ. Nếu có chi thắc mắc, sau đó tôi sẵn sàng trả lời bà. Vậy đứa nhỏ
con của chị này phải không?
- Thưa cha vâng.
- Chị này tôi đã tới thăm tại nhà
thương kỳ sanh cháu nhỏ. Chị có thường đi lễ ở đây không và có thuộc về xứ này
không?
- Má con thuộc xứ này, con ở với má
con nhưng ít khi đi lễ.
Cha Lành thường thăm những người
bệnh thuộc về giáo xứ đang được chữa trị tại nhà thương vào những chiều thứ sáu
hàng tuần. Vì xứ quá đông không thể nhớ tên hết tất sả mọi người, cha đành đi
thăm tất cả các phòng mà bệnh nhân mang địa chỉ thuộc khu vực giáo xứ. Mấy tuần
trước gặp chị Hoan lúc cháu nhỏ mới chào đời được một ngày; sau khi hỏi thăm
sức khỏe của đứa bé, ngài hỏi thăm về cuộc sống gia đình và chị ta cho biết
chưa lập gia đình; hai người chỉ yêu nhau, có con với nhau và anh ta không có
đạo... Hơn nữa, chị ta đã gần ba năm không đi nhà thờ chi hết... Nhớ lại như
thế, ngài dịu giọng nhắc nhở:
- Một trong những điều kiện minh
chứng đứa nhỏ sau có được nuôi dưỡng trong đức tin Công Giáo không là sự sống
đạo, tham dự thánh lễ ít nhất tuần một lần vào chủ nhật của cha mẹ. Nếu linh
mục không nhận thấy có gì chứng minh về tương lai đức tin đứa nhỏ sẽ được nuôi
dưỡng trong tinh thần và đức tin Công Giáo, ngài không có quyền rửa tội. Chị
làm ơn đi lễ ít nhất 8 ngày chủ nhật liên tiếp được không?
- Con sẽ cố gắng...
- Thật ra tôi nói thế không phải cố
làm khó chị đâu nhưng là người Công Giáo, chúng ta có bổn phận và trách nhiệm
nuôi dưỡng đức tin của những đứa bé được rửa tội. Cảm ơn bà và chị đã ghé qua;
nhớ tối thứ 5 đầu tháng lúc 7 giờ tới coi phim và tôi sẽ nói chuyện sau. Riêng
chị, chị làm ơn dự lễ chủ nhật; nếu không, tôi chẳng biết cách nào hơn. À, chị
có điều gì ngăn trở để chịu phép hôn phối không? Tôi sẵn sàng làm bất cứ gì có
thể giúp chị về vấn đề này. Bây giờ hãy về đã, suy nghĩ ít hôm và nếu chị muốn,
gọi điện thoại cho tôi.
- Thưa cha con muốn chịu phép hôn
phối mà...
Yêu nhau đâu phải cứ cưới nhau là
xong, bao nhiêu sự mới lạ chưa bao giờ người trẻ có cơ hội kinh nghiệm trong
cuộc sống hôn nhân đang chờ, rắc rối cũng như hạnh phúc. Yêu nhau chỉ một người
muốn cưới đâu được mà phải cả hai cùng muốn sống chung, sống cho nhau và vì
nhau. Người này coi người kia là trên hết và người kia coi người này không ai
hơn. Để được như thế, cần sự học hỏi sao cho biết chấp nhận lẫn nhau, điều hay
cũng như điều dở. Hơn nữa, trước khi cưới, nhiều người cứ nghĩ rằng mình sẽ
thay đổi được người khác theo ý mình hay làm họ tốt lành hơn theo câu "Dạy
vợ từ thuở bơ vơ mới về." Chính mình có những điều muốn bỏ và cố gắng bỏ
mà có khi cả đời vẫn không làm chi được thì sao có thể nói tới biến đổi người
khác... Ngài nhẹ nhàng giải thích:
- Thế còn anh ấy. Chị hãy bàn với
anh ấy đã rồi gọi cho tôi sau. Tôi không muốn chị cảm thấy bị ép buộc phải làm
phép cưới. Lý do tôi nói chị gọi cho tôi sau chỉ là muốn biết chắc chắn hai
người có thực sự muốn cưới nhau không thôi. Tôi sẽ gặp chị sau. Chào bà và chị.
Mới được hai tuần lễ, bà mẹ đã rối
lên gọi cha xứ yêu cầu phải rửa tội cho cháu. Bà ta nói rằng không rửa tội cho
cháu bà, bà sẽ đem đi nhà thờ khác rửa tội. Cha xứ vội vàng nói với cha Lành:
- Cha xem rửa tội cho đám ấy, nếu
không lỡ họ gọi đức giám mục thì lại phiền cả đám.
- Cha coi, má đứa nhỏ không đi nhà
thờ, không có hôn thú, không cưới hỏi, không chịu bí tích hôn nhân chi hết. Tôi
đã phải năn nỉ họ đi nhà thờ ít nhất 8 tuần để rửa tội cho đứa nhỏ nhưng mới có
hai tuần họ đã kêu rối lên; nào tôi biết làm sao bây giờ...
- Thôi thì cha đánh máy giấy hứa đi
lễ chủ nhật, bảo cô ta ký vào đấy rồi rửa tội cho đứa nhỏ.
- May mắn, vậy mà tôi không biết.
Linh mục này mới mẻ quá, nhiều chuyện chưa biết...
Cha Lành cảm thấy nhẹ hẳn cả người.
Nó không chịu đi nhà thờ mà không rửa tội nó kêu đến giám mục cũng khổ. Nó hứa
và ký giấy rồi không chịu làm theo, lỗi nơi nó, lại nhẹ mình... Bỗng ngài cảm
thấy buồn buồn; con chiên bổn đạo không đi nhà thờ là lỗi nơi họ nhưng mình là
linh mục; phải có lý do nào để họ không đi nhà thờ. Nếu nguyên nhân hoàn toàn
nơi họ vì bất cứ lý do gì thì đó dĩ nhiên chuyện của họ; còn nếu bởi dù phần
nhỏ nhặt nào nơi mình để họ không muốn đi nhà thờ, mình cũng bị lây trách nhiệm
mặc dầu có nhiều trường hợp lạm dụng mượn cớ để chiều theo bản năng cá nhân
hoặc vì ham vui mà bỏ bê thành thói quen. Linh mục đâu phải được truyền chức để
làm quan theo kiểu ngoài đời, sống chết mặc bay, mà để thông cảm, khuyến khích
và cùng họ sống đức tin, thể hiện đức tin trong cuộc đời. Dĩ nhiên, mình mới về
xứ đạo hơn hai năm, chưa có chuyện gì để có thể gây nguyên nhân cho người bỏ đi
lễ gần ba năm nhưng làm thế nào giúp họ trở lại cuộc sống đức tin phải được đặt
ra. Các cha già ngày xưa nói linh mục là con chó nhà Đức Chúa Trời không hợp
thời nữa rồi; bây giờ linh mục là kẻ ăn xin, năn nỉ thiên hạ sống đạo. Nói động
đến họ, họ kêu lên giám mục; họ bỏ không đi nhà thờ. Không đi lễ nhà thờ này mà
đi lễ nhà thờ khác là hãy còn phúc; đàng này họ bỏ luôn viện cớ tại ông cha.
Cũng có thể nói, ngày xưa chó có quyền sủa, thời kỳ này chó câm; không câm cũng
phải câm bởi năn nỉ còn khó hơn câm. Mà câm, tâm tư áy náy, thôi đành năn nỉ.
Nào ai biết đấy là đâu; thiên hạ cứ tưởng làm cha oai lắm...
- Hello, tôi là cha Lành, làm ơn cho
gặp chị Hoan.
- Thưa cha cháu Hoan không có ở nhà,
con là má của Hoan đây.
- Chào bà, lâu nay bà mạnh giỏi?
- Cảm ơn cha, con cũng thường. Có
chuyện chi gọi cháu Hoan đấy thưa cha?
- Vấn đề rửa tội cho cháu nhỏ ấy mà.
Hai tuần nay chị Hoan có đi nhà thờ không?
- Dạ có đấy ạ, con nói với cháu và
cháu cũng nói rằng cháu thấy cần phải đi nhà thờ trở lại.
- Hình như chị ấy gọi cho cha xứ thì
phải...
- Con gọi cho cha xứ chứ không phải
cháu Hoan. Từ hôm gặp cha về nhà tới giờ, cháu cứ muốn rửa tội cho đứa nhỏ ngay
tức thì. Cháu định đưa đứa nhỏ tới nhà thờ khác...
- Thôi cũng được, vậy bà làm ơn
khuyến khích chị ấy đi nhà thờ, và khi chị ta về, nói chị ta gọi cho tôi rồi
ghé qua ký giấy hứa sẽ đi nhà thờ đồng thời đem giấy khai sinh của cháu nhỏ để
tôi ghi vào sổ.
- Tại sao phải cần giấy khai sinh
nữa cha?
-
Bởi chị ta không có hôn thú nên cần phải có giấy khai
sinh ghi đúng tên họ theo đó bởi nếu trật sẽ gây phiền toái sau này.
-
Vâng vậy con sẽ nói cháu goi
cha sau.
-
Cám ơn bà, chúc bà mạnh
giỏi, xin chào.
7
- Nhà thờ Mân
Côi.
- Chào cha, con là Hoan đây, cha gọi
con có chuyện chi vậy?
- Tôi cần chị ký giấy hứa sẽ đi nhà
thờ để rửa tội cho cháu nhỏ. Chị nhớ cầm theo giấy khai sinh để ghi tên tuổi
cháu nhỏ vô sổ cho đúng.
- Thưa cha giấy khai sinh nhà thương
chưa gửi về; khi nào có con sẽ đem vô.
- Vậy thì chị ghé qua ký giấy trước
và khi nào có giấy khai sinh tôi sẽ rửa tội cho cháu nhỏ.
- Sao vậy cha?
- Bởi chị không có hôn thú, tên của em
nhỏ phải ghi theo giấy khai sinh. Nếu ghi theo tên của ba em nhỏ theo lời nói
bây giờ lỡ sau anh ta không nhận thì phiền phức lắm.
- Được rồi, con sẽ tới ký giấy. Thế
tụi con muốn làm phép cưới thì phải làm sao bây giờ?
Câu hỏi của chị Hoan gợi lại nơi tâm
trí ngài mối ưu tư về những người Việt sống lưu vong đang phải đối diện với sự
xung khắc văn hóa hoành hành nơi tâm hồn dân tộc ở hải ngoại. Sống tại Việt
Nam, nền luân lý cộng đồng ràng buộc con người theo khuôn khổ chung qua những
ảnh hưởng của quan niệm, ý thức Khổng, Lão. Hơn nữa, vì Việt Nam vẫn sòn là
nước nông nghiệp, kỹ nghệ chưa phát triển do đó dân chúng họp thành làng xã và
ít khi thay đổi chỗ ở nên mọi người quen biết nhau. Liên hệ quen biết này tạo
nên sự cổ võ cho danh dự gia đình và cá nhân do đó làm triển nở nơi con người ý
thức luân lý hoặc sự chịu đựng và chấp nhận luân lý cộng đồng như một mẫu mực
sống cho cuộc đời. Hôn nhân trong ảnh hưởng luân lý này cũng được bảo vệ nên
bền vững hơn. Đàng này, sống ở Mỹ, khoảng cách khác biệt giữa hai quan niệm văn
hóa Việt
- Mỹ, hoặc có những ảnh hưởng đối
nghịch giữa hai văn hóa nên cần được chuẩn bị cho cuộc sống hôn nhân kỹ càng
hơn mong đáp ứng lại đời sống tự lập hoàn toàn tùy thuộc ở hai người. Giáo dục
hôn nhân do đó lại trở nên quan trọng. Tuy nhiên, giới trẻ ít ai hiểu do đó
thường hay cảm thấy bị phiền hà vì sự chuẩn bị này... Thật ra nhận xét thực tế
này khó cho người trẻ chấp nhận vì họ chưa có kinh nghiệm. Biết rằng thế nào
cũng làm cho chị Hoan cảm thấy phiền, mà biết sao hơn; cha Lành đành cố dịu
giọng nhẹ nhàng:
- Theo luật giáo phận, anh chị cần
sáu tháng để chuẩn bị và học hỏi về hôn nhân cùng làm giấy tờ.
- Nhưng tụi con đã định ngày rồi.
- Ngày nào?
- Ngày 23 tháng 2.
- Từ nay đến hôm đó chỉ có 4 tháng.
Đó không phải "big deal". Nếu có gì trở ngại sẽ có cách. Thế mấy giờ
anh ấy đi làm về?
- Bốn rưỡi.
- Chị làm ơn nới với anh ấy tới gặp
tôi đúng sáu giờ tối được không? Bốn rưỡi về, tắm rửa, ăn uống, nghỉ một chút
rồi tới nhà xứ.
- Vâng.
- Nhớ đúng giờ, trễ 10 phút tôi đi khỏi.
- Tụi con tới đúng giờ...
... Đôi trẻ ra về sau khi làm bản
trắc nghiệm. Cha Lành châm điếu thuốc, ngài cảm thấy vui hơn thường lệ. Được cả
đàng nọ lại được cả đàng kia. Nhờ rửa tội cho đứa nhỏ nên hai người đã bàn đến
chuyện hôn nhân... Thế nhưng câu chuyện nào có êm đềm xuôi chảy như ngài nghĩ.
Bản trắc nghiệm tâm lý cho kết quả hai người cần đi gặp chuyên viên cố vấn tâm
lý về hôn nhân. Thời gian này cộng thêm thời gian học hỏi chuẩn bị hôn nhân sẽ
bị trễ hơn ngày tháng đã định...
- Hello!
- Tôi là cha Lành, làm ơn cho tôi
nói chuyện với chị Hoan.
- Dạ thưa Hoan đây cha, có chuyện gì
vậy?
- Tôi muốn gặp riêng anh ấy; chị làm
ơn nói anh ấy vô gặp tôi lúc 6 giờ tối nay được không?
- Ảnh đang đây, cha nói với ảnh...
- Chị làm ơn
- Hi cha, có chuyện chi vậy cha?
- Tôi muốn gặp riêng anh tối nay lúc
6 giờ...
- Cha có thể nói trên điện thoại
ngay bây giờ, con đang nghe mà...
Hôm trước cha xứ có nói, người đặc
trách về việc giúp giáo lý hôn nhân gọi cho ngài cho biết theo kết quả bản trắc
nghiệm của cặp này thì anh chàng bị áp lực cưới vợ. Theo sự dò hỏi, chính má
chị Hoan hối thúc họ cưới nhau vì danh dự gia đình của bà. Tuổi trẻ yêu nhau,
chỉ biết yêu lại không chịu tìm hiểu nên gây ra lắm rắc rối. Thật khó nghĩ
nhưng cũng đành cố gắng; cha giải thích:
- Có một vấn đề hơi khó nói nên tôi
muốn đối diện với anh cho minh bạch hơn...
- Vâng, con sẽ tới.
Nửa tiếng sau chàng thanh niên bước
vô nhà xứ.
- Chào cha,
- Chào anh, hôm nay sao làm về sớm
thế?
- Con mới đổi việc nên về sớm hơn.
- Cháu nhỏ khỏe không?
- Dạ, cháu vẫn bình thường.
- Công việc mới thế nào; có khá hơn
không?
- Cũng thế nhưng dễ chịu vì giờ làm
ban ngày lại không sợ bị đóng cửa hãng.
- Cũng may đó, dạo này đâu dễ kiếm
việc...
- Cha muốn gặp con có chuyện chi đó
cha?
- Theo như kết quả bản trắc nghiệm
tâm lý cho biết, anh hình như bị áp lực nào đó để lập gia đình với Hoan... Anh
nhận thấy thế nào?
- Đúng, kỳ làm bản trắc nghiệm con
cảm thấy thế nhưng bây giờ thì không.
- Thật sự, đó trở thành cái phiền.
Anh hiểu, người ta căn cứ trên kết quả bản trắc nghiệm... Như thế, chuyện xảy
ra hơi phức tạp... và họ đề nghị anh chị gọi điện thoại cho tòa giám mục lấy
hẹn với chuyên viên cố vấn về hôn nhân. Như anh hiểu, tôi muốn câu chuyện xảy
ra êm đẹp và mau mắn cho anh chị nhưng không biết làm sao bây giờ ngoại trừ
chính anh chị giải quyết. Đây là số điện thoại văn phòng cố vấn hôn nhân; anh
chị gọi lấy hẹn, sau đó nói cho tôi biết. Anh chị không phải trả tiền đâu, cứ
yên trí...
- Vâng, để con về tính xem...
Thương cho đôi trẻ gặp chuyện rắc
rối ngoài ý muốn. Cuộc đời, ai cũng thế, - cha Lành châm điếu thuốc, ngả lưng
trên dựa ghế trầm ngâm nhìn làn khói- đâu phải cứ muốn là được hoặc không muốn
mà tránh thoát. Tuy những chuyện rắc rối nếu nhìn theo khía cạnh khác, được
huyền nhiệm xảy đến cách vô tình để huấn luyện thêm cho con người trưởng thành
hơn và đem lại lợi ích cho cuộc sống hơn sau này, nhưng mấy ai ý thức như thế.
Nhớ lại thời kỳ lấy bản trắc nghiệm tâm lý tại Baton Rouge, thày Lành chỉ giỡn
chơi sắp xếp mấy bức tranh thành một câu chuyện kết thúc cho có vẻ khác thường
để rồi kết quả đưa lại: có tính chất hiếu chiến, hiếu thắng, và phải đi gặp
chuyên viên tâm bệnh trị liệu. Dĩ nhiên, thày Lành ngày ấy lý luận mình sinh
trưởng trong một nước nghèo, thiếu môi trường phát triển, ai nấy phải tự lo
tranh sống. Rồi sau năm 1975 lại phải chiến đấu với sự sống còn của cuộc đời -
sao che mắt công an, nào đi làm không dám lấy tiền công cho tiện bề đào thoát;
rồi những lần đối diện giữa cái sống và cái chết, hoặc giữa tù tội hay cắn răng
chịu những đau đớn thân xác để chạy thoát đã tạo nên nơi thày khả năng sinh
tồn, tranh sống cao hơn người thường - thế mà thay vì được nhận ra năng lực ấy
lại phải đi điều trị. Đời chi lắm cảnh trái ngang! Tuy nhiên, không gặp chuyên
viên tâm bệnh trị liệu không được vì nhà trường đòi giấy chứng nhận thời gian
tối thiểu 6 tháng, mỗi tuần gặp một lần. Trong cái rủi có cái may; 26 tuần chấp
nhận chẳng đặng đừng ấy đã giúp cha Lành ngày nay nhận thức được tâm tình cảm
thông, xoa dịu bớt những vết thương lòng đồng loại chẳng may vấp phải...
"Không hiểu Chúa muốn gì cho đôi trẻ; chỉ xin Ngài giúp cho họ sự chịu
đựng để vượt qua những rắc rối ngoài ý muốn này;" ngài thầm thì.
Mới sáng sớm, má chị Hoan đã gọi lại
cầu cứu:
- Con Hoan nó nói không hiểu tại sao
mỗi lần có chuyện cần đến Giáo Hội, Giáo Hội lại cứ đạp nó xuống bùn đen; nó
muốn đổi đạo, không muốn là người Công Giáo nữa.
- Bà làm ơn nói chị Hoan gọi cho tôi
được không?
- Vâng, nó đi đâu ấy từ sáng sớm,
lúc nào cháu về, con nói cháu gọi cho cha. Ô, có tiếng xe, hình như cháu đã về;
cha chờ chút... Đây thưa cha, cháu Hoan.
- Chào cha.
- Chào chị Hoan, khỏe không?
- Con bình thường, thưa cha con đang
muốn khùng lên; ngày tháng lỡ cỡ, tiền bạc hao tốn chẳng được việc chi.
- Hôm qua anh ấy có nói chuyện chi
với chị không?
- Cũng lý do ấy nên mới lỡ cỡ; chán,
chán quá rồi cha ơi, con không biết sao nữa!
"Có ở trong chăn mới biết chăn
có rận," có đối diện với thực tế rắc rối nơi tâm trạng không muốn chấp
nhận thực tại mà chỉ muốn giải quyết theo ý mình mới thấy cảnh phiền hà tâm tư.
Ai không một lần lâm vào cảnh trên đe dưới búa, lưỡi kẹp giữa hai hàm răng!
Trong những trường hợp như thế, dù làm theo đe cũng bị đập choẹt mà làm theo
búa cũng nát tan bởi đụng chạm. Thôi thì biết sao hơn, tốt nhất sao cho tránh
khỏi bị kẹt giữa hai đối phương: người ra luật và kẻ dưới sự thống trị của
luật. Nếu theo luật, 95 phần trăm chắc chắn đẩy người khác vào đường cùng sẽ
sinh ra những bất mãn không thể ngờ. Không theo luật, mình sẽ bị "bố"
chẳng sớm thì chày; do đó chỉ còn cách để chị Hoan nói chuyện với giám mục. Mà
khổ nỗi, muốn gửi người gặp giám mục xin chuẩn không theo luật phải có lý do
chính đáng. Đàng này, nếu không được học hỏi về hôn nhân kỹ càng, ai biết đâu
tương lai của họ sẽ ra sao vì ít nhất 50 phần trăm những cặp hôn nhân trên đất
Mỹ đã tan vỡ. Thôi thì đành liều để giám mục khuyên chị ta bởi có nói thêm chị
ta cũng chẳng thèm nghe. Cha Lành cố lấy giọng nhẹ nhàng:
- Chuyện xảy ra nào ai muốn đâu! Chị
biết, tôi muốn mọi sự đơn giản nhất nhưng kết quả ngoài tầm tay. Tôi đề nghị
chị gọi cho đức giám mục để trình bày với ngài...
- Được, con sẽ gọi.
- Nhưng không được nói với ngài là
tôi nói cho chị biết. Chị mà nói tôi nói là tàn đời cả cha lẫn con. Nhớ rằng
khôn thì phải kín miệng. Tất cả tùy sự khôn khéo nơi chị mà thôi...
Từ ngày về làm phó xứ Mân Côi tới
nay, qua những lần chiếu phim học hỏi về bí tích Rửa Tội cũng như rửa tội, cha
Lành lần nào cũng gặp một số cha mẹ không có phép hôn phối. Đa số lý do chỉ vì
cha xứ không chấp nhận làm phép cưới trước 6 tháng. Luật địa phận chuẩn bị, học
hỏi hôn nhân 6 tháng dĩ nhiên nào phải tự trời rơi xuống nhưng được đặt ra vì
lợi ích cho cuộc sống hôn nhân 40 năm, 50 năm, 60 năm hoặc may mắn thì hơn. Bỏ
ra 6 tháng để chuẩn bị, học hỏi hiểu biết thêm để tránh bớt những điều đáng
tiếc có thể xảy ra trong đời sống lứa đôi do sự thiếu hiểu biết hoặc kinh
nghiệm nào có chi thiệt thòi mà lại mang nhiều lợi ích thiết thực. Dĩ nhiên,
kinh nghiệm nào không phải trả bằng một giá mắc mỏ nhất là kinh nghiệm lứa đôi.
Những kinh nghiệm trả giá mắc mỏ thật ra hãy còn chịu đựng được, trái lại có
những kinh nghiệm trả giá cả một đời. Khi chuẩn bị cho những cặp hôn nhân đã
sống chung với nhau lâu ngày vì lý do bất mãn hoặc cản trở nào đó không thể làm
phép cưới từ thời mới sống với nhau, cha Lành khuyến khích họ coi 4 cuốn băng
video về vấn đề hôn nhân; không có cặp nào là không nhận thấy đã bao lâu nay,
những vấn đề thật nhỏ nhoi, đơn giản nhưng lại là nguồn gốc của những rắc rối
lớn lao trong đời sống gia đình do sự chung đụng giữa vợ chồng và con cái...
Đồng thời ngài cũng nhận ra, những kinh nghiệm ấy ngài không thể có được và dầu
có muốn nói với họ, ngài cũng không thể giải thích hay hơn hoặc ít nhất là
tương đương với những người đã có kinh nghiệm sống bậc vợ chồng.
Có những người nhận xét về thực tại
lứa đôi thời nay đem so sánh với ngày xưa rồi kêu ca, chán nản vì hiện trạng đổ
vỡ của gia đình. Cha Lành cảm thấy thương cho họ bởi những nhận xét nông cạn,
nghĩ rằng thời nào cũng phải giống thời nào. Một nguyên nhân quan trọng đưa đến
đổ vỡ nơi cuộc sống gia đình ngày nay có thể là hiện trạng tâm não bệnh hoạn.
Bác sĩ, các nhà khoa học mới nhận ra qua thí nghiệm đưa đến kết quả rằng khi
người mẹ có bầu mà uống rượu, đứa con trong bụng say gấp đôi đồng thời chính chất
rượu tàn phá bộ óc của đứa bé. Bao nhiêu lâu rồi nào ai biết, và bao nhiêu lâu
rồi những người mẹ có bầu đã uống bia, uống rượu; thế thì bao nhiêu người vừa
thoạt sinh ra đã có những bộ óc bệnh hoạn bất thường nào ai có hay. Vì vậy
những đổ vỡ nơi cuộc sống, nơi gia đình đâu phải người ta muốn thế; đâu phải
tại họ muốn thay lòng đổi dạ mà chính từ nơi tâm não bệnh hoạn. Hơn nữa, nào có
ai chấp nhận mình bệnh hoạn hay chỉ tìm bất cứ lý do nào đó để bào chữa, để kéo
phần phải về mình. Thật ra, kiếm lý do để kéo phần phải về mình đã có thể là cá
tính của người có tâm não bệnh hoạn vì người bình thường đúng nhận là đúng, sai
nhận là sai. Đời người nào không nhiều sai lầm; kinh nghiệm nào không phải trả
giá hoặc không đụng vô lửa sao biết lửa nóng.
Làm thế nào để dung hòa giữa sự
thiếu nhận thức được giá trị của thời gian 6 tháng chuẩn bị hôn nhân và đồng
thời giúp cho họ chấp nhận học hỏi thêm những điều lợi ích cho tương lai lứa
đôi vẫn luôn luôn là mối ưu tư nơi tâm trí cha Lành. Ngài không thể chấp nhận kiểu
trả lời vắn tắt điều kiện 6 tháng hoặc lôi luật ra bắt người khác tự động tuân
theo không cần giải thích. Hai phần ba những cha mẹ có con rửa tội từ ngày cha
về làm phó xứ đã không cưới hỏi theo luật Công Giáo bởi không thể nuốt trôi sự
chờ đợi của 6 tháng tha thiết mới mẻ cách xa này. Dĩ nhiên, họ quen nhau cả năm
trước hoặc hơn - như thế nên ngầm hiểu họ tưởng đã biết đủ mọi sự về nhau; -
tuổi thanh niên nơi đất nước tự do hiểu sai nghĩa mà - thế thì đâu cần chi 6
tháng tìm hiểu. Ai khi đang rối lên vì yêu với thương không nghĩ là 6 tháng
thừa thãi! Một ngày không gọi điện thoại cho nhau đã như cả năm cách biệt
phương chi những 6 tháng đối với con mèo đói nhìn cục mỡ liếm môi nuốt nước
bọt. Thật ra họ đâu biết 6 tháng này không phải tìm hiểu về nhau mà tìm hiểu
chính mình có khả năng hoặc trưởng thành đủ để quyết định bước vào cuộc sống
hôn nhân chưa, hoặc cá tính mình ra sao. Rồi trên thực tế, sống chung đâu luôn
luôn tuyệt vời như mới quen nhau hoặc như thời gian hẹn hò, mới cưới. Họ đâu đã
biết chi đến những rắc rối sẽ xảy ra có thể chỉ vì ngủ ngáy lớn quá người phối
ngẫu chịu không nổi hoặc chỉ vì những thói quen vô tình trở thành nguyên nhân
giết chết tình yêu đôi lứa...
Nỗi thống khổ của thực tại dân Chúa
đè nặng trên tâm trí người linh mục trẻ. Kiếm cách nào, bám víu vào đâu, làm
sao... làm sao... Những câu hỏi mang theo hai tiếng "làm sao" không
có câu trả lời rõ ràng. Lắm lúc có dò hỏi một vài người thì lại thường gặp
những bộ óc quyết đoán quá non nớt, thiếu cái nhìn sâu rộng để cho rằng chỉ có
ý kiến hay quan niệm của mình là tuyệt vời, toàn hảo. "Không thể hiểu
được," đôi khi ngài lẩm bẩm, "chính mình đã không toàn hảo thì không
có điều gì mình nghĩ có thể toàn hảo, hoặc cuộc đời mình đã sai lầm nhiều thì
có thể điều mình đang cho là đúng cũng có thể sai lầm. Chúa ơi! Người có vợ có
chồng không cần lo lắng trong khi kẻ độc thân cứ rối lên vì lo cho họ, nhưng
biết sao hơn!..."
Nỗi đau khổ của những người sống
trong hôn nhân nhưng thiếu hiểu biết về những điều cần thiết trong cách cư xử
giữa vợ chồng cũng làm ngài ưu phiền không kém. Bao nhiêu người đã gọi điện
thoại để than phiền về chồng, về con hoặc về vợ. Có đề nghị họ đi gặp những nhà
chuyên môn thì ai cũng nghĩ mình có thể giải quyết được tất cả hoặc ráng chấp
nhận cho qua... Kết quả của những cuộc hôn nhân gượng ép vì vui lòng cha mẹ,
hoặc vì bất cứ lý do gì là cả một địa ngục cuộc đời. Thà rằng họ không bằng
lòng bấy giờ nhưng sau đó yêu nhau, chấp nhận nhau thì không sao. Đàng này,
ngày này qua ngày khác những đè nén chấp nhận chồng chất. Làm sao mà dám mở
miệng khuyên kẻ khốn khổ vui vẻ lên sống hạnh phúc với cái hỏa ngục của họ! Làm
sao có thể tự lừa dối mình mà nói vì Chúa thôi ráng chấp nhận... Dĩ nhiên mình
không bị sống trong cảnh đau khổ gượng ép ấy mình đâu có bị sự thực phũ phàng xâu
xé. Tuy nhiên, mới chỉ nghe những lời than thở đã muốn nát bấy tâm can thì
người sống trong thực trạng ấy phải chấp nhận ghê gớm thế nào. Mở miệng nói
không được, lờ đi không xong để rồi tâm trạng bị đay nghiến vì những đau khổ
dân Chúa phải chịu do sự thiếu hiểu biết mà tan nát lòng. Thế mà vẫn phải đóng
bộ mặt vui tươi với kẻ vui rồi lại cũng "vui" với kẻ buồn mới cả là
một sự trái ngược.
Đôi khi cha Lành hậm hực với chính
mình vì đã lỡ hiểu biết. Ngài thầm nghĩ, "Thà mình ngu quách cho đỡ cảm
thấy đau thương... Chúa có thấu chăng, bao nhiêu tội lỗi đã sinh ra bởi sự
thiếu học hỏi!..." Nghĩ mà bực, bực đến khùng được. Có nói ra, người ta cứ
nghĩ rằng họ biết hết mọi sự. Ôi! chỉ có dốt nát mới có thể tin rằng mình biết
hết mọi sự, không cần tìm hiểu thêm.
Cũng chính vì không chịu tìm hiểu
thêm để chỉ nghĩ mình là đúng với những quan niệm, kinh nghiệm có được từ thời
xa xưa, biết bao nhiêu những điều đáng tiếc đã và đang xảy ra không những cho
chính mình mà còn cho cả thế hệ sắp tới. Thường thì các bậc cha mẹ chỉ biết
than lên con cái khó dạy, chạy đua theo xã hội mới mà không hề bao giờ đặt vấn
đề phải làm sao và như thế nào để nói cho con nghe. Có người hô ầm lên nào là
tuổi trẻ mất gốc, tuổi trẻ chạy theo thời. Nào có lạ gì, mỗi ngày 6 tiếng nơi
trường Mỹ, hấp thụ văn hóa Mỹ, được đào tạo nơi môi trường Mỹ thì sao có thế
sống theo tâm tình và tâm lý người Việt chưa bao giờ được dạy bảo. Hơn nữa,
sống nơi xã hội tạp chủng này, luân lý cộng đồng kể như bị mất hẳn mà người ta
cứ nói về những đặc tính cá biệt thay vì những mẫu mực luân lý căn bản chung!
Sự giáo dục con cái lại càng cần nhiều cố gắng tìm hiểu của cha mẹ mà nào được
mấy ai đặt vấn đề như thế; ấy là chưa nói đến sự thực hành những vấn đề được
suy nghĩ để giáo dục, giúp con cái hiểu biết thâm về dân tộc với luân ly… Chỉ
than với thở, không hiểu than thở giúp ích gì cho giới trẻ..?
8
Một hôm nhân dịp tới thăm một gia
đình người quen, đang nói chuyện với cặp vợ chồng, một em bé gái cỡ 13, 14 tuổi
vừa mở cửa bước vô, người mẹ đã vội lên tiếng:
- Huyền ơi, con có mái tóc đẹp quá;
giống như đứa chết trôi! - Bà mẹ gọi con gái cố ý để cha Lành nhìn thấy.
Con bé phụng phịu quay ngoắt đi...
Thấy thế cha Lành mỉm cười bênh vực:
- Có sao đâu, đó chỉ là kiểu tóc
thời trang...
- Nhưng trông ngứa mắt quá...
- Trông ngứa mắt bởi nó không để tóc
giống mình hay mình không dám chải tóc dựng đứng như đứa chết trôi?...
Bà mẹ bắt đầu than thở!
- Tóc tai, quần áo, tụi trẻ ăn mặc
không giống ai hết; chán quá, con với cái...
- Vấn đề đầu tóc và quần áo không lạ
gì. Ai cũng thế, tâm lý chung muốn được người khác chấp nhận hoặc muốn thuộc về
một nhóm hay giới nào đó. Tụi trẻ đi học tại nhà trường; bạn bè chúng đều như
thế; nếu khác với những người chung quanh sẽ bị cô lập hoặc không được chấp
nhận và sinh ra mặc cảm không giống ai. Cũng như, dù muốn dù không, mình sống
trong xã hội sẽ bị ảnh hưởng xã hội.
- Chúng không còn biết gì về giúp đỡ
gia đình, tối ngày ăn xong đi chơi...
- Thế anh chị có chia cắt rõ ràng
bổn phận của từng đứa cho chúng không? Có giải thích sao cho chúng nhận biết
thế nào và phải làm sao không?
- Cha xem, có nói, chúng đâu có thèm
nghe; thật là con chưa lớn đã kể như mất...
Cha Lành ngắt lời:
- Chắc chắn rằng mất nếu không tìm
cách nào để khuyến khích chúng sống có trách nhiệm hơn. Có điều e rằng mình nói
chúng không hiểu rồi cứ tưởng chúng hiểu mà không làm hoặc mình chỉ ra lệnh mà
không giải thích cho chúng hiểu thế nào hoặc thực tập cho chúng làm, hoặc thế
nào là hay, là dở, nên hoặc không nên...
- Chúng có thèm nghe mình đâu cha?
- Chúng nó không nghe mình hay mình
không nói kiểu chúng có thể hiểu và hợp với chúng mà lại chỉ nói bóng nói gió,
móc máy như vừa rồi... Hơn nữa, cứ cái lối "ngày xưa tao thế nọ, ngày xưa
tao thế kia..." thì có lẽ ông nội chúng cũng không thèm nghe chứ chưa nói
gì đến chúng!
- Biết làm sao bây giờ. Tụi con thì
bận công ăn việc làm tối mặt tối mày; về đến nhà, ngập ngụa bày hàn đủ mọi nơi
mọi xó. Cha coi, chồng thì vớ lấy lon bia ngồi coi tivi; còn mình nào như đánh
đô vật, thu dọn, nấu ăn mệt thở không ra hơi còn giờ nào mà nói với tìm hiểu.
Hò chúng rát cả miệng, bỏng cả cổ; thôi thì làm quách cho xong... Thương con,
con đâu có biết lại phiền cả lòng... Đành ráng cho qua ngày tháng rồi tới đâu
thì tới; đời cua cua máy đời cáy cáy đào chứ biết sao hơn!...
- Chính vì thế mới cần nhiều cố
gắng. Thà chấp nhận bỏ ra vài lần, mỗi lần nửa tiếng để từ từ chỉ dẫn cho con
cái và rồi từ đó tự chúng làm những chuyện lặt vặt có phải hơn là ngày nào mình
cũng ráng cho qua...
- Cha bảo làm thế nào bây giờ?
- Thì đi làm về vài ngày đầu, chấp
nhận ăn cơm trễ thêm nửa tiếng; gọi hết tụi nhỏ về, nhẹ nhàng từ từ chỉ dẫn
chúng sắp xếp lại nhà cửa, sách vở, đồ chơi, quần áo, phòng ốc của đứa nào phải
thu dọn sạch sẽ cho đứa đó. Chén bát dơ chúng ăn bày ngập ra, chỉ cho những đứa
lớn rửa chén thế nào cho sạch... nhẹ nhàng, nhã nhặn dạy chúng làm. Rồi quần áo
dơ bỏ vào máy giặt, cho xà bông vô, vặn nút thì dù đứa 6, 7 tuổi cũng biết, cần
gì phải lớn hơn. Đã bao giờ chỉ chúng làm chưa hay cứ rối lên "Ngày xưa
tao 10 tuổi đã phải nấu cơm." Tự nhiên 10 tuổi mà biết nấu cơm à? Có ai
vừa sinh ra đã biết hết mọi sự... Thương con không đúng cách là giết con từ
từ... Cứ trách chúng hư mà chẳng bao giờ chỉ cho chúng những điều tốt lành là
ăn gian nói láo...
Nãy giờ được cha Lành bênh, Huyền cứ
tủm tỉm cười; vô tình bị mẹ bắt gặp nên lại bị lôi vào tấn công tiếp:
- Kìa cha coi, con bé người đã ốm
tong ốm teo mà cái ống quần ôm sát... giống như đôi đũa...
- Ăn thua gì, đó chỉ là mốt thời
trang. Thời trang nay còn mai mất. Vấn đề căn bản là sự giáo dục bằng cách thực
hành lối sống ngay trong gia đình. Vớ vẩn, cứ mở miệng ra là chê bai, hò hét;
con cái chúng sẽ cố tránh gặp mình thì làm sao dạy chúng, làm sao còn có cơ hội
mà nói cho chúng nghe. Anh chị gặp ai luôn luôn chê trách mình, anh chị có muốn
đến gần hoặc nói chuyện với họ nữa không? Thế ai cho tiền nó mua cái quần ống
túm và cái áo rộng thùng thình ấy?
- Tiền đâu mà cho; cha coi, áo của
con nó lấy mặc; còn quần thì chả biết nó may hay mượn ai may túm lại...
Cha Lành hướng sang phía cô bé:
- Huyền, quần con mua hay may vậy?
- Thưa cha con may hai cái ống
lại...
- Con giỏi đó, thế mà má con cứ chê
riết thôi...
Quay lại cặp vợ chồng ngài tiếp:
- Chị thấy không, tụi nó thích gì là
làm cho bằng được. Chị đã bao giờ tìm hiểu chúng nó có thích cái nhà này không
hoặc có thích cái gia đình này không? Nếu chúng nó không thích thì tại sao, chị
đã được nghe chưa? Dạy con cái mà không tìm hiểu tâm lý chúng thì cũng như
cuội; có ráng đến muôn đời thì mất chúng vẫn hoàn mất...
Vấn đề giáo dục không những cần
thiết cho giới trẻ mà ngay cả cho những người đang sống trong bậc vợ chồng.
Cũng chỉ vì thiếu hiểu biết hoặc không chịu học hỏi thêm nên những thái độ vô
tình đã gây nên những mầm mống đổ vỡ. Đôi khi hoặc vì sống với nhau qua thời
gian dài mình nghĩ rằng người bạn đời thông cảm hết cho mình nên sinh ra vô ý
hoặc những buồn bực đâu đâu đã ảnh hưởng thái độ của mình vô tình làm phiền
lòng người phối ngẫu dễ dàng đưa đến tan nát...
Ngày...tháng...năm...
Kính cha,
Cha có biết, cứ mỗi lần con cầm bút
để viết thư cho cha là đang buồn, chán nản đến tột cùng, cha có hiểu vì sao
không? Con cũng chẳng muốn kể lể bởi những lời nói, những ý nghĩ trong lúc buồn
thì không thật, không vui, hoặc quá thật mà con chẳng nói ra được trong lúc vui
cha ạ!
Cha có biết, đây là lần đầu nếu con
nhớ không sai, con kể ra cho cha nghe, con không có ý định sống hết cuộc đời
của con với ông chồng này, con đã có ý định bỏ đi từ lâu, nhưng vì con nghĩ tới
lũ nhóc, con không đành tâm để chúng không có ba, con chấp nhận những sự nhục
nhã, con đã quyết nhịn và hy sinh bản thân cho 5 đứa con hay ít ra có 6 người
được vui, nhưng cha Lành à! Con đã nghĩ rất kỹ nếu con tiếp tục sống chung với
anh ấy chưa chắc đã giúp ích gì cho lũ nhóc, bởi chúng cũng bất mãn ba chúng
nhiều điều ngay cả con Hà cũng vậy. Theo con hiểu thì nó cũng có ý định bỏ đi
bởi nó nói với con, "Tại sao những việc ba làm ba thấy đúng, mà mẹ làm thì
ba cho là sai" (cùng một sự việc) con cũng chẳng biết nói sao; Anh Huỳnh
mỗi lần đánh con thường đánh trước mặt mấy đứa nhỏ chẳng nể nang, hoặc chửi con
những lời quá đáng. Có ai chửi vợ mình bằng những lời nói như: "Ông đập
vào mặt bây giờ... không ưa ngọt chỉ ưa nặng" hoặc "Không lo làm việc
chỉ lo đú đỡn với nhân viên" hoặc "Cái thứ lì lợm, ương ngạnh, hỗn
láo như ông già cô vậy" hoặc "Đi với đĩ còn sướng hơn... v.v..."
Cha có biết, ngày rời khỏi nơi đó
con đã nghĩ con phải cố gắng bằng hết sức con để làm lại từ đầu; con đã bỏ lại
sau lưng quá khứ, con đã chỉ ôm theo những kỷ niệm đẹp đẽ nhất, con mong mỏi
những kỷ niệm đẹp sẽ làm hành trang và niềm an ủi khi chung sống những lúc
không được vui, những khi buồn phiền. Nhưng cha hiểu không? Sự nhịn nhục cũng
chỉ có giới hạn, những lời nói của anh ấy con chỉ để ngoài tai được vài lần,
con không thể nào vui vẻ khi mỗi ngày phải nghe anh ấy chửi, anh ấy xỉ nhục và
điều tệ hại nhất con không thể nào không ghê tởm mỗi khi phải ngủ chung với anh
ấy... Cha Lành, cha có hiểu không?
Cha kính, có lẽ giữa hai con đường
mà con phải chọn, con nghĩ con nên chọn con đường nào ít tủi nhục, ít nước mắt,
có nghĩa là con phải bỏ đi, con nghĩ với cuộc sống không có anh ấy, con cũng
chẳng muốn người nào khác nữa, bởi theo con, con lấy anh ấy từ lúc còn là con
gái, không vướng bận với một tấm lòng thành thật cộng với sự thương yêu kính
trọng, cái thuở ban đầu đẹp đẽ ấy đã chẳng giúp cho con có hạnh phúc với chồng,
thì bây giờ có người đàn ông nào dám cưu mang 5 đứa nhóc, và rộng lượng bỏ qua
cho con với cái án "bỏ chồng hay bị chồng bỏ," điều này con dám hứa
với cha dù không có anh ấy trong cuộc sống, cũng chẳng có người đàn ông nào xen
vào cuộc sống của con sau này, và con cũng đã nghĩ tới cuộc sống của con sau
này rất chật vật vì phải vật lộn với công việc để mà nuôi con cái, nuôi thân.
Hiện giờ con cũng có nhiều dự tính
nhưng chẳng biết có thành công hay không. Cha hãy cầu nguyện cho con nhiều nha!
Dầu sao thì cha cũng là người mà con coi trọng nhất, cha cũng đừng khuyên con
bỏ ý định ra đi, bởi con đã nghĩ kỹ và đã làm hết sức mình những điều gì mà con
làm được. Ở đây con buồn lắm vì chẳng có bạn, chẳng có người để tâm sự nên nỗi
buồn mỗi ngày một chồng chất. Trước đây, mỗi khi giận anh ấy con thường nói
chuyện với cha hoặc anh Hạnh, hoặc nói chuyện vui với Khả, Tùng, Nhàn, Hân cũng
giúp con khuây khỏa mà vui sống.
Tới đây con ngừng bút hãy cầu nguyện
cho con mỗi ngày, con cũng cầu chúc cha sống vui và khỏe mạnh.
Tạm biệt cha,
Nguyễn thị Lan.
Thật ngỡ ngàng! Cha Lành lững thững
vô nhà bếp pha ly cà phê với tâm tư chùng xuống. Một nỗi buồn thấm thía phủ lấp
ngài. Đôi vợ chồng tốt lành, dễ thương thế mà không ngờ... Bao lâu nay đâu ai
có thể nghĩ chuyện có thể xảy đến như thế; xét theo bề ngoài thì cho rằng vợ
chồng họ hạnh phúc lắm vậy mà những âm ỉ nội tâm bởi thái độ vô tình không để ý
đã tạo nên những đau khổ không thể chịu đựng nổi đưa tới quyết định sống riêng,
cắt đứt tình nghĩa... Như thế, đâu phải chỉ một gia đình này, mà còn bao nhiêu
gia đình khác không ai hay biết...
Cha Lành bưng ly cà phê trở lại bàn
viết, đốt điếu thuốc và ngả lưng vô dựa ghế để tâm tư bông lung hoang dã... Sao
dân Chúa gặp lắm cảnh đau khổ thế! Đau khổ vì đức tin hay đau khổ vì cuộc đời.
Những cảnh đau khổ này bởi đâu mà có? Bởi rơi vào hoàn cảnh không thể tránh
thoát hay bởi sự thiếu hiểu biết về cuộc đời? Làm sao có thể khuyến khích họ
biết thêm về chính họ để giúp cuộc sống hôn nhân hạnh phúc hơn, phá tan những
hiểu lầm bởi sự vô ý thức, son đẻ của sự thiếu hiểu biết đáng tiếc...
- Hello...
- Làm ơn cho tôi gặp chị Lan.
- Dạ con đây! Cha khỏe không?
- Cũng thường thôi, vừa đọc xong thơ
chị, buồn quá! Phỏng có cách nào giải quyết khá hơn không?...
- Không còn cách nào hơn cha ạ; con
đã suy nghĩ kỹ rồi...
- Chị định trở lại đây hả?
….- Không đâu, về lại đó con của con
hư mất. Con sẽ đi nơi khác... Cha xem, nơi ấy tụi con nít chỉ tranh đua nhau
theo chúng theo bạn mà không chịu học hành. Rồi nào băng đảng nọ kia, ăn cướp,
cần sa ma túy làm sao con có thể dạy con cái được...
- Chị có muốn tôi nói chuyện với anh
ấy không?
- Không, cha nói chỉ thêm rắc rối,
con càng bị phiền hơn! Thứ người vô tâm mà!
- Tôi nghĩ đó không phải là vô tâm
mà là không hiểu. Chị cũng thế, anh ấy cũng vậy và bao nhiêu người khác nữa bởi
có dành thì giờ để học hỏi về ảnh hưởng của những chuyện nhỏ nhặt đó nơi đời
sống vợ chồng đâu mà để ý. Lúc chuẩn bị thành hôn có nói đến học hỏi là cứ rối
lên lâu với mất giờ, còn lo chưa kịp yêu thì già sớm mà; đến giờ mới vãi tội
ra! Tôi đề nghị, chị nên dành riêng giờ nào đó tới một nơi thanh vắng cầu
nguyện, suy nghĩ và đặt vấn đề lại nơi chính chị, những gì mình có thể chấp
nhận, những gì không thể và tự đặt vấn đề mình là người có cá tính như thế nào
v.v... Hy vọng chị có thể tìm ra lối giải quyết đơn giản và thực tế hơn. Thế
chị tính chừng nào sẽ đi?
- Chưa đâu cha, có sớm cũng phải ít
tháng nữa xem sao.
- Nếu anh ấy biết để thay đổi...
- Thay đổi sao được, bao nhiêu năm
rồi, xưa nay vẫn thế!
- Chị đã nói chuyện với anh ấy chưa?
- Nói làm gì, nào có thay đổi chi
được mà nói.
- Chị chưa nói sao đã biết là thay
với không!
- Khốn chưa nói anh ấy đã quát lên
con nhịn sao được.
- Không bạ lúc nào nói lúc ấy được;
chị nên đề nghị vào thời gian xác định rõ ràng sao cho thuận tiện, và nói rõ
không có mục la lối; đây là chuyện quan trọng; đồng thời khi người này nói
người kia phải im lặng... La lối chỉ chứa đựng một sự che dấu, lấp liếm nào đó
thôi.
- Được rồi, để con thử xem... Cha có
biết nhà con đang ở vùng đấy không?
- Không, có chuyện gì vậy?
- Con để "message" lại
trong máy cha không nghe à? Nhà con cũng chưa gọi cho cha sao?
- Chưa, anh ấy đang ở nhà ai?
- Nhà anh Hạnh.
- Để tôi gọi anh ấy. Thôi chào chị,
cứ từ từ, không nên nóng nảy chỉ sinh thêm phiền. "Bye then."
- Vâng, bye cha.
Sáng sớm vừa trở lại văn phòng sau
khi dâng lễ điện thoại đã reo vang...
- Nhà xứ Mân Côi...
- Chào cha, cha đang làm gì thế? Cha
dâng lễ chưa?
- Ai đó, sao gọi sớm vậy?
- Cha quên rồi à! Con là Huỳnh, mới
tới tối qua; mời cha đi uống cà phê.
- Ở đâu vậy? Tôi muốn gặp riêng anh
cỡ 15 phút.
- Con đang pha cà phê ở nhà anh
Hạnh. Cha tới ngay được không? Sau khi uống cà phê, cha chở con tới nhà anh Nhàn
và cha con mình nói chuyện với nhau trên xe vì hôm nay con có nhiều chuyện phải
lo cho xong để chiều lên phi cơ...
- Được, tôi tới ngay.
Đoạn đường thường đi sao hôm nay trở
nên ngắn thế!... Cha Lành chưa biết phải mở đầu câu chuyện thế nào với Huỳnh! Vấn
đề được đặt ra phải thật tế nhị nếu không sẽ chạm tự ái của Huỳnh, và như thế
đã chẳng giúp ích gì lại sinh lắm rắc rối cho vợ chồng anh ta. Mãi bận suy tư
xuýt chút nữa ngài vượt đèn đỏ gây tai nạn nếu tài xế chiếc xe đâm ngang với
quyền ưu tiên không nhấn còi...
Mới xa cách ít lâu mà Huỳnh trông
khác hẳn, có lẽ công việc kỳ này bận rộn hơn mặc dầu khấm khá hơn; anh chàng có
vẻ mệt mỏi, kém hoạt bát hơn ngày nào. Trên đường về nhà Nhàn, Huỳnh trầm
ngâm...
- Dạo này anh chị làm ăn khá không?
- Được lắm cha nhưng hơi mệt và cô
đơn. Con cảm thấy như thiếu cái gì ấy. Ở đấy con không có người nói chuyện; cha
biết, con khó kiếm người nói chuyện nên lẻ loi kinh khủng. Kỳ ở đây may mắn còn
có cha, giờ dọn về đó con thấy thiếu hẳn...
- Gia đình anh bây giờ thế nào...?
- Cũng thường thôi, đôi khi cũng có
những rắc rối nho nhỏ xảy ra như cha đã thường biết...
- Sao bảo qua đèo từ khuya rồi mà...
- Cứ qua được cái đèo này thì lại
gặp cái đèo khác; cuộc đời mà cha; kinh nghiệm dẫu chỉ qua một lần nhưng lại quá
nhiều kinh nghiệm.
- Hình như kỳ này anh gặp chuyện gì
khó xử hoặc có những chuyện gì cần sự cố gắng quá mức chịu đựng của anh làm anh
có những thái độ khác thường...
- Có sao đâu cha, chỉ hơi mệt...
- Ngày xưa anh hoạt bát, lanh lợi;
dạo này anh ít nói, có vẻ trầm ngâm... Hình như có chuyện gì ưu tư hay lo lắng
đang ảnh hưởng rất nhiều tới anh...
- Cũng có thể con nhận không ra...
- Nếu tôi không lầm thì có lẽ có
chuyện rắc rối nơi gia đình mà anh không để ý hoặc đang cố tránh nghĩ tới...
- Dĩ nhiên là có nhưng cha hiểu con
là người thế nào; hơn nữa, con vẫn thường nói với nhà con là công việc buôn bán
của tụi con đang lên nên phải cố giữ cho nó hơn hoặc bằng...
- Vậy còn vấn đề gia đình thì sao?
Anh chắc còn nhớ tôi vẫn thường quan niệm công việc buôn bán làm ăn nên hay
không tùy thuộc vào gia đình. Nếu gia đình thuận hòa, buôn bán mới phát triển
được...
- Cha biết tính nết và quan niệm con
từ lâu rồi, bao giờ gia đình mình chả phải là hơn hết...
Biết Huỳnh không muốn nhắc đến
chuyện đang xào xáo trong gia đình có thể vì ngại nói, nhưng cha Lành cũng cố
gắng khơi nguồn; biết đâu Huỳnh có cơ hội thố lộ tâm tư...
- Tôi biết chứ, thứ người như anh,
có cho lên ghế điện thì cũng không bao giờ có thể có ý nghĩ lìa bỏ gia đình,
nhưng anh khác; người khác đâu thể giống anh. Chị ấy cũng thế, đâu giống anh...
- Đúng, nhà con ương, lại thích cãi
gàn, thích làm theo ý mình...
- Có thể rằng khi mình nói người
khác ương, chỉ làm theo ý riêng thì mình đã ương, đã không chấp nhận nghe hoặc
để ý đến ý kiến của người khác trước; nói như thế có nghĩa mình ương trước...
- Cha nói cũng có lý.
- Anh thấy rõ điều này, anh có thể
xếp đặt chương trình làm chuyện lớn nhưng nếu không có chị ấy thực hiện, chương
trình của anh không sao tiến hành nổi. Tuy nhiên, tính toán trên lý thuyết là
một chuyện mà áp dụng vào thực tế lại là điều cần nhiều mánh khóe nhỏ nhặt.
Người xếp đặt chuyện lớn không thể làm những chuyện nhỏ nhoi, lặt vặt không tên
vì nếu làm thế sẽ phá vỡ chuyện lớn. Anh không có chị ấy, mọi chuyện sẽ hỏng to
và tôi dám nói thật với anh, anh không phải là thứ người lo những chuyện lặt
vặt...
- Những chuyện nhỏ nhoi có ăn thua
gì đâu cha...
- Không những ăn thua mà còn ăn thua
đậm...
- Nếu để ý những chuyện nhỏ sao tính
được chuyện lớn...
- Thí dụ, khi anh gặp những chuyện
bực bội làm tâm tư phiền não, thái độ anh sẽ một phần nào đó khác thường; anh
sẽ không để ý được lời nói lúc đó; tuy nhiên nó gây rất nhiều ảnh hưởng tai hại
đến chuyện lớn... Anh cũng nhận thấy đôi khi người khác nói những câu vô tình làm
phiền lòng mình thì khi đó mình cũng như thế, vô tình mình làm phiền lòng người
khác. Anh là con người sống chết với một quan niệm và khó có thể bị lung lạc
nên nghĩ người khác cũng thế. Anh không nghĩ tới chuyện thái độ hoặc lời nói
nhỏ nhặt ảnh hưởng gia đình nhưng có thể chính vì thế đã sinh ra chuyện gì rắc
rối nơi gia đình làm anh mất vui như xưa...
- Cha nói có lý...
Thấy Huỳnh vẫn cố tình muốn dấu
chuyện xáo trộn trong gia đình bằng câu trả lời yếu ớt vả lại Lan không muốn
ngài nói cho Huỳnh biết rằng mình đã hiểu chuyện nên ngài đành phải nhờ đến 4
cuốn video để khuyến khích Huỳnh có cơ hội tìm hiểu thêm những cách giải quyết
đa số rắc rối trong gia đình.
- Tôi đề nghị anh, nếu có thể, đặt
lại vấn đề thái độ của mình kỳ này thế nào... Dành ra ít phút nhìn lại chính
mình có lẽ sẽ giúp gia đình anh hạnh phúc hơn. Có 4 cuốn video về vấn đề hôn
nhân của tòa giám mục tôi mượn về chiếu cho những cặp hôn nhân đã sống với nhau
nhiều năm xem; ai cũng thấy rất lợi ích. Đại khái bốn cuốn này nói về những vấn
đề nhỏ nhặt thường ngày cần để ý có thể là nguyên nhân của những rắc rối xảy ra
giữa vợ chồng do sự không nhận ra giá trị cá nhân mình do đó người ta trở nên
khắt khe hoặc mặc cảm, hoặc thái độ mình ảnh hưởng tới con cái hay làm suy sụp
tình yêu đôi lứa; cũng như làm thế nào để bảo vệ và phát triển tình yêu vợ
chồng. Tôi sẽ sang băng cho anh một bộ nhưng không nên cho ai mượn bởi như thế
không hợp pháp. Anh nhớ không nên cho ai mượn, tôi sẽ gửi cho anh...
- Được, cha yên trí, con chỉ một
lời; cha copy cho con; con không cho ai mượn đâu.
Ba tuần sau khi Huỳnh về, cha Lành
nhận lá thư khác từ Lan:
Ngày... tháng... năm
Kính cha,
Sau khi nói chuyện với cha qua điện
thoại con đã mất hết mấy ngày để suy nghĩ. Cha bảo "Hãy cho anh ấy cơ
hội". Theo con, có lẽ không phải cơ hội được dành cho anh ấy mà là cho
con; con mới cần có cơ hội để xét lại chính mình, phải chăng cuộc sống là một
bi trường kịch cho mỗi người, và con người là những kịch sĩ đa dạng, nên vở
tuồng dù là hay hoặc là dở thì diễn viên vẫn phải hoàn thành nhiệm vụ của mình!
Đôi lúc con thấy mình quá nhỏ nhoi, quá ích kỷ. Con luôn nghĩ cho bản thân
mình, con quên con còn cha mẹ, còn anh chị em, còn họ hàng, và bạn bè chung
quanh. Con có cần phải nghĩ đến họ không? Mỗi khi cơn giận tràn qua che mờ cả lý
trí con chẳng còn nghĩ đến ai, bây giờ trong lúc bình tâm, cơn giận đã qua, con
mới biết mình đã nghĩ sai.
Cha Lành, cha có biết con đang tự
trách con? Phải chi con được sanh ra cách đây 50 năm về trước; phải chi con
được lớn lên và được giáo dục cùng sống trong khuôn mẫu "tam tòng, tứ
đức" có lẽ con sẽ an phận mà sống. Tiếc thay con hoặc anh Huỳnh đã được
sinh ra ở thế hệ này, nhất là văn hóa Mỹ đang đồng hóa mình nên những tư tưởng
bảo thủ trong con đang dần thoái hóa. Cha có biết cách đây 5 năm thôi, tư tưởng
của con về đời sống ngoài xã hội và trong gia đình rất khác với bây giờ, bất cứ
việc gì xảy ra, ngay cả những lời nói, những cử chỉ, hành động của ông chồng
đều được con làm ngơ, con đã dùng nhiều thì giờ vào việc dạy dỗ lũ nhóc như đọc
kinh mỗi tối, học tiếng Việt và đã sưu tầm nhiều mẫu truyện để kể cho chúng
nghe nhằm mục đích hướng dẫn chúng, dậy chúng những bài học về cách làm người,
cách sống ở đời... Cho đến bây giờ hầu như con đã xao lãng và bỏ bê mọi sự, con
chỉ mong làm tiền và tiền, động một chút buồn phiền bực tức là nghĩ tới sống tự
do, cuộc sống không có sự áp bức ràng ruộc nào cả, và ý tưởng của sự bỏ đi
những năm trước là một điều cấm kỵ, là một lỗi nặng thì bây giờ con cảm thấy
bình thường như là thay đổi chỗ ở hay đổi một chiếc xe. Con thật đáng trách cha
nhỉ!
Cha Lành, cha có biết bây giờ đang
ngồi đây viết thư, con cảm nhận mình thật sự là người của 10 năm về trước. Con
mong sao cho có được sự can đảm, sự nhịn nhục để vượt qua những thử thách mà
cuộc sống đã dành sẵn cho con.
Tới đây con ngừng bút bởi chẳng biết
phải viết gì thêm. Kính chúc cha vui khỏe.
Kính chào cha,
Nguyễn thị Lan.
Đọc xong lá thơ, cha Lành cảm thấy
vui vui vì nghĩ khi Lan đặt vấn đề lại, may ra nàng đổi ý định tách riêng
chăng. Nhưng sau những lời giải thích và so sánh thực tại với tâm tình con
người trong cảnh giao thời văn xóa, quan niệm của nàng, ngài lại cảm thấy Lan
không đơn giản như những gì được viết nơi thư. Phải chăng niềm mơ ước có được
tâm tình của 50 năm về trước là những gì đã mất nơi Lan bởi người ta chỉ mơ ước
điều mình không có hay không còn nữa. Giải thích về văn hóa, tâm tình người
Việt khi nói chuyện với người Mỹ, cha Lành hay dùng câu mà những người Mỹ trên
60 tuổi thi thoảng hay nói: "We lost our good old days" để chứng minh
cho họ dễ hiểu.
Trong nhận xét về lối sống, tâm tình
người Việt, cha Lành thấy dân Việt tỵ nạn mang tâm tình giống như người Mỹ
khoảng thập niên 1930 trở về trước. Trải qua 60 năm, thế hệ bây giờ của người
Mỹ đã mất hẳn tâm tình này trong khi người Việt lại đang sống chung đụng với họ
phỏng chỉ còn được mấy năm người mình sẽ đã hoàn toàn bị đồng hóa.
Cuộc sống ảnh hưởng tâm tình và cách
cư xử của con người. Văn minh vật chất cung cấp thêm tiện nghi, thời giờ suy
tư, đồng thời lại cắt bớt thời giờ nói chuyện hay sống chung của những người
trong gia đình bởi công việc khác nhau đòi hỏi giờ giấc khác nhau. Thêm nữa,
khi có giờ rảnh một mình người ta thường coi ti vi cho đỡ chán mà ti vi lại chỉ
đưa lên những vấn đề ít khi xảy ra, lâu dần ảnh hưởng thành quan niệm chung... Ai
cũng chỉ nghĩ đến cá nhân mình nhiều hơn do đó cá nhân trở nên khó chấp nhận
người khác hơn nếu không được học hỏi, hiểu biết.
Hơn nữa, sự chấp nhận, cảm thông nơi
một người không thể giải quyết được chi hết mà ngược lại có thể chỉ là đầu mối
cho sự cách biệt. Một người chịu chấp nhận nhưng không thấy gì thay đổi trong
cuộc sống chung giữa vợ chồng để rồi những khó chịu, bất mãn do thái độ vô
tình, thói quen đến độ trở thành cố tật chồng chất lâu ngày nơi người bạn đời
tạo nên sự không thể chịu đựng nơi mình giống như trái bóng càng ngày càng được
bơm căng quá độ, chỉ cần một mũi kim xích mích nhỏ bé cũng khiến nó tan tành.
Mối ưu tư về tương lai gia đình
người Việt tỵ nạn sẽ đi về đâu trong cuộc sống chung đụng văn hóa nơi mảnh đất
xô bồ này càng đè nặng tâm hồn người linh mục trẻ... "Thời Chúa xuống thế
làm người được mấy ai chấp nhận; nếu mọi người chấp nhận đâu Ngài bị đóng đinh
trên thập tự. Chúa bị đóng đinh, chết đi, sống lại rồi lên trời; dân mình không
những đang bị đóng đinh, bị chết mà còn bị đồng hóa dần. Trời đâu để mà về nơi
sự ảnh hưởng văn hóa qua khác biệt này đang tàn phá tâm tư nếu không có được sự
học hỏi thêm…” Cha Lành lặng lẽ suy tư… Cây thập tự hình như lay động nơi bóng
mờ do ánh nến chập chờn… Cây thập tự trong cuộc sống hôn nhân…
9
- Con khổ quá cha ơi...
Người đàn bà nấc lên, hai tay ôm mặt nước mắt
dàn dụa. Cha Lành đẩy hộp "tissue" tới gần chỗ chị ta... Nén tiếng
thở dài, người đàn bà cố nín tiếng khóc có lẽ vì sợ vọng tới phòng thơ ký bên
cạnh. Nhìn tấm thân mảnh mai đến độ tưởng như chỉ một cơn gió nhẹ thổi chị sẽ
có thể biến thành chiếc diều bay phất phới, một ý nghĩ đến với cha Lành; không
hiểu sao với thân xác như thế này, chị ta có thể chịu đựng được những đau khổ
chồng chất... Thế rồi, ngài cảm thấy miệng ngọng lại, khó thở; một tâm trạng
bối rối xót xa do chưa biết chuyện gì đã xảy tới. Tiếng nấc của người đàn bà
như những nhát vồ đập mạnh vô ngực mình... Đôi vai chị ta rung theo tiếng nấc
rồi gục xuống bàn... Âm thanh đứt quãng như bị ép nghẹt bởi nỗi khổ đau cuộc
đời dồn nén đè nặng khiến thân hình uốn cong...
Cha Lành sợ nhất là tiếng khóc của người đàn
bà. Ngồi dựa vô thành ghế, cảm giác tê tái phát xuất nơi lồng ngực lan dần toàn
bộ châu thân... Ngài ngồi lặng đó, bất động, đôi mắt xót xa nhìn cánh vai tiếp
tục rung... nơi trí óc ngài tiếng gào thét nào đó đang vang lên: Đừng khóc nữa,
đừng khóc nữa... Chị khóc làm tôi cuống lên rồi... Tim tôi sắp nổ tung... Chúa
ơi! Nói chị ta đừng khóc nữa, nói đi, con sợ quá... sợ người ta khóc... Sao mà
cuộc đời độc ác thế... Sao... làm chị ta khổ như thế này... Tôi van chị, tiếng
thét âm thầm vút cao chói lói... Tôi van chị!
Thế mà ngài vẫn phải ngồi đó; nói đúng ra
người cứng ngắc không dám cử động; nếu cử động có thể ngài sẽ khóc theo hoặc
không để cơ hội cho chị ta khóc. Chỉ còn mỗi đôi mắt; đôi mắt chết lặng của tâm
hồn đau xót hằn lên... Đôi mắt biết nói, nó bảo cho người đối diện rằng ngài
cũng đang đau khổ cực cùng; ngài cũng đang là kẻ chiến bại dưới sức mạnh vũ bão
độc ác, khắt khe của cuộc đời... Ngài cảm thấy bất lực, chẳng còn hơi sức nào mà
vươn lên nữa trong áp lực của những khốn khổ cuộc đời được phát ra bằng những
tiếng nấc tắc nghẹn này.
Một lúc sau, người đàn bà ngẩng lên, rút liên
tiếp mấy miếng tissue lau mặt; nhìn thấy cha Lành đang trong trạng thái bất
động, cặp mắt đầy vẻ khổ ải nhìn mình, chị bật thành tiếng:
- Cha...
Chợt bừng tỉnh, cha Lành buông nhẹ hơi thở:
- Tôi xin lỗi; tôi biết chị đau khổ lắm nhưng
chẳng biết nói sao...
Người đàn bà chừng như cảm thông nỗi khó xử
của ngài:
- Con làm phiền cha quá... nhưng...
Chị hơi cúi xuống che dấu nét bối rối.
- Ít nhất chị đã cảm thấy dễ chịu hơn...
- Con không muốn khóc... nhưng chịu không
nổi...
- Không sao, khóc được làm cho mình nhẹ nỗi
đau thương; đó là điều nên... Thế chuyện gì đã xảy ra?
Vài giây yên lặng trôi qua, người đàn bà đặt
cả hai cánh tay lên bàn, ngón trỏ phải di di trên mặt kiếng... Đoạn thở dài não
nuột, mắt theo dõi ngón tay di động vô định hướng:
- Chúng con vừa cãi nhau một trận khủng
khiếp... Bao nhiêu đồ quý trong nhà anh ấy đập vỡ sạch. Nguyên do cũng chỉ vì
sự đòi hỏi của xác thịt bẩn thỉu. Đôi khi con muốn được chết đi cho khỏi bị dằn
vặt...
- Chuyện gì dằn vặt chị?
- Con nghe lời cha mẹ lấy chồng đã 8 năm và có
hai đứa con nhưng cho đến nay con vẫn không thể thương anh ấy được... Nhiều lần
con ao ước anh ấy đi ngoại tình để con kiếm cớ ly dị... Con không thể chấp nhận
cuộc sống vợ chồng như thế!
- Như thế nghĩa là thế nào?
- Cha nói như thế cái gì?
- Thì cuộc sống vợ chồng của chị!
- Con không thương được anh ấy.
- Đã hai đứa con rồi mà không thương nghĩa là
thế nào?
- Nói con ngại...
- Một điều tôi muốn nói rõ cho chị biết, những
gì chị nói ra nơi đây sẽ được giữ lại nơi phòng này ngoại trừ chị nói với những
người khác.
- Con nói chuyện vợ chồng khó nói...
- Thì dùng chữ "ăn ở" nếu chị không
muốn dùng chữ khác.
- Vâng. Mặc dầu tụi con ăn ở với nhau nhưng
con cứ cảm thấy là chuyện ép buộc, con phải chấp nhận điều con không muốn, điều
con ghê tởm... Con... con chỉ là thứ dụng cụ bị chấp nhận để cho anh ấy thỏa
mãn...
Rồi chị ta cúi xuống, tiếng nấc tức tưởi bị
dồn ép bởi hai bàn tay bịt chặt lấy miệng vẫn bung ra, hai cánh tay dường như
cố gắng kẹp chặt lấy ngực không cho lấy hơi vô e sợ tạo thành tiếng khóc...
Cha Lành nín thở, có gì đặc nghẹt nơi cổ họng
trong khi tay chân cứng đơ thừa thãi không biết giấu bỏ đi đâu. Chúa ơi! Khi
trên Thánh Giá Chúa có phải cố gắng nín hơi không dám khóc không? Con chiên
Chúa đó, đau khổ cùng cực mà cũng không dám khóc; muốn khóc nhưng vẫn phải cắn
răng chặn lại; mà càng chặn lại càng cảm thấy khốn khổ... Người đàn bà nín
lặng, xụt xịt lấy tissue lần nữa lau nước mắt... Chờ chị ta lau xong, cha Lành
chậm rãi:
- Chị có cho rằng chuyện ăn ở giữa vợ chồng là
điều tội lỗi không?
- Không, nhưng con bị bắt buộc và cảm thấy ghê
tởm làm chuyện ấy. Con... con luôn luôn cảm thấy mình bị ức hiếp như một con
vật bị hành hạ cho chết dần chết mòn dầu mình không muốn.
- Chị ghê tởm anh ấy?
- Con ghê tởm hành động khi phải ăn ở với anh
ấy thì đúng hơn.
- Nhưng chị đã lấy anh ấy mà!
- Vì con sợ bố mẹ con buồn; con không muốn
mang tiếng bất hiếu không nghe lời cha mẹ!... Nên giờ khốn khổ... Con phải làm
sao bây giờ? Cha nói đi, con muốn khùng lên rồi...
Dường như bao nhiêu sự chịu đựng bấy lâu nay
được bầy tỏ nơi ánh mắt van lơn của người đàn bà muốn tìm một giải đáp. Cha
Lành thấy lòng quặn lại! Biết nói sao đây Chúa ơi! Cuộc đời sao lại có những
cảnh huống thống khổ như thế này. Những giọt nước mắt lại tiếp tục lăn trên gò
má chị ta.
Cha Lành cố lấy giọng nhẹ nhàng:
- Chị có bao giờ nghe đến "Marriage
Encounter" chưa? Tôi nghe những người đi dự về nói rằng rất lợi ích cho
đời sống hôn nhân của họ.
- Có nói về gì thì nói, chẳng hy vọng đâu cha
bởi người ta thương nhau; còn con, con có thương được anh ấy đâu!
- Nhưng ít ra nó cũng giúp chị biết thêm những
gì cần nơi sự liên hệ giữa vợ chồng trong đời sống hôn nhân của chị.
- Thưa cha, còn gì nữa đâu mà liên với hệ!
- Thế chị có nghĩ rằng tình nghĩa vợ chồng
trong bấy nhiêu năm chung sống làm chị khó có quyết định rõ ràng không?
- Con chỉ thương anh ấy, không, thương hại thì
đúng hơn chứ con không yêu được anh ấy. Cha hiểu con muốn nói gì không?
- Tôi hiểu; vậy chị có thể nghĩ rằng hãy còn
cách nào đó có thể giúp chị sống hòa hợp và chấp nhận anh ấy một cách thân
thiết hơn không?
- Chẳng còn gì để hy vọng. Con đã suy nghĩ kỹ
rồi. Con cố ép buộc mình chịu đựng để chu toàn bổn phận của một người vợ, nhưng
con không thể gò ép tình cảm của con.
- Chị nói tình cảm nghĩa là thế nào?
- Con không thể yêu được anh ấy thế nên con
không cảm thấy chút gì hạnh phúc về chuyện vợ chồng ăn ở với nhau mà trái
lại...
- Chị nghĩ thế nào về tình yêu?
- Con chỉ có thể cho tất cả với người yêu
thôi...
- Chị đã bao giờ đặt vấn đề về mẫu người mà
chị yêu phải thế nào không?
- Con không đặt vấn đề nhưng...
- Chị có người yêu!
Đôi mắt người đàn bà chớp lẹ hơn và bừng sáng
lên nhưng lại ngồi im bất động như có một mãnh lực nào đó bao trùm khiến toàn
bộ thể xác lẫn tâm hồn bị định hướng về một khung trời nào đó...
- Con yêu anh ta, con sẵn sàng chấp nhận tất
cả.
- Hai người có bao giờ gặp nhau không hay chị
chỉ yêu một chiều?
- Chúng con gặp nhau nhiều lần trước khi con
nghe cha mẹ lập gia đình. Tụi con...
- Anh ấy thế nào?
- Anh ấy có vợ và hai đứa con...
Cha Lành im lặng chờ...
- Tụi con... yêu nhau, con không thể dùng bất
cứ gì để so sánh được.
- Chị nói yêu nhau nghĩa là sao?
- Tụi con làm chuyện ăn ở... Khi chấp nhận lấy
chồng, con nghĩ rồi nó cũng qua và con nghĩ mình có thể chấp nhận được...
Người đàn bà buông câu đứt quãng và ngồi im
như cố đè nén sự phũ phàng đang dấy động.
- Chị có thể so sánh chuyện ăn ở ấy với chuyện
giữa vợ chồng không?
- Có thể nói một đàng là hạnh phúc tuyệt vời,
đàng khác là cảnh đày ải khốn nạn, ép buộc...
- Thế nếu cuộc sống hôn nhân tiếp tục kéo dài
vì hai đứa con, chị có cách nào để giải quyết tình cảm của mình đối với chồng
chị không?
- Con chẳng biết sao nữa... Con suy nghĩ quá
nhiều rồi mà không biết phải làm gì.
- Vậy chị có thể bỏ ra một số thời gian nói
chuyện với người chuyên môn có thể giúp chị không?
- Cha nói người chuyên môn như thế nào?
- Chị đang mang một tình cảm bị gò ép trái
ngược; nghĩa là một phần nào đó chuyện ăn ở với anh ấy ảnh hưởng nặng nề nơi
tâm trí và có thể nói đã gây nên một tâm bệnh. Tôi nghĩ chị cần được giải tỏa
nỗi đau khổ tâm tư này.
- Đâu ai có thể hiểu được!
- Ít nhất tôi cũng hiểu được phần nào, nhưng
tôi không phải là nhà chuyên môn về tâm bệnh...
- Cha muốn nói bác sĩ tâm bệnh học?
Thái độ chị ta đầy vẻ thất vọng và giận dữ vì
thấy mình bị cho là mang tâm bệnh...
Biết sao đây! Được nuôi dưỡng, lớn lên nơi một
môi trường nghèo khổ phải tranh sống với tất cả khả năng của mình. Kinh nghiệm
thực tế này làm mình tưởng không ai có thể giúp mình giải quyết chuyện tâm
tư... Hơn nữa, bởi chịu đựng lâu dần thành quen nên tự mình cũng không dám làm
gì để đi đến một quyết định rõ ràng mà cứ gò ép bản thân chấp nhận để rồi khi
nào quá sức chịu đựng mới kiếm người than thở... thế nhưng, đâu vẫn hoàn đấy...
Nỗi thống khổ dồn lên nghẹn cổ cha Lành; áp
lực nào đó khiến ngài cảm thấy khó thở, cố đẩy hơi... buông tiếng thở dài...
đâu phải một mình chị! Bao nhiêu người rồi mà tôi nào có dám nói ra. Tôi là
linh mục, tôi không dám nói sự thật khốn khổ này! Tôi học Giáo Luật, tôi biết
rằng bất cứ cuộc hôn nhân nào mà bị ép buộc hoặc lấy nhau ngoài ý muốn của mình
mà vì cha mẹ, vì tiền bạc, hoặc vì đã lỡ chuyện nọ chuyện kia đều không thành
ngoại trừ sau này hai người thực sự thương nhau, chấp nhận sống cho nhau và vì
nhau, dâng hiến cho nhau. Còn ngoài ra... Nhưng khổ nỗi, người Việt mình không
dám sống cho chính mình mà còn bị ảnh hưởng bởi danh dự gia đình, giòng họ, còn
tiếng đời đàm tiếu... Cho nên chấp nhận thì không thể chấp nhận được, thương
yêu cũng không, mà trái lại ghê tởm; ghê tởm nhưng cứ phải cắn răng chịu những
điều mình không muốn vì tiếng tăm, danh dự gia đình, thứ giết người cả xác lẫn
hồn để rồi... Đêm nào cũng chấp nhận... bị chồng hiếp... khốn nạn quá... Thật
cái văn hóa cứng ngắc giết người lần mòn từ thể xác đến tâm hồn mà đâu nhận ra
rằng người Việt mình bị ảnh hưởng giáo điều của Khổng học một cách máy móc; cứ
cho rằng nhất Tàu nhì ta mà; để rồi vâng lời không cần biết phải hay trái, nên
hay không nên và tưởng rằng đó là hiếu thảo; không làm theo ngay cả những điều
sai lầm của cha mẹ thì lại bị nói rằng bất hiếu... Chúa ơi, dân Việt tỵ nạn
chúng con mang thánh giá bùn, vác không được, bỏ không xong. Chúng con là nạn
nhân của hai nền văn hóa không có điểm nối tiếp mà tương phản. Chúng con hoan
hỉ theo Chúa với tâm hồn mở rộng bình đẳng giữa con người với con người trước mặt
Chúa trong khi mang cả một nền giáo dục in sâu vào tâm não những luật lệ giáo
điều cổ xưa không bình đẳng cũng chẳng bình quyền. Chúng con đang mang một thân
xác với nền văn hóa cũ, ý thức cũ trong khi sống nơi một xã hội mới, ngập đầy ý
thức mới. Chúng con như những chiếc bình cũ đang được đổ vào bằng những thứ
rượu mới của đất văn xóa tạp chủng này... Thà rằng cứ ở Việt Nam, cứ tin tưởng
một cách mê muội rằng nhất Tàu nhì ta để nghĩ chỉ có một đường duy nhất là cắn
răng chấp nhận sự đày đọa và đổ lỗi là Chúa phạt để lê lết những ngày khốn khổ
cho qua kiếp người thì dễ chịu đựng hơn... Sự hiểu biết thêm có phải cũng là
tội lỗi trước mặt Chúa hay sự mê muội không biết để sống trong cảnh đày đọa làm
vui lòng Chúa hơn?... Con biết nói sao đây với chị ta! Chúa có biết rằng con
đang muốn hét lên: "Bí tích hôn nhân của chị không thành" bởi chị lấy
anh ấy vì cha mẹ chứ không phải vì chính anh ấy và chị. Chị nói đúng, chị không
thương yêu anh ấy nên chị ghê tởm chuyện ăn ở với anh ấy. Tôi hiểu, tôi biết
tâm lý đàn bà mà. Chị đã thương ai thì ăn ở với người đó là một hồng ân, một
hạnh phúc tuyệt vời, mà chị không thương ai thì chuyện ăn ở là điều ghê tởm.
Người đàn bà đã thương ai thì họ hiến dâng tất cả tâm hồn lẫn thể xác, họ hy
sinh tất cả cho người ấy, có băm nát họ ra, họ cũng lấy làm vui sướng; mà đã
không thương ai thì đừng hòng xớ rớ dù chỉ chút lông chân họ. Vậy mà... chị
phải chấp nhận để chuyện chị ghê tởm xảy ra hằng đêm chỉ vì cha mẹ, vì cái gọi
là hiếu, vì cái gọi là danh dự... Tôi hỏi chị, hiếu hay là giết lần mòn con
mình theo ý mình thích; hiếu hay là mặc cảm bị chồng hiếp luôn luôn đè nặng tâm
trí. Còn danh dự, danh dự gia đình hay nấm mồ khắc nghiệt chôn sống con người
không cho lên tiếng nói lại bắt phải vui cười trong khi tâm hồn ngập đầy hãi sợ
khổ não. Danh dự gia đình hay tội lỗi bởi sự thiếu hiểu biết mà ra? Dùng cái
gọi là danh dự gia đình, cái văn hóa loài người đặt ra để giết chết một tâm
hồn, chẳng có tội lỗi nào đáng ghê tởm hơn, nhờm gớm hơn!... Cha Lành, cha nói
sao đây? Nói ra sự thực, cha sẽ bị kết án rằng xui người ta phá phép bí tích
hôn nhân mặc dầu cha biết phép bí tích không thành. Người ta sẽ nói cha cấp
tiến, rối đạo bởi không để cho họ chôn sống từ từ chị này. Không nói ra, cha
đánh lừa dân Chúa; cha ậm ừ cho qua, cha đã vào phe với những kẻ giết người lần
mòn bằng sự nhân danh danh dự, nhân danh văn hóa, nhân danh luân lý dân tộc và
còn nhân danh chính Chúa bởi sự hiểu biết một cách mù mờ về Phúc Âm, bởi ngây
ngô nhai lại "Những gì Thiên Chúa đã trói buộc, loài người không được phân
ly" không thèm suy nghĩ, quên rằng Chúa ban cho con người tự do mà chính
Ngài cũng tôn trọng... Chị ta đâu có tự do hoàn toàn để chấp nhận lập gia đình
mà vì sợ cha mẹ buồn... Cha Lành... cha đang phải đối đầu với sự thực phũ
phàng! Cha đứng giữa Giáo Luật và văn hóa, Giáo Luật và danh dự, Giáo Luật và
sự thiếu hiểu biết... Đừng trốn chạy... Cha không được phép trốn chạy! Chúa
Giêsu nói lên sự thực, quân Pharisiêu giết Ngài. Cha nói lên sự thực theo Chúa,
dân tộc cha sẽ giết cha, mọi người, bạn bè, cha mẹ, anh em họ hàng, toàn bộ
những người quen biết sẽ kết án cha; cha sẽ bị khổ hơn là bị bằm nát... Chọn
Chúa hay chọn sự kính trọng mê muội của người khác? Cha theo Chúa hay cha vào
hùa với sự tàn ác bởi thiếu hiểu biết? Đàng nào cha cũng khốn khổ. Nói ra cha
giết chính cha; không nói ra, cha vào hùa với mọi người giết lần mòn chị này
như đã bao nhiêu năm... Lương tâm cha đâu? Cha có dám chấp nhận mình bị kết án
vì dám nói sự thật không? Cha không nói lên sự thật, Chúa lên án cha; cha nói
lên sự thật, mọi người kết tội cha... Cha theo đàng nào?
Thấy cha Lành ngồi chết lặng hồi lâu... Người
đàn bà cúi thấp đầu như thể chấp nhận mình đã phạm phải lỗi lầm quá nặng để cha
không muốn nói lời tha thứ... Nhưng không, ngài đã chẳng trách móc gì, lại dịu
dàng hỏi:
- Hai cháu bao nhiêu tuổi rồi?
- Một đứa 6, một đứa 4 tuổi.
- Thế giờ chị tính sao?
- Con cũng chẳng biết tính sao nữa. Nếu mà
không vướng hai đứa con, con đã bỏ anh ấy từ lâu vì mấy năm nay con không chấp
nhận chuyện ấy nữa... Đàng khác con không muốn cho hai đứa con của con không có
bố; con không muốn sự ra đi của con ảnh hưởng hai đứa nhỏ.
- Thế tính tình anh ấy...
- Anh ấy thương con và hai đứa nhỏ, ít khi la
mắng hay phiền trách con, nhưng con không thể thương yêu được anh ấy... nên...
- Tôi không biết phải nói thế nào vì tôi biết
rõ dù nói cách nào cũng bị lên án... Tôi nghĩ, điều tốt nhất, tôi đưa chị mượn
cuốn sách Giáo Luật, đem về đọc những luật tôi đã ghi số vào một tờ giấy rồi
hãy quyết định chị phải hay nên làm gì. Thực ra, tôi tin rằng chị mới nói cho
tôi biết may ra chưa được 1/5 nguyên do hay những chuyện xảy ra. Hơn nữa, tôi
chỉ có thể nghe chị nói, rồi tóm tắt những chuyện xảy ra theo lời nói của chị
để chị có cái nhìn rõ hơn và quyết định cho chính mình. Tôi không đề nghị được
gì đâu vì tôi không hiểu rõ vấn đề và sự liên hệ hay tâm tình của chị bằng
chính chị trong những hoàn cảnh đã xảy ra... Đây là cuốn Giáo Luật, chị nhớ về
đọc kỹ; nếu có gì khúc mắc, gọi điện thoại cho tôi. Bây giờ chị nên ghé vô nhà
ai quen rủ người bạn gái về nhà với chị chắc anh ấy phải ngưng đập phá. Nhớ lẹ
lên kẻo anh ấy phá hết đồ đạc lại tốn tiền mua sắm.
- Cảm ơn cha, con về; con sẽ đem trả lại cha
sau. Chào cha...
- Chào chị.
Cha Lành tiễn người đàn bà ra cửa... Quay trở
lại bàn viết, ngài thở ra một hơi dài.. Xin Chúa giúp chị ta tìm thánh ý Chúa
qua Giáo luật và sự tử tế của chồng,,, sự yêu thong vào hai đứa nhỏ….. Còn con,
nào biết nói chi! Ngài lẩm bẩm.
10
Hôm chia tay với Huỳnh, trên đường
về, cha Lành tiện thể ghé thăm một người giáo dân bịnh mới vô nhà thương. Mỗi
lần thăm bệnh viện, câu chuyện thực tập ngành tuyên úy bệnh viện lại như cuốn
phim diễn qua tâm trí ngài. Kỳ hè sau năm thứ hai thần học ngài tham dự khóa CPE
(clinical pastoral education) tại nhà thương Southern Baptist Hospital, New
Orleans, LA. Đêm ấy ngài trực phải ngủ lại nơi phòng dành riêng cho tuyên úy.
Chẳng may số bệnh nhân tăng lên quá đông làm những phòng chưa được thăm viếng
do các tuyên úy khác để lại hơi nhiều, hơn 20 phòng. Sau cơm tối, ngài phải đi
thăm cho hết nên về tới phòng ngủ đã hơn 10 giờ khuya. Tắm rửa, thay đồ, đọc
kinh, viết "verbatim", chuẩn bị lên giường thì đã nửa đêm tự lúc nào.
Bốc điện thoại gọi cho "operator" yêu cầu liên lạc với ngài bằng điện
thoại nếu có chuyện cần kíp xảy ra thay vì phát làn sóng đặc biệt tới chiếc
"bipper" bởi chiếc bipper đôi khi bắt trùng làn sóng khác đã làm ngài
mất ngủ lần trực trước.
Ai đã trực mà không sợ chiếc bipper.
Mỗi khi nó kêu lên là tim muốn nhảy khỏi lồng ngực nhất là bipper tuyên úy...
Hơn nữa, khí giới độc nhất của tuyên úy chỉ là sự hiện diện của mình và cái
miệng mà đa số thì trong những lúc cần kíp, khi mọi sự rối um lên, cái miệng
cũng bị líu lưỡi không chịu làm việc hoặc có muốn làm việc cũng không được để
rồi tuyên úy chỉ biết đứng đực ra đấy, chơ vơ như câm giữa những người khóc lóc
có khi gào thét vì quá thương xót người thân gặp chuyện cấp cứu. Điều làm cho
thày Lành ngày ấy khó đối xử là sự khác biệt văn hóa; lại nữa đôi khi đành phải
bắt chước gượng gạo kiểu cách diễn xuất cảm thông; - gặp lúc người ta đang đau
khổ, khóc lóc, đâu thèm nghe chi; hơn nữa, những người lớn khóc cũng khó nên sự
khóc trở thành những tiếng nấc nghẹn dễ đem đến phản ứng nguy hiểm cho cơ thể
của những người áp huyết cao hay yếu tim v.v... - thế nên động tác cảm thông
không còn phải là cái miệng mà theo như thói quen người Mỹ, ôm họ, vỗ nhè nhẹ
nơi vai đấu dịu. Được lớn lên trong nền phong hóa Việt Nam khiến thày Lành cảm
thấy ngại ngùng khi phải đụng chạm đến đàn bà con gái, nhưng trong thế đứng
tuyên úy ấy, thày đành chấp nhận gượng gạo làm theo... Đúng là chuyện cảm thông
cười ra nước mắt và ngây ngô vì khác lối diễn xuất... Không học theo thì đứng
đực ra đấy như trời trồng, ngơ ngơ ngáo ngáo chẳng khác gì mới rớt từ hành tinh
khác xuống, mà học theo lại càng ngây ngô hơn, giống cái robot thi hành động
tác...
Tắt chiếc bipper đoạn trèo lên
giường kéo tấm trải mỏng đắp tới ngực định tận hưởng vài phút mát lạnh của hệ
thống điều hòa không khí trước khi rơi vào giấc ngủ, điện thoại bỗng reo vang
làm thày Lành giật nảy người, choàng choáng chồm dậy chụp ống nghe...
- Tuyên úy trực!
- Bà già nơi phòng số 423 đang khóc
không ai có thể khuyên giải được; tuyên úy đến ngay cho...
- Vâng, tôi tới ngay.
Bận quần áo, thắt cà vạt trong những
lúc vội cứ rối cuống lên như "bố vợ bị đấm". Nào là chưa bỏ áo trong
quần đã thắt dây lưng đành phải tháo ra thắt lại hoặc nhét chỗ nọ, nhét chỗ kia
cho áo gọn theo nề nếp; nào là mặc áo trái; nào chưa mang vớ đã vội xỏ chân vô giày
hoặc đôi khi còn tệ hơn, giày vớ đóng bộ đầy đủ đến lúc cầm đến chiếc áo khoác
mới chưng hửng vì chưa mặc quần dài. Cà vạt nếu lười một chút, lúc tháo ra chỉ
kéo rộng cổ chui qua treo lên mắc thì còn đỡ nhưng nếu vì xót xa lỡ nó bị nhăn
mà lúc vội quấn qua quấn lại xỏ tới xỏ lui cứ lộn tùng phèo như rợ vô rừng là
chuyện bình thường. Quần áo đã thế, đầu tóc thường thì quên chải; vội mà, lúc
đã rối lên thì còn tâm trí đâu mà nhớ phải chăm sóc "sắc đẹp" trước
gương nơi phòng tắm; thế là đang đi trên đường mới sực nhớ để rồi hai tay vuốt
lấy vuốt để. Hôm nào may mắn chịu khó chờ tóc khô hẳn trước khi nằm dài ra ngủ
còn đỡ; tắm xong, lau sơ bộ tóc rồi vội trèo lên giường khiến tóc trở thành
những hàng chông quen nếp nổi loạn thì có vuốt mấy cũng trở thành bơ phờ...
"quái thai tuyên úy".
Những hành lang thinh lặng dật dờ;
đây đó các trạm y tá đầy vẻ hiền lành nhân ái của tình người dễ thương - nhưng
không kém phần chuẩn bị cho những cơn sôi động bất ngờ trong trường hợp khẩn
cấp- trên đường tới phòng 423 như thông cảm phần nào nỗi lòng xao xuyến của
người tuyên úy trẻ thực tập nơi nhà thương. Biết nói sao bây giờ! Thái độ phải
thế nào đối với bà già đang khóc! Xưa nay, nay xưa, thày Lành rất sợ người nào
khóc. Những thăng trầm nơi cuộc sống đã qua tạo nơi tâm hồn thày "sinh
chất" chai đá, chịu đựng trong những trường hợp nguy hiểm cần điềm tĩnh,
vững tâm. Thế nhưng tính chất chai đá sân si này luôn luôn gục ngã trước bậc
thềm nức nở. Gặp ai khóc, thày cảm thấy cuống lên, dù chỉ là mấy đứa trẻ. Nhiều
lần thày tự hỏi không hiểu sao các bậc cha mẹ có thể điềm tĩnh, thản nhiên khi
con cái họ chành chọe chọc nhau rồi lăn đùng ra la hét. Thày cảm thấy thán phục
họ; phục họ vì giữa cảnh hỗn độn rối loạn của những tiếng la hét như muốn đứt
hơi phát ra từ những buồng phổi tí hon xuyên qua cửa miệng ngọt ngào nơi nét
mặt thơ ngây ấy đã như cấu nát, xé tan cõi lòng vậy mà họ có thể thản nhiên
giải quyết... Nhiều lần cảm thấy thương mẹ quá đỗi, thương muốn khóc mà khóc
không được, nói thương mẹ cũng không nổi trong cái phong hóa người Việt thời
gian ấy, thày Lành chỉ biết ngậm tăm cố đè nén tâm tư sôi động. Mỗi khi mẹ gặp
chuyện gì ưu phiền, những tiếng thở dài hoặc đôi lời tâm sự của mẹ đã khiến
thày Lành tan nát cõi lòng... không biết tính sao... Thế mà giờ đây phải đối diện
với bà già đang khóc...
Kinh nghiệm nơi ngành tuyên úy dạy
rằng những dự đoán về tâm trạng và vị thế bệnh nhân chỉ được nhận xét tổng quát
nơi mấy giây đầu tiên khi người tuyên úy vừa bước vào cửa phòng bệnh. Mặc dầu
nhà thương có khi lên tới vài trăm giường, nhưng không phòng nào giống phòng
nào vì không bệnh nhân nào giống bệnh nhân nào và cũng không nên dự đoán bất cứ
gì trước khi bước vào phòng bệnh. Thái độ, nét mặt của người tuyên úy cũng phải
được kịp thời phù hợp tùy theo sự nhận xét nơi mấy giây đầu tiên ấy. Hơn nữa,
vấn đề quan trọng nhất lại là mấy câu mở đầu, giọng nói, âm thanh sao cho hòa
hợp với thái độ của mình đồng thời tỏ ra hiểu biết và thông cảm được tâm trạng
bệnh nhân... Đó là những bệnh nhân trong trường hợp bình thường.
Đàng này, thày Lành không thăm viếng
người bệnh mà là người khóc. Chỉ Chúa biết được bà ta khóc vì lý do gì; điều gì
đã là nguyên nhân khiến cho một bà già khóc. Tủi thân vì không ai thăm viếng,
vì cô độc chẳng thân nhân, vì đau đớn thân xác, hoặc vì nghèo túng gặp cơn hoạn
nạn không nơi nương tựa... lý do... lý do... không ai hiểu được! Y tá đã quen
việc mà không sao có thể giúp bà ta ngưng khóc; bác sĩ chuyên môn bó tay thì
với cái lưỡi cứng đơ trong cái miệng ngọng ngoẹo tiếng Mỹ nào có thể hy vọng
gì! Muốn mở miệng còn chưa nổi nói gì tới làm sao có thể khuyên giải bà ngưng
khóc.
Chân tay thày Lành trở nên nặng nề
không muốn bước; tâm tư bấn loạn vì không biết tính sao. Lòng thày chùng xuống,
chùng xuống khiến đôi vai bị kéo theo và cái đầu nặng nề đè cong cần cổ cúi gầm
lầm lũi cầu mong sao đi hoài không tới. Số phòng tăng dần dọc theo hành lang
tới cầu thang rồi những nấc thang nối tiếp chồng lên cao... lầu hai, lầu ba,
chưa chi đã tới lầu bốn. Trạm y tá chình ình trước mặt khi thày vừa bước qua
cửa cầu thang; nó cũng mang không khí thinh lặng, thinh lặng đến nặng nề. Hai y
tá trực trầm ngâm trước dãy màn ảnh ti vi thay đổi hình ảnh quan sát từng
phòng.
- Chào quí vị, có phải lầu bốn gọi
tuyên úy trực cho phòng 423?
- Vâng. Có một bà già khóc hoài
không ai biết cách nào giúp bà ta...
- Quí vị có biết tại sao bà ta khóc
không?
- Bà ta không chịu nói với bất cứ
ai, chỉ xụt xùi khóc. Ai hỏi cũng không trả lời.
- Bà cỡ bao nhiêu tuổi?
- Chừng gần tám chục...
- Có ai ở đó với bà ta không?
- Chồng bà bị mổ để thay pin trợ
tim; bà tới giúp ông ta.
- Xin cảm ơn...
"Chúa ơi! Mọi người Mỹ chấp
nhận thua cuộc mà con chỉ có thể nói tiếng Mỹ ngọng trếu ngọng tráo lại khác
tâm lý, phong hóa; họ đã không thể hiểu thì con càng mù tịt!" Thày Lành
thầm nghĩ! Chưa là linh mục đã gặp cảnh trớ trêu như thế này thì khi làm linh
mục có muốn trốn thoát cũng không được! Thôi cũng không sao, cứ tới cho qua,
mọi người chịu thua thì mình không làm chi được cũng chẳng có gì lạ... Không
trốn thoát nổi đành chấp nhận đối diện chứ biết sao hơn... Thày Lành tự kiếm lý
do an ủi chính mình để rồi thầm thĩ cầu nguyện vớt vát: "Chúa ơi, mở dùm
cái miệng ngọng này ra nói trếu tráo vài câu xin hai chữ an bình sớm sớm còn đi
ngủ..."
Vừa được vài bước đã tới phòng 423;
bỗng chân thày Lành chùn lại không muốn bước tới gần ngưỡng cửa bởi sợ phải
phỏng đoán trong khi đầu óc xáo trộn do bận rộn e ngại. Thế nhưng ngừng cũng
chẳng được nữa; hai nàng y tá đang theo dõi người tuyên úy non choẹt miệng
ngọng này... và rồi sững sờ ập tới...
Căn phòng trống trơn không một bình
hoa hay cánh thiệp. Sát khung cửa kiếng chạy dài bên kia, hai chiếc ghế salon
đâu lại. Một mớ mền gối xếp ngay ngắn nói lên chứng tích có người phụ giúp nghỉ
đêm. Trên giường bệnh, một cụ già lớn con nằm thiêm thiếp miệng mũi bịt đồ dẫn
dưỡng khí giúp cụ thở. Bên cánh phải sát cửa phòng vệ sinh ngay lối vào, bà cụ
già tóc trắng xóa vừa xụt xùi vừa cầm bình thủy nước nóng đổ vào ly pha trà...
- Chào bà...
Không có tiếng trả lời trong khi bà
cụ vẫn xụt xùi và tiếp tục rót nước, không quay lại, coi như không nghe và
không biết có sự hiệu hữu của người ngọng mới tới... Thế là thày Lành đớ ra,
đứng ngơ ngơ không biết ăn nói sao cho phải. Tiến thoái lưỡng nan, người ta đã
không thèm nói thì dĩ nhiên mình đớ ra bởi ngọng miệng không còn biết nói gì...
Cỡ 30 giây sau, 30 giây đằng đẵng nặng nề nghẹt thở, thày mới đánh bạo gợi
chuyện:
- Ông cụ đỡ chưa và có cảm thấy khỏe
hơn không?...
- Ông ấy không nói được vì dụng cụ
bơm dưỡng khí nhưng cũng đỡ hơn nhiều.
Mừng hết lớn, thày Lành cảm thấy thế
vì cóc đã mở miệng. Nhưng nói sao và nói gì đây! Mới "sửng" vì không
được trả lời giờ lại bị sửng vì cóc đã mở miệng. Từ từ, thày Lành nghĩ, chầm
chậm rà rà để tìm lý do; thử nói những chuyện trời mưa trời nắng; con chuột có
đuôi dài hơn con mèo... ngớ ngẩn xem sao...
- Bà cụ nghỉ đêm tại đây giúp ông
cụ.
Hỏi mà thày Lành phát ngượng cho
chính mình. Biết rõ rằng bà cụ ngủ đây giúp ông cụ mà còn hỏi; thật là giả đò
dấm dớ, cứ làm ngang như tán em khó tính. Trật người rồi thày Lành ơi, thày
thầm nghĩ, đào này thiên hạ chịu thua cả nút rồi đó, y tá, bác sĩ nào phải
những tay mơ mà còn tán không được phương chi Mít ngọng tán theo giọng bài hát
nào của Phạm Duy: "Trên một cành cao có một tổ kiến, có con đi ra lại có
con đi vào, ngày hôm nay nắng yêu em biết bao." Tổ kiến lúc nào chả có con
đi ra đi vô mà cũng phải nói lên; trời không nắng thì mưa có gì đâu phải nói
lên nắng nên yêu em; vậy mưa thì sao? Thày Lành muốn phì cười với sự so sánh thoáng
qua trong óc mình.
- Vâng, cuộc đời nhiều lúc có những
cảnh khó thể mang.
Đúng là thánh nhân đãi kẻ khù khờ
hoặc không thánh đãi thì cũng may mắn như chó ngáp phải thịt quay! Bà cụ đã
chịu nói mà lại nói đúng gút mắc của câu chuyện. Đèn xanh đã bật, thày giả đò
vô tình:
- Bà cụ chắc có chuyện gì phiền
muộn...
Không hiểu có phải bà cụ càng có
tuổi càng thính tai hơn hay cái miệng thày Lành đột nhiên được Thánh Thần cho
phép nói tiếng lạ làm bà cụ hiểu rõ ràng để rồi như bị gãi đúng chỗ ngứa xổ một
tràng lẫn lộn với tiếng xụt xịt:
- Mấy cái con y tá trẻ chúng nó cứ
làm như chúng tôi già rồi không biết gì hết; chúng nghĩ rằng chúng tôi không
biết phải lo cho chính mình những chuyện cần thiết mà cứ ra lệnh thế nọ, thế
kia... làm cái này, làm cái nọ và phải làm kiểu này chứ không được làm khác ý
chúng nó... Chúng nó có nuôi con mới biết lòng cha mẹ khổ cực dường nào và phải
vất vả chật vật thế nào mới nuôi được con cái thế mà cứ cho chúng tôi là dốt
nát...
À thì ra bà cụ buồn vì mấy chị y tá
ăn nói vô tình làm chạm tự ái tuổi già... Nào có lạ gì, quí cụ đã có nhiều thói
quen, nhiều kiểu làm riêng của mình có khi từ ba bốn mươi năm trước lại thường
cho rằng chỉ có cách ấy mới đúng, mới được, ngoài cách đó ra chẳng còn cách nào
hay hơn, tốt hơn. Quí cụ đâu có để ý có nhiều cách khác quí cụ chưa bao giờ thử
và cũng không muốn thử dẫu cho những cách đó giản tiện và chẳng những hợp lý,
hợp tình mà lại còn kết quả và hợp vệ sinh hơn. Gì chứ điều này thì thày Lành
rành sáu câu quá rồi; cần gì phải nói đâu xa, chính ngay bố mẹ thày vẫn thường
câu chấp như thế. Ai đời thuở nào đun bếp điện mà má thày nhờ cậy người ta mua
cho bằng được cái nồi đất rồi cứ thế đem kho cá và cho rằng kho cá phải bằng
nồi đất mới ngon mà lại kho khô nữa mới xót chứ. Có nói ra thì "Tao còn đẻ
ra mày" để rồi thày cứ xót dạ vì tiền điện ông bà phải trả trong khi má
thày lại cứ than rằng không dám chạy máy lạnh mà tiền điện vẫn tốn nhiều. Có
khi thày nói mát: "Cá kho phải đun bằng rơm mới có chất thơm của mùi lúa
chín... để rồi má thày ca một câu: "Cha tiên sư bố mày..." Thày còn
nhớ câu chuyện do một người bạn kể: "Anh ta hay đến thăm một cặp vợ chồng
quen thân, chị ấy nấu thịt kho tộ tuyệt vời, ăn hoài không thấy chán, nhưng có
một điều lạ là khi bỏ thịt vào nồi để nấu, mặc dầu chiếc nồi lớn, chị ấy không
thèm để nguyên miếng thịt to như thế hoặc cắt thành từng miếng vừa vừa hay nhỏ
mà chỉ cắt đôi. Hỏi tại sao cắt đôi thì chị nói má chị ta kho như vậy và cắt
đôi thì thịt kho mới ngon. Thắc mắc vì câu trả lời không hợp lý, bạn thày Lành
một hôm có dịp gặp má chị ta hỏi lý do tại sao miếng thịt cắt đôi kho tộ mới
ngon thì bà trả lời rằng sở dĩ bà cắt đôi miếng thịt vì ngày xưa cái nồi kho tộ
của bà hơi nhỏ không để nguyên miếng thịt vào được..." Chắc bà cụ này lại
chỉ dùng nồi đất kho cá hoặc cứ chỉ cắt đôi miếng thịt để kho tộ do đó y tá
giải thích nên phiền lòng đây mà... Thôi thì chiều lòng để Chúa thử thông cảm
với bà xem sao...
- Thưa bà, Chúa ban cho bà thọ như
thế chắc bà thừa hiểu; trong cuộc đời, nhiều khi mình cũng giống như Chúa chịu
đóng đinh trên cây thập giá, không thể chia xẻ cùng ai và cũng không ai có thể
chia xẻ được với mình. Nhưng tôi tin rằng Chúa đã có kinh nghiệm cô đơn ấy Ngài
hiểu thấu được lòng bà. Thế nên, tôi nghĩ đây là cơ hội Chúa đang mời gọi bà
chia xẻ với Ngài nỗi cô đơn thập tự. Chỉ Ngài hiểu và chỉ Ngài mới có thể cảm
thông được tâm tình đơn độc đau khổ này. Do đó, nếu mình dâng lên Chúa nỗi
thống khổ tâm tư; tôi nghĩ có ích lợi hơn là cảm thấy phiền hà mấy người trẻ vô
tình...
Bà cụ như được nở khúc ruột đang
quặn thắt vì gút mắc. Còn gì thơ thới hơn khi được người khác hiểu tâm trạng
đau khổ tủi thân của mình (dầu chỉ là cho qua với đôi lời đò đưa). Không để
thày Lành có cơ hội cố gắng rặn ra những điều lải nhải, bà cụ hớt ngang:
- Anh nói đúng, chỉ Chúa mới hiểu nổi
cảnh đau lòng của tuổi già chúng tôi. Cảm ơn anh đã nói cho tôi biết. Chúa thực
sự ở cùng anh vì lời anh nói ra làm tôi thấy mát cả ruột gan...
Không biết bà cụ có thực sự hiểu
thày Lành nói gì không chỉ thấy nước mắt bà đổ ra hơi nhiều. Lúc trước, bà chỉ
xụt xùi với cặp mắt ráo hoảnh thế mà giờ bà cụ lại khóc thật làm thày cuống lên
vừa cảm thấy mình vô tình gặp may mắn, vừa nhớ lại câu chuyện một người bạn kể
kỳ học năm thứ nhất nhân tiện khi hai người bàn thảo về lớp thực tập giảng
trước công chúng:
Có cha ngoại quốc kia làm phó nơi
một xứ Mỹ, sau lễ, một bà cụ đến nói với ngài:
- Thưa cha, cha nói đúng quá. Những
lời cha giảng hãy còn văng vẳng bên tai con.
Ngài cảm thấy hãnh diện phần nào vì
ít nhất hãy còn có một bà cụ am hiểu những điều ngài nói nên hỏi theo:
- Có lẽ bà cụ cũng đã gặp nhiều kinh
nghiệm như thế...?
Ngài chưa kịp nói xong, bà cụ đã cao
giọng hơn chút:
- Thưa cha, xin cha nói lớn hơn vì
con bị nặng tai.
Bao niềm hãnh diện mới chợt ló dạng
đã vội tan theo mây khói nhưng ngài cũng đành phải đổi vội câu hỏi nói tránh
sang chuyện khác...
Còn đang cảm thấy cảnh ngộ nghĩnh so
sánh trường hợp mình với câu chuyện oái oăm kia thì bà cụ đã ôm chầm lấy thày
Lành, ngậm ngùi nức nở vì được xoa dịu tâm tư... Trong khi thày lại càng đớ ra
hơn, ngơ ngơ ngáo ngáo chẳng biết làm sao; tay chân luống cuống để đâu cũng khổ
đành vỗ nhè nhẹ lên hai vai bà cụ... Thở hắt ra một hơi dài để hoàn hồn khi bà
cụ buông thày ra, mừng thầm vì may mắn bà cụ tin vào Chúa, nếu không, có lẽ
hỏng to. Thôi thì cũng nên cảm ơn Chúa vì bà cụ tin vào Ngài và chuyện cũng đã
xong. Chào bà cụ, thày Lành vội trở lại phòng tuyên úy, hy vọng tìm được giấc
ngủ ngon và cầu mong một đêm yean lặng đến với mình.
11
Reng... reng..., tiếng điện thoại
như xoáy vào óc khiến thày Lành chồm dậy nửa tỉnh nửa mê nhấc ống nghe đặt vô
tai.
- Tuyên úy trực.
Tiếng nói quá nhỏ làm thày cố gắng
nghe nên tỉnh hơn chút... Ồ, vội quá do đó đặt ngược ống nghe. Liếc qua chiếc
đồng hồ đeo tay trên bàn ngủ, mới 2 giờ sáng! Thời giờ của sự mê mệt thống trị
mọi người ngoại trừ họ hàng nhà chuột... Mới ngủ được một tiếng mấy phút... cái
đầu nặng chình chịch, và cặp mi cứ muốn dính liền lại với nhau... Xoay lại ống
nghe:
- Tôi chưa nghe rõ, làm ơn nói lại
được không!
- Có người muốn nói chuyện với tuyên
úy; để tôi nối điện thoại...
- Vâng bà làm ơn!
- Đây bà ấy...
- Hello! Tuyên úy trực.
- Tôi muốn nói chuyện với tuyên úy
Linda; tuyên úy có biết số phone của bà ta không?
- Không đâu, bà ta ở mãi tận
Gulfport, MS, làm ơn gọi lại ngày mai vì bà ta sẽ làm việc tại đây...
- Xin cảm ơn.
- Không có chi.
Bực mình vì chuyện không đâu phá
giấc ngủ, hơn nữa nếu những câu hỏi vớ vẩn từ ngoài nhà thương cứ xảy ra như
thế này để rồi thức cả đêm lỡ khi cần kíp sao có thể làm việc được. Thành Lành
vội gọi lại operator của nhà thương:
- Operator
- Tôi là tuyên úy trực, bà làm ơn từ
nay trở đi bất cứ người ngoài nào hỏi về tuyên úy trực ban đêm, xin nói gọi lại
ngày mai vì tôi không có bổn phận trực cho họ ban đêm. Tôi chỉ có bổn phận với
những bệnh nhân tại nhà thương này mà thôi, xin nhớ cho...
- Vâng, tuyên úy, tôi sẽ ghi note
tại bàn operator.
- Cảm ơn nhiều...
Cú điện thoại hỏi vớ vẩn đã làm thày
Lành thức mãi tới hơn bốn giờ sáng. Cố dỗ giấc ngủ trở lại nhưng vô ích. Nằm
ngửa, xuôi hai tay, hai chân, thở từ từ... rồi nằm nghiêng bên này, nghiêng bên
kia cái ngủ vẫn đi đâu chẳng đến... rồi đếm chầm chậm theo nhịp thở, vẫn cứ
tỉnh queo tới 4 giờ hai mắt vẫn còn thao láo... và rồi 5 giờ sáng điện thoại
reo thêm một lần nữa. Một người đàn ông bị kích ngất, bầu đàn thê tử cháu chắt
mười mấy người làm loạn cả lên không để chuyên viên nhà thương cho điện giật
cứu tỉnh...
Thày Lành như một cái máy robot, hai
tay quờ quạng, chân trần tìm lối vào phòng tắm. Đầu đau như búa bổ bởi thiếu
ngủ và cặp mắt không nhướng lên nổi; mắt không nhướng lên nổi nhưng tay chân
vẫn phải bò dậy làm việc... Vốc nước lạnh đắp lên mặt mà người thày cứ muốn gục
xuống bồn rửa mặt... Nín thở... nín thở cho tỉnh, thày nghĩ, trong khi một tay
chận nước hớp vô miệng và tay kia rờ rờ lấy miếng xà bông. 7 phút trôi qua,
thày ngất ngây bước ra khỏi cửa như một chiếc máy; mắt vẫn cứ nửa nhắm nửa mở,
chỉ nhìn khi cần thiết để khỏi bước chao vô tường hành lang, và chân nam đá
chân xiêu xuyên bên nọ xọ bên kia trên đường tới phòng cấp cứu...
Hai tiếng của buổi sáng học thêm về
lý thuyết thực nghiệm tâm lý bệnh nhân trôi qua trong vòng mờ ảo; thày Lành
không biết mình ngủ lúc nào, thức lúc nào dầu đã dồn vô bụng hai ly cối cà phê
hy vọng chất đắng ngắt ấy thúc đẩy cặp mắt gượng gạo mở lớn hơn. Thế là dù có
lý thuyết thực nghiệm thì đối với thày Lành sáng ấy, lời nói của giảng viên
cũng chỉ như mây trôi nước chảy, chẳng có thể đọng lại dù chỉ một chút cấn
bụi... Hai tiếng tiếp theo thăm bệnh nhân, thày chỉ có nước ngất ngưởng cố gợi
chuyện cho bệnh nhân nói, nghe cho qua... và rồi cơm trưa... rồi I.P.R.
Bảy học viên tuyên úy thực tập thêm
tuyên úy trưởng là tám ngồi quanh chiếc bàn tròn khá rộng nơi phòng họp gọn
gàng khang trang trên lầu hai bệnh viện được đặt trong khu vực điều hành tuyên
úy. Có nước đá, có cà phê, bánh ngọt, sữa, kem... Thày Lành lại đóng thêm một
ly cối cà phê to tổ bố. Giờ họp sau cơm trưa cả là một cực hình đối với thày vì
thói quen ngủ trưa. Đó là những ngày thường; còn hôm nay, bởi đêm ngủ quá ít,
người thày nóng như lửa; đây đó cứ như có hàng loạt kim châm trên da thịt khó
chịu cùng cực lôi cuốn thày vào giấc ngủ bất cứ lúc nào. Chẳng bù lại đêm vừa
rồi... bây giờ, cứ hai phút không cử động là có thể đã thăng thiên...
Để mở đầu cho I.P.R, tuyên úy trưởng
luôn luôn mời một trong những tuyên úy thực tập dẫn nhập bằng lời cầu nguyện
thay cho cả nhóm... sau đó ông nói tiếp với những chuyện cần phải làm cho xong
trong buổi chiều, những ghi chú hay tin tức mới từ văn phòng tuyên Ọy nhà
thương...
- Hôm nay quí vị cảm thấy thế nào?
Có vấn đề gì muốn chia xẻ hay đem ra bàn luận không?
Thày Lành hậm hực từ đêm tới giờ,
nửa quê, nửa bực. Quê vì cứ ngủ gà ngủ gật làm giảm phong thái của con người
tập tành mực thước từ xưa tới nay; bực vì trong người khó chịu bởi thiếu ngủ và
không học thêm được gì suốt hai giờ buổi sáng... nên chụp cơ hội phân trần:
- Hôm nay tôi mệt quá sức, không
học, không làm gì được hết...
- Khoan, tôi xin cắt lời tuyên úy
một chút; - tuyên úy trưởng chen vô - phòng 423 tuyên úy ghé thăm nửa đêm vừa
qua và phòng 218 tuyên úy ghé thăm sáng nay gửi hai miếng giấy tới văn phòng
tuyên úy cảm ơn vì sự thăm viếng của tuyên úy. Cả hai miếng giấy đều có lời
nhận xét rằng Chúa thực sự ở cùng tuyên úy để giúp họ.
Phòng 423 thày Lành nghe từ tối qua
nơi cửa miệng bà cụ khóc vì tủi thân với mấy y tá. Phòng 218 thì nào thày có
nói gì đâu. Con bệnh quá đa quá độ, thày vừa bước vô chào nó đã vớ lấy chửi
nhắng lên, chửi tối tăm mặt mày nhưng vì buồn ngủ không thèm tức, thày đứng tựa
vô tường đầu óc tơ lơ mơ để cho nó chửi. Sau một hồi hình như đã cái miệng, con
bệnh mới giật mình:
- Tôi nói thế mà ông không tức à?
- Hình như bà có chuyện gì phiền
lòng lắm thì phải?
Thế là con bệnh òa lên khóc, kể lể
vì thằng chồng "khốn nạn" đã bỏ rơi nên buồn rầu sinh bệnh cả năm mà
không có cơ hội nói ra với ai bởi đâu có ai thèm nghe. Dầu đầu óc lơ tơ mơ thày
Lành vẫn phải lờ đờ tiến tới, tay ôm vai, tay đập nhè nhẹ trên vai kia dụ cho
con bệnh khóc tiếp. Khóc chán, con bệnh cảm ơn, vui vẻ trở lại, xin lỗi, ký tấm
check cho năm mươi đồng trả công nghe chửi. Thày nhận bỏ túi và đi thăm phòng
khác. Nào có chi đâu mà Chúa với cha...
- Xin cảm ơn tuyên úy trưởng đã nhắc
nhở tới. Hôm nay tôi mệt vì cả đêm rồi chỉ ngủ được gần hai tiếng đồng hồ. Tôi
yêu cầu tuyên úy trưởng nói cho văn phòng operator của bệnh viện ghi rõ ràng
nơi bàn điện thoại rằng không được đánh thức tuyên úy trực ban đêm khi khách
hàng bên ngoài nhà thương gọi tới...
Một học viên tuyên úy thực tập cướp
lời:
- Tôi quan niệm mình là đại diện của
Đức Kitô, mình phải sẵn sàng giúp tất cả mọi người bất cứ lúc nào và bất cứ ở
đâu...
Thày Lành tỉnh hẳn:
- Anh nói cho chính anh thôi vì chỉ
anh mới có thể giúp tất cả mọi người bất cứ lúc nào và nơi nào. Riêng tôi, tôi
chỉ là một con người, tôi không thể giúp tất cả mọi người bất cứ lúc nào bởi
tôi phải giúp tôi trước. Nếu tôi không bình thường, theo tôi nghĩ, tôi chỉ làm
hại người ta thay vì giúp. Hơn nữa, ban đêm tôi chỉ có bổn phận đối với các
bệnh nhân nơi nhà thương này mà thôi; tôi không có bổn phận với bất cứ ai ở
ngoài nhà thương. Lý do tôi nhận thấy không thể giúp người ngoài nhà thương vì
mình phải để dành sức lực lỡ khi có chuyện khẩn cấp xảy ra ở đây. Đêm qua, hơn
12 giờ khuya tôi phải đi thăm một bà cụ khóc, hai giờ sáng một người ngoài gọi
điện thoại hỏi số phone của tuyên úy Linda; operator đã đánh thức tôi khiến hơn
4 giờ sáng tôi mới có thể ngủ lại được. Thế rồi 5 giờ sáng một vụ kích ngất cấp
cứu xảy ra; tôi đã không còn năng lực đủ để trấn an thân nhân bệnh nhân mười
mấy người cho phòng cấp cứu giật điện cứu tỉnh bệnh nhân. Hai giờ lý thuyết
thực nghiệm sáng nay tôi đã chẳng học được gì; phòng số 218 chửi tôi như tát
nước nhưng vì mệt quá lại nửa thức nửa tỉnh tôi đứng im đó cho bà ta chửi, và
bây giờ, tôi rã rời, không thể làm được chuyện gì nữa...
Đến đây, tuyên úy trưởng mới chen
vô:
- Tuyên úy Lành nói đúng. Chúng ta
không thể giúp mọi người bất cứ lúc nào mà chỉ có thể giúp họ trong trách nhiệm
và bổn phận của chúng ta được giới hạn nơi lãnh vực và thời điểm nào đó. Hơn
nữa, mỗi sự việc cần một khả năng chuyên môn, và không ai có thể biết hết mọi
sự. Do đó chúng ta cần ý thức rõ lại khả năng của chúng ta chuyên môn ở điểm
nào và có thể giúp người khác trong lãnh vực nào; nếu không thế, chúng ta chỉ
làm hại người khác và coi chừng, quí vị làm cả đời cũng không thể trả đủ cho
những sự kiện tụng vì giúp người khác một cách thiếu ý thức ngoài khả năng
chuyên môn... Nếu có gì, gửi họ tới những nhà chuyên môn gần nơi họ ở...
Thăm bệnh nhân hoặc giúp người cần ý
kiến khuyên giải cả là một vấn đề không dễ chi. Người ta có những đau khổ khó
được thông cảm mà mình nói thế nào để họ cảm thấy được thông cảm, được chia sớt
nỗi lòng hoặc chia bớt nỗi thống khổ đang đè nặng tâm tư. Đồng ý rằng sự thăm
hỏi phần nào giúp người bệnh hoặc những người trong cơn bối rối cảm thấy ấm
lòng hơn, được tăng sức chịu đựng hơn nhưng thăm hỏi mục vụ không đơn giản như
thăm hỏi bạn bè.
Hai tuần trước khi mãn khóa thực tập
tuyên úy bệnh viện, tuyên úy trưởng mang ra ba bài "verbatim" của các
tuyên úy thực tập cho mọi người nhận xét... Sau khi phân tích những lời đối đáp
của bệnh nhân với các tuyên úy thực tập, tuyên úy trưởng khen:
- Chúng ta thấy, nói chung, những
câu đối đáp thăm hỏi mang đầy đủ khía cạnh tâm lý, chia xẻ tâm tình, cảm thông,
và khuyến khích người khác nhận diện và chấp nhận thực tại để đi đến quyết định
cá nhân giúp con bệnh phấn khởi hơn... Có một điều... thường thì chúng ta hay
quên... Trong cả ba bài verbatim của quí vị mà tôi vô tình lấy ra không có ý
lựa chọn, không thấy Chúa ở đâu hết!
Mọi người ngỡ ngàng; tuyên úy trưởng
đã đưa ra vấn đề then chốt mà không ai để ý từ bao lâu nay... Thày Lành buột
miệng:
- Tuyên úy trưởng đưa ra vấn đề
trọng yếu không ngờ, nhưng tại sao không nói cho chúng tôi biết ngay từ đầu
khóa học. Đến bây giờ, chỉ còn hai tuần nữa là hết; có phải chúng tôi đã lỡ
biết bao cơ hội rồi không!
- Nếu tôi có nói ngay từ đầu khóa
thì quí vị cũng không thể nhận ra vì chưa có kinh nghiệm. Còn hai tuần nữa để
thực tập với sự nhận thức đầy đủ rõ ràng mang lại quá đủ ích lợi cho quí vị.
Hơn nữa, đây là thời gian chúng ta thực tập học hỏi mà thôi; quí vị còn cả một
cuộc đời để giúp người khác mà. Đừng tiếc xót 9 tuần mà làm ơn nhớ lại giây
phút này để mang lại lợi ích nhiều hơn cho dân Chúa sau này. Quí vị nhớ cho,
chỉ có Chúa mới có thể đem lại niềm hy vọng cho người ta và chỉ tin vào Chúa
người ta mới có thể có thêm năng lực và hy vọng để chịu đựng...
Học là thế nhưng kinh nghiệm đâu đơn
giản như thế. Bao nhiêu lần cha Lành đã chẳng biết nói sao với bệnh nhân, với
những người mang nỗi thống khổ cần gặp ngài. Gặp những người chấp nhận cuộc
đời, chấp nhận sự việc xảy đến ngoài ý mình thì nào cần nói chi. Có những người
không muốn hoặc không thể chấp nhận mà than trách Chúa, than trách cuộc đời,
lại còn rủa chính mình… coi như mình bị Chúa phạt….. Nào biết nói ra sao!
12
- Chào cụ, cụ cảm thấy thế nào? Có
đỡ hơn không?
- Thưa cha, chẳng thấy gì mà ngày
nào nó cũng lấy một xi lanh máu, con sợ quá.
- Có lẽ họ chưa kiếm ra nguyên nhân
của bệnh nên cần thử máu; cụ năm nay Chúa ban cho thọ bao nhiêu rồi?
- Con 73 tháng 6 vừa qua.
- Cụ được tất cả mấy người con và có
ai ở với cụ không?
- Cảm ơn cha, con được ba cháu mà
không có ai ở đây hết!
- Thế cụ có người quen họ hàng ở gần
đây không?
- Không cha ơi, cuộc đời con khổ và
cô đơn quá; chẳng hiểu Chúa phạt con về tội lỗi gì.
- Không có đâu, nói Chúa phạt có lẽ
oan cho Ngài. Cụ có con cái may ra cụ sẽ cảm thấy dễ hơn tôi về tình thương của
cha mẹ đối với con cái. Như thế, giả sử Chúa thương mình chỉ bằng một phần tư
mình thương con, không thể nào gọi là Chúa phạt được! Chả lẽ Chúa không thương
mình bằng mình thương con?
- Chứ thế sao đời con cực khổ quá,
giờ này già rồi lại còn cô độc!
- Thật ra, cuộc đời khi vui khi
buồn; cũng có lúc vui sướng, hạnh phúc, cũng có lúc khổ cực. Tuy nhiên, nếu
nhìn nhận rằng những đau khổ xảy đến trong cuộc đời mình là cơ hội giúp mình
sống tốt lành hơn thì có lẽ nên cảm tạ Chúa nữa. Nói rằng Chúa phạt chỉ là thói
quen vì không biết sự khó xảy đến do nguyên nhân nào hoặc mình không để ý tìm
hiểu nguyên nhân thôi; chứ thực ra, dùng tiếng Chúa phạt chỉ là một phần nào
nói lên sự nhận ra mình là con người yếu hèn, lắm lỗi lầm, đành chấp nhận những
đau khổ để đền bù những lỗi lầm của mình. Chúa không khó khăn như mình nghĩ; do
đó mình đã chấp nhận chịu những đau khổ xảy đến thì dâng những đau khổ này lên
Chúa sẽ làm đẹp lòng Chúa hơn...
- Vâng, vâng, cha nói đúng.
Ông cụ trở mình, ngượng ngạo và nhăn
nhó...
- Bác sĩ chưa cho biết chút gì về
bịnh tình của cụ sao?
- Con nghe loáng thoáng đâu bị ung
thư... Lạy Chúa tôi...
Nỗi đau đớn gây ra bởi chuyển động
thân mình hiện rõ trên nét mặt thống khổ cố gắng chịu đựng phát ra tiếng than!
Lòng cha Lành chùng xuống... cái bệnh không đường chữa trị này... Con biết nói
sao đây với ông cụ để xoa dịu nỗi thống khổ con người... Chúa muốn con nói gì
đây! Ngôn từ nào có thể dùng dù chỉ giúp được ông cụ an tâm rằng không phải là
Chúa phạt, rằng mình chia xẻ sự thương khó với Chúa. Ngôn từ nào có thể nói lên
đây là Thánh Giá ông cụ đang mang hầu đẹp lòng Chúa hơn! Sao những chứng bệnh
bất trị này cứ tồn tại nơi thế giới loài người; mà nào có ai muốn chúng đâu!
Chúa quyền năng mà, sao không ngưng những loại ung thư lại... Cha Lành cảm thấy
mình bất lực; người như không còn sinh khí. Miệng ngọng, tay chân thừa thãi,
đứng nhìn ông cụ mà lòng xót thương. Chúa ơi, con phải nói gì? Đức tin không
cho phép đổ lỗi Chúa mang đến sự khó này vì Chúa đâu muốn mang sự khó đến cho
ai! Con phải nói sao cho ông cụ thêm sự tin tưởng, hy vọng vào Chúa để chấp
nhận con bệnh chết người không ai muốn này. Con câm rồi, có miệng cũng như câm
vì chẳng biết nói sao. Con bất lực trước ngưỡng cửa bệnh tật. Sự chết đang gần
kề ông cụ; con phải nói sao? Con phải nói sao!
13
Nào có phải chỉ khi đối diện với
những tai ương, bệnh hoạn không đường chữa trị mới không biết nói gì mà còn
nhiều trường hợp khác cha Lành cũng không biết ăn nói thế nào trong khi lòng
trào dâng niềm đau xót xa cho thân phận con người trong cảnh khó khăn cuộc đời
không phương tránh thoát.
- Xin cha cầu nguyện cho gia đình
con...
Người đàn bà, thân hình khắc khổ
trong bộ đồ lam lũ hòa nhịp với nước da rám nắng khiến người đối diện nhận ra
ngay nét già trước tuổi, moi mãi nơi túi đưa cho cha Lành 5 tờ giấy một đồng
được xếp lại vội vàng chưa kịp gọn gàng ngay ngắn...
- Cầu nguyện về chuyện gì?
- Cho tụi con kiếm được công ăn việc
làm nuôi con cái. Nhà con nhờ người ta đứng tên tầu để rồi bây giờ gần trả xong
nợ nhà băng, nó đem bán luôn lấy tiền. Con còn nợ hơn năm mươi ngàn tiền mặt
mượn anh em bà con mà tàu mất, kiếm việc làm không được, chẳng biết sao sinh
sống. Nhà lại con đàn con đúm 8 đứa chưa đứa nào đi làm phụ thêm cho cha mẹ
được chuyện gì; lo miếng ăn cũng chưa đủ, thật khổ quá cha ơi!
- Thôi cất tiền đi, đem về đong gạo
cho các cháu. Tôi sẽ cầu nguyện cho ông bà và gia đình..
Người đàn bà vẫn cố nhét tiền vào
tay cha trong khi ông chồng đang chọn mấy loại chỉ vá lưới nói chen vô:
- Cha phải lấy tiền chứ nếu không...
- Ơ, cái ông bà này kỳ cục; vậy cứ
không lấy tiền thì cầu nguyện không thiêng à! Được rồi, tôi nhận, nhưng phải
đem tiền này về đong gạo cho các cháu ăn.
Cha Lành cầm lấy tiền, vuốt thẳng
lại và gấp đôi, quay qua nhét vào túi áo sơ mi người chồng khiến anh ta phải
đứng im, nghệt mặt ra tỏ vẻ rưng rưng cảm động. Không hiểu anh cảm động vì cha
thông cảm cho hoàn cảnh gia đình anh hay vì nghĩ đến hoàn cảnh gia đình đang
gặp lúc túng quẩn lại gặp cảnh khó khăn tai họa này. Sự cảm động của người đàn
ông do mấy lời nói nửa diễu nửa an ủi và cử điệu thân tình đối với cặp vợ chồng
lâm cảnh khốn khổ khơi dậy nơi lòng cha Lành những hình ảnh và tâm tư ngày cũ,
11 năm về trước...
- Anh Tam bảo chú Lành tối hôm nay
sau khi ăn cơm xong qua gặp anh ấy.
Kèm theo lời nói là 4 con mắt của
hai người, mẹ và chị Tam, đang nhìn thày Lành tỏ vẻ thương hại, ủi an...
Thày Lành ngày ấy, sau 3 năm vất
vưởng sống lang thang rày đây mai đó cho qua ngày đã kiếm được chỗ đi làm ghe
te đánh tép nơi vùng Chu Hải gần Bà Rịa nằm trên quốc lộ 15 nối liền từ quốc lộ
I dẫn từ Sài Gòn ra tới Vũng Tàu với hy vọng sẽ có ngày vượt biên. Trong những
ngày sống tại quê cũ, sáng sáng thày giúp cha xứ cho giáo dân rước lễ bởi chỉ
có mình ngài coi gần 8000 người. Một buổi sáng, hai cha con đang uống cà phê
tâm tình, cha xứ dịu dàng bày tỏ:
- Nếu thày là con thiêng liêng tôi,
tôi đề nghị với thày chọn một trong hai con đường: hoặc là lập gia đình hay là
kiếm đường vượt biên.
Cảm nghĩ bất lực chợt hiện rõ nơi
tâm tư; đã bao lâu nay nó âm ỉ gậm nhấm nơi lòng thày chờ dịp phát xuất. Cuộc
đời kể như tứ cố vô thân, anh em họ hàng ai cũng là người túng quẩn trong lúc
này mà mình là người khốn khổ nhất nên mang mặc cảm người ta sợ mình bám víu
khiến thày như lịm chết trong thân xác thiếu phần sinh động. Chẳng lẽ chỉ có
hai con đường thôi ư! Thày Lành cố mơ hồ bám víu. Mà đường nào có thể là con
đường thứ ba với năng lực tự mình thực hiện được?
Cha xứ nói xong, nhìn thày Lành ngồi
âm thầm chết lặng dường như để tâm trí bay tận cõi xa xôi nào đó bỏ rơi thực
tại hiện hữu. Câu nói của ngài đến tai thày có sức mạnh của một cây kim hỏa đập
mạnh vào hạt nổ viên đạn thầm kín làm đầu đạn bị đẩy bay đi kéo theo nỗi lòng
người trẻ khiến thày lộ nét ưu tư. Tay thày nhè nhẹ xoay chiếc ly thủy tinh
ngắn rộng miệng chứa đựng một nửa chất cà phê đậm màu cánh gián sóng sánh theo
cử động. Ngài thinh lặng nhìn người trẻ tuổi, dịu cặp mắt con ngươi hai tròng
dõi theo mấy ngón tay không chủ đích biểu lộ một tâm hồn giao động đang phải
đối đầu với quyết định hoặc suy nghĩ gay cấn bất ngờ. Mấy tháng nay, qua những
lần nói chuyện đơn sơ với người trẻ tuổi này, ngài thấy tiềm ẩn bên trong dáng
dấp cởi mở bình thường một năng lực phấn đấu vượt bực, một tấm lòng chân thành
ngay thẳng, và một tâm huyết phá núi xây thành nhưng có điều lạ ít khi được
phát xuất từ cửa miệng của chính con người ấy. Những nhận xét thực tế rõ ràng,
không che dấu, không thiên vị được vạch trần mỗi khi ngài hỏi đã dám thẳng thắn
nói lên và thường kèm theo điều kiện phải giữ kín trước khi phát xuất... đã
chứng tỏ hình như sau lớp vỏ đơn sơ bề ngoài đang được nhào trộn, xếp đặt các
thực trạng hiện tại hầu mở lối cho một toan tính phức tạp chưa chịu ló dạng đầu
mối nơi người bạn trẻ độc nhất mà ngài đã có thể tin tưởng được giữa gần 8000
con chiên của xứ đạo trong giai đoạn này. Ngài đã dùng nhiều cơ hội thử tính
tình người bạn trẻ nên càng thấy rõ cái trí óc toan tính không đơn giản mà đôi khi
có phần kỳ bí được cẩn thận che dấu khó có thể nhận ra nếu không để ý theo dõi
trong những dịp bất ngờ ngài giả đò tấn công bằng một vài câu hỏi dường như vô
tình.
Ly cà phê cứ được nhè nhẹ xoay tạo
nên tiếng cạ trên mặt bàn khiến ngài có cảm tưởng tất cả những khó khăn, khốn
khổ nơi cuộc sống của người bạn trẻ đối diện đang được dồn ép làm thành áp lực
thúc đẩy tạo nên ý chí quyết định hoặc buông xuôi hay phấn đấu với cuộc đời để
dành giựt phần thắng. Thày Lành như pho tượng trầm mặc suy tư ngoại trừ đôi mắt
chăm chăm mang vẻ mơ hồ dõi sang phía bên kia ly cà phê để rồi xuyên thủng mặt
bàn chìm vô cõi mông lung nào đó. Mấy ngón tay vẫn xoay động chiếc ly đều đều
như đang vạch đường định hướng. Vài phút trôi qua, thày từ từ ngẩng lên nhìn
cha xứ, giọng chậm rãi:
- Con sẽ trả lời cha tuần sau...
Một tuần lặng lẽ qua, cha xứ âm thầm
tiếp tục theo dõi người bạn trẻ xem có gì khác lạ nơi thái độ nhưng chẳng nhận
được gì... Con người rề ngoài mang vẻ vô tư, may ra dễ chấp nhận thực tại cuộc
đời... Ngài đôi lần thầm nghĩ... Nếu bạn quyết định ở lại, ít nhất tôi còn có
được một người thông cảm, am hiểu trong hoàn cảnh khắc khổ này...
Sáng thứ hai sau khi tan lễ, cha xứ
vừa bước ra khỏi phòng áo thấy thày Lành vẫn còn đứng nơi bậc thềm thấp nhất
của lối ra, hướng về phía nhà xứ, hai tay xuôi trong túi áo dòng hình như chờ
đợi.
- Sao, sáng nay uống cà phê với tôi
chứ?
- Con đang chờ...
Suốt khoảng thời gian uống cà phê,
hai người chỉ nói chuyện mưa nắng đâu đâu để rồi trước khi từ giã ra về, thày
Lành bí ẩn nhìn cha xứ nói nhẹ:
- Con sẽ vượt biên dù không biết sẽ
phải làm gì bây giờ. Chỉ một điều con muốn cha để ý là từ hôm nay cha đừng tin
những gì người ta sẽ đồn thổi về con. Nếu có chuyện gì lạ tai cha muốn biết,
cha hỏi con sẽ giải thích.
- Không sao đâu, tôi hiểu thày mà.
Từ nay, nếu khi nào thày muốn ăn cơm, cứ việc nói con cháu nấu thêm, khỏi cần
nói với tôi...
Tin thày Lành sắp lấy vợ bùng lên từ
cửa miệng những người thân quen và người ta nói với nhau những ý nghĩ cảm thông
cho hoàn cảnh, thân phận nghĩ rằng đó cũng là một lối giải quyết chấp nhận cho
yên phận cuộc đời... Trong khi thi thoảng người ta thấy thày loáng thoáng bắt
xe đò trước chợ dọc theo quốc lộ 20...
Con quốc lộ 15 tuy là đường giao
thông chính yếu nối liền quốc lộ I dẫn từ Sài Gòn ra Vũng Tàu nhưng sau năm
1975, xe cộ thưa thớt. Thỉnh thoảng vài chiếc xe nhỏ được biến chế chạy bằng
than đeo cái bình lửa to tổ bố phía sau, chở khách buôn thúng bán mẹt, ì ạch
leo những con dốc thoai thoải gần như muốn bò. Khoảng nửa chiều tới sáng thì
con đường kể như không còn sinh động, nằm dài ngoằng xuyên qua các thôn làng
hẻo lánh dọc hai bên, chấp nhận mang trên mình hình bóng những người dân quê đi
bộ ngang qua hoặc xe đạp đây đó vài ba người lèo tèo nói chuyện. Thỉnh thoảng
có tiếng xe gắn máy rướn giọng ré lên một cách tức tưởi không đều như cố la lên
cho loài người biết cảnh già nua xuống dốc của mình nơi những ngày cuối đời
thiếu may mắn phải chạy xăng pha dầu hôi. Đêm xuống, con đường thật yên, lặng
lẽ chìm dần theo bóng tối nặng nề tràn tới như cố tránh ánh đèn leo lét hắt ra
từ những căn nhà hay hàng quán lưa thưa đây đó được dựng sát bên lề.
Hơi gò người bước lên đoạn dốc ngắn
từ ngõ vào nhà tới mặt đường, thày Lành bước song song với anh Tam trên đường
nhựa về phía cống nước lấy vào ruộng cách nhà khoảng nửa cây số.
- Sao, dạo này đi làm hàng đáy có dễ
chịu không?
- Thì cũng thường vậy, anh Tam; quai
đáy, ngủ, kéo đáy rồi lại quai, nhặt tôm tép v.v... Làm hàng đáy tương đối dễ
chịu và nhàn hơn đi te. Anh muốn gặp tôi có chuyện gì mà có vẻ quan trọng vậy?
- Để mình tới cống nước hãy nói. Thế
chừng nào chú định mua máy ráp xuống chiếc ghe mới mua?
- Em định mua chiếc Kubota 12 ráp
vô, khi có chuyện chở thuê kiếm chút đỉnh...
Cánh đồng lúa miền nước phèn mang vẻ
tối hơn bên nước ngọt vào lúc trời nhá nhem trải rộng dọc theo quốc lộ 15 và bị
chặn đứng bởi con đê bao quanh rừng đước. Loáng thoáng đây đó những ánh đèn soi
cá khi ẩn khi hiện mập mờ như đom đóm xuyên qua cành cây kẽ lá của rừng đước
thấp ngang đầu người chưa kịp lớn bởi những người lấy củi đã chặt hết những gốc
già chở ghe về bán củi. Xa xa, vang lại vài tiếng máy ghe te ủi gần trong bãi
vọng về theo làn gió biển mang đậm mùi nước mặn của những ngày nắng gắt không
mưa. Thày Lành lặng thinh, chân bước đều theo kịp anh Tam, hướng lòng mơ đến
viễn ảnh trời mây ngoài khơi một ngày nào đó được lênh đênh trên ghe vượt biên
bằng đường biển. Sao Nam Tào nằm phía trước mặt, bên trái hướng chính đông, ghe
phải chạy theo đông nam ít nhất 24 tiếng mới ra tới hải phận quốc tế rồi bẻ
xuống 160 ly giác một ngày một đêm đoạn 180 hay 200 ly giác tránh bị dạt vào
Côn Sơn.
Ngày nào đây và ghe nào đây! Đã một
lần vượt biên chạy có cờ, rách nát cả hai bàn chân mà vẫn không đủ hãi sợ để
làm nhụt ý chí đào thoát. Tiếng gọi tự do nơi bến bờ nào đó thày chưa một lần
đặt chân hoặc được nhìn qua hình ảnh âm ỉ thúc dục, khuyến khích lòng dặn lòng
thà chết trên biển còn hơn chấp nhận sống vất vưởng trong cảnh bó chân bó tay không
phương thăng tiến. Thày tin vào số mạng, nói theo giới bình dân, cuộc đời mình
đã được Chúa an bài, không cần lo âu sợ hãi mà là tính toán, nhẫn nại, chấp
nhận giai đoạn hiện tại để bình tĩnh giải quyết những chuyện ngoài ý định không
may xảy đến... Sáu tháng làm ghe te không dám lấy tiền công. Thày suy luận,
mình là người chân ướt chân ráo, lại không rành đường đi nước bước trong sông
rạch, chưa kinh nghiệm làm ghe, nếu lấy tiền công như người khác, chủ ghe sẽ
mượn người quen nghề thì mình sẽ mất chỗ làm; mất chỗ làm, lấy đâu cơ hội vượt
biên...
- Thế chú định tính với vợ chồng em
nó công xá thế nào?
Cụ trùm Xuân, bố vợ chủ ghe te, tay
cầm nan tre đan xảo tôm hỏi khi thày Lành vừa bước vào đặt mông ngồi xuống ghế
định uống miếng nước trà sau khi gánh tôm tép từ bến ghe về sân phía sau cho bà
cụ và con gái sửa soạn đi chợ. Suốt 30 năm từ ngày mới chào đời, lần đầu tiên
thày Lành nhận thực ra công việc mình đang làm mang lại niềm hy vọng tương lai.
Thày cũng đã làm việc tay chân nhiều như làm rẫy, vô rừng đốn củi, đốn cây, rồi
dạy học, buôn bán đồ lạc xoong, bán rượu, bán thịt rông dọc các đường làng hoặc
ngồi tại chợ nhưng những ngày ấy gia đình cha mẹ hãy còn là nơi nương tựa; thày
không cần lo lắng hoặc sợ mất việc. Tiền bạc thì có được bao nhiêu đưa hết cho
mẹ để rồi lúc cần lại cũng hỏi mẹ.
Trải qua những ngày tháng lang thang
chạy ăn từng bữa, thày Lành cảm thấy hạnh phúc vì nơi ăn chốn ở cùng việc làm
chờ cơ hội. Đi làm ghe theo như lệ những người làm tại Chu Hải, người đi ghe có
tiền lương, lại còn được nửa ký tôm mang về ăn trong ngày. Thày Lành ăn tại nhà
chủ nên nửa ký tôm đủ bao quát cơm nước... Thế nhưng mọi người không ai thấy
thày nhắc đến tiền công, chủ ghe nhờ bố vợ hỏi... Có được nơi ăn chốn ở là hạnh
phúc đầy đủ, hơn điều mình mơ ước; hơn nữa, đi làm ghe te đỡ cực khổ hơn kéo
lưới rùng lại hy vọng có đường vượt biên... Thày Lành cảm thấy mình hãy còn may
mắn... Câu hỏi của cụ trùm quá bất ngờ. 6 tuần đi làm, thày chẳng bao giờ nghĩ
đến tiền công bởi lòng còn đang tràn trề với công việc mới trong niềm vui mới
vì tuy là đi ghe te đơn giản, nhưng có nhiều mánh khóe nho nhỏ không ngờ có cơ
hội học được. Nhớ lại lần đầu đi ghe, trời mới mờ sáng ghe về tới bến Phước
Hòa, chủ ghe dùng xe đạp chở tôm tép về chợ bán để thày Lành ở lại rửa ghe và cọc
lại khi con nước lên cao. Sau khi công việc thu dọn trên ghe tươm tất, thày
Lành chui vào trong khoang đánh một giấc tới khi trời sáng bảnh, nước đã lớn,
người người đang chuẩn bị cho bữa cơm trưa và chuyến đi đánh tôm buổi chiều.
Con ghe thày Lành được cắm cách bến chẳng bao xa, chỉ độ 20 mét, nổi lềnh bềnh
nhẹ chao theo gió. Lần đầu tiên cầm cây sào cắm ghe, rút lên sợ ghe trôi mà
chống lại không biết... Cuối cùng cũng đành liều, thày nhổ sào chống bừa xuôi
theo mạn ghe định đưa vào bến. Chống ghe cũng cả là một nghệ thuật; mặc dầu
thày biết dùng bai chèo nhưng ghe máy không dùng chèo; thế là loay hoay ra sao
không biết, thày chống luôn cả mình xuống nước cái "ùm". Sào cắm sâu
xuống bùn, thày Lành bì bõm và nước cũng may không lụt đầu người trong khi ghe
lặng lờ trôi xa theo chiều gió. Cả là một cảnh cười ra nước mắt! Cũng may, vì
những ngày đợi việc thày gia nhập ca đoàn hát ở nhà thờ nên một số người làm
ghe trong xứ biết đến giúp... Buổi chiều, ghe được đưa về bến Chu Hải, thày hì
hục tập chống ghe.
- Vậy chú chưa biết chống ghe à?
Anh chủ ghe nghe người ở bến kể lại
không nói gì, lúc đánh ghe về bến nhà mới hỏi.
- Thì có bao giờ làm ghe đâu mà biết
anh!
- Sao chú không nói cho tôi biết?
- Ồ! Lính mới đâu biết chi mà hỏi.
- Thì chống ghe cũng dễ thôi, khi về
tới bến, chỗ nước cạn, tôi để chú tập chống. Chỉ hai ba lần là biết; chẳng có
chi khó đâu.
Anh chủ ghe nhẹ nhàng với thày Lành
bởi hai người đã qua một đêm đánh te được khá tôm tép. Hơn nữa, đêm rồi cũng là
đêm đầu tiên anh đánh tôm trên chiếc ghe của mình. Xưa nay chỉ đi xịch, có vài
lần đi ké ghe te người anh ruột, được cho ít đồ ăn mà thôi nên cũng còn ngỡ
ngàng. Những gì học lóm được trong vài lần đi ké, anh áp dụng cho buổi ban đầu
nên vẫn thấy loạng quạng; thế mà lại gặp ngay người giúp việc không biết chống
ghe bởi "lính mới tò te."
Tuy nhiên, dầu mới chạy ghe te của
mình lần đầu, tôm tép đánh được không thua sút người khác mà có phần hơn, báo
hiệu những ngày tháng tới thoải mái làm anh cảm thấy nhẹ hẳn nỗi lo lắng trong
lòng. Chạy chọt anh em họ hàng, bà con thân thuộc vay công bốc nợ mua được
chiếc ghe nhưng lại lo lắng không biết tôm tép ra sao với hy vọng trả xong nợ
cho mau. Còn thày Lành, người làm mới thì lại thật là mới, chẳng biết gì về
lạch ngòi, tuy nhiên, có lắm sáng kiến mới. Bởi lần đầu tự lái ghe mình, anh
chủ ghe cũng hơi e ngại nhưng vẫn phải bắt tay vào việc. Khi đã nổ máy chạy vô
con lạch đang cho ghe chậm lại chuẩn bị hạ càng, thày Lành nói với anh nếu khi
nào thấy thày giơ tay lên nơi phía trước thì bớt tay ga cho ghe chậm lại. Không
hiểu thày Lành định làm gì nhưng anh vẫn đồng ý. Càng te hạ xuống mới chạy được
chừng 500 thước, thày ngồi phía trước giơ tay ra hiệu cho anh bớt máy thế rồi
thấy thày vẫy vẫy có ý nói bỏ cách bờ một miệng te. Anh im lặng đẩy cần lái rồi
cho máy nổ mạnh... Cũng chừng 500 thước lại thấy thày giơ tay, anh bớt ga; thày
Lành giơ lên đùm lưới óng ánh màu hồng tôm tép, niềm vui hiện nơi sắc mặt và
vẫy tay xuôi ra hiệu cho ghe chạy tới... Thông minh thế mà, anh nghĩ, lại không
biết chống ghe...
Còn đang theo mộng lại những ngày
mới làm ghe, tiếng cụ trùm lặp lại:
- Sao, chú nghĩ gì mà im lặng vậy?
Tính tới nay là hết tuần thứ sáu rồi, tháng rưỡi qua mau thật.
- Trong khi tay cụ vẫn đều đều đan
nan tre vót nhẵn.
- Thật ra, cuộc đời con đã mang nặng
nợ ân oán thiên hạ nhiều rồi. Hơn nữa, anh chị ấy vay công bốc nợ mới mua được
ghe te đi làm chưa được bao lâu. Thôi thì âu cũng là dịp tốt để con trả nợ lại
những người con mang ơn trong lúc túng quẩn qua anh chị ấy...
- Chú nói sao tôi không hiểu. Chú
tính thế nào, nói cho tôi biết để tôi nói cháu trả tiền công cho chú.
- Thì bây giờ hãy cứ lo trả nợ tiền
ghe trước, khi nào hết nợ sẽ nói đến chuyện công xá cũng không muộn.
- Sao chú lại nói vậy! Tiền công là
tiền công chú làm, còn tiền nợ là do cháu mua ghe khác biệt chứ.
- Con chỉ cần có chỗ ăn ở và đi làm
trong lúc này là đủ, còn công xá để tính sau, chưa có gì vội đâu.
Sáu tháng trôi qua, tiền nợ ghe đã
trả được một nửa; thế rồi chủ ghe tham gia vào một chuyến vượt biên...
- Anh làm thế mà không e sợ à!
- Đã sợ thì không làm, mà đã làm thì
không sợ.
Và rồi vượt biên bể, ghe mất, người
trốn chui trốn nhủi. Thày Lành lê hai bàn chân rách nát về lại xứ cũ đi cắt dây
khoai lang bán cho người nuôi heo mong kiếm miếng cơm qua ngày. Năm tháng sau,
trở trở làm hàng đáy đến nay vừa chẵn 3 tháng... Không hiểu anh Tam định nói
chuyện gì...
Dầu đang trong những ngày nóng nực,
buổi tối nơi miền quê đem lại khí hậu dễ chịu khác hẳn khi mặt trời còn vương
bóng trải ánh nắng gay gắt trên vùng đồng cát nước phèn. Phía dưới cống, mặt
nước lặng lẽ êm xuôi không gợn sóng như âm thầm chất chứa những thay đổi theo
dòng thời gian, cảm nhận những khuôn mặt lạ hoắc hấp tấp bước đi trong đêm tối
tìm đường vượt thoát dõi theo bờ ruộng dẫn tới phía bên kia con đê nơi những
chuyến ghe e sợ hối hả chờ đợi. Nhìn vũng nước gần như ngưng đọng, thày Lành
nhớ lại 4 con mắt nhìn mình khác lạ sáng nay sau khi gánh tôm tép về... Chắc
phải có chuyện gì quan trọng lắm; nếu không, việc gì phải ra đây nói chuyện
riêng...
- Thôi mình ngồi xuống đây nói
chuyện...
Anh Tam từ từ cất tiếng, dường như
cố lấy giọng bình thường mở đầu một vấn đề khó nói. Anh tiếp:
- Công việc hàng đáy dạo này thế
nào; chú có thấy cực nhọc lắm không?
Anh lặp lại câu hỏi lúc nãy gợi thày
Lành cảm nghĩ có chuyện gì khó cho anh nói ra. Chính anh là người giới thiệu
cho thày đi làm ghe te và dĩ nhiên quen biết gia đình anh từ dạo ấy. Sau này,
khi ghe te bị mất, trước khi làm hàng đáy, thày Lành có dịp rảnh rỗi sửa mấy
chiếc cậu cửa cho cụ trùm, rồi thay phần dưới khung cánh cửa bị mục. Thấy cũng
được mắt, cụ trùm nhờ thày đóng cho chiếc chạn bọc lưới đựng đồ ăn. Bởi cụ muốn
để chạn trên chiếc sập, thày Lành đóng chiếc chạn gần như vuông khiến cụ chê
lên chê xuống...
- Chạn gì đóng như chiếc cũi chó.
- Cụ cứ ra vào lẩm bẩm. Thày Lành
biết cụ không để ý là chạn sẽ được đặt trên chiếc sập, nếu đóng dài như bình
thường đặt dưới đất sẽ bị cao lêu nghêu. Đến khi xong, chạn được bỏ lên sập coi
cũng tạm được thì cụ lại khen đẹp. Có lẽ anh Tam cũng để ý thày Lành từ lâu,
hiểu được cá tính thâm trầm của thày trái nghịch với kiểu cách bên ngoài nên
còn đắn đo e vô tình làm phiền lòng, bất mãn... Thày nhẹ giọng cởi mở:
- Làm đáy trong sông nào có chi khổ
cực đâu anh, lại thoải mái nữa.
- Chú H. Có than phiền gì với chú hay
không mà sao có vẻ không được hài lòng...
- Anh nghĩ em lười không chịu làm để
đến nỗi anh H. khó chịu...?
- Tôi chỉ thấy chú ấy lắm khi có
thái độ bất mãn...
- Anh ấy muốn làm được nhiều tiền để
trả nợ và cũng muốn làm chuyện vượt biên nhưng không biết móc nối ra sao và làm
thế nào.
- Vậy tiền công của chú làm hàng đáy
mỗi ngày được bao nhiêu?
- Từ kỳ đi làm ghe te đến giờ em có
biết đồng tiền công là gì đâu!
- Chú nói sao?
- Em đi làm có phải vì tiền công đâu
và anh có bao giờ nghe thấy ai nói trả tiền công cho em đâu. Anh có thể hỏi anh
chị H. thì biết.
- Tôi vẫn chia tiền công cho chú mà!
- Anh có bao giờ đưa tiền cho em
đâu, anh thử hỏi chị ấy coi, em chưa bao giờ nhận tiền công nơi chị ấy mà.
- Chú Lành, tôi đã hiểu lầm về chú.
Bao lâu nay tôi cứ nghĩ chú lấy tiền công, và tôi vẫn trả tiền công của chú.
Tôi lại thấy chú hay trò truyện với con Nga nên tôi nghĩ sai...
- Anh xem, mục đích của em không
phải là kiếm sinh kế hằng ngày; em lại phải cố làm cho mọi người biết mình để
không ai đặt vấn đề nghi ngờ; rồi lại bày chuyện cặp với cái Nga cho du kích,
công an không để ý. Em không vượt biên được sẽ không thể nào học làm linh mục
vì bố mẹ em đang ở Mỹ. Em đâu dám nói với ai...
- Bây giờ tôi mới hiểu chú muốn gì;
thế mà tôi cứ ngỡ chú định lấy con Nga...
- Bỏ qua chuyện đó đi anh; đâu có
bao giờ em ngờ rằng cuộc đời em phải trải qua những ngày như thế này. Thật ra,
em cũng chưa rõ Chúa muốn em có kinh nghiệm này để làm gì!
- Ước gì tôi có được người em trai;
tôi sẽ cố đào luyện cho em tôi bằng mọi cách... Tôi muốn nhận chú làm em, chú
có đồng ý không?
- Anh hiểu em là đủ rồi. Được, em
chấp thuận, nhưng anh không nên nói cho bất cứ ai biết, kể cả chị ấy...
- Tôi tin chú... Chú có thể cho tôi
biết chú H. thế nào không?
- Anh ấy muốn được anh giới thiệu
với người ta để lo chuyện vượt biên kiếm vốn hầu tính chuyện đưa gia đình đi...
Có lần chị ấy nói với em là anh không chịu giới thiệu anh H. mà anh giới thiệu
người khác. Hơn nữa, nếu anh H. không làm chuyện vượt biên thì bao giờ mới nổi
lên được. Riêng anh H., nhiều lần anh ấy bối rối tự than là không biết làm sao
cho khá hơn. Kỳ còn ghe, anh ấy làm ra tiền, nghe đâu mới sáu tháng đã trả nợ
được một nửa. Còn bây giờ...
- Chú nhận xét chú H. có cá tính ra
sao?
- Em không thích nói nhận xét về cá
tính của người khác theo ý mình nhưng anh đã hỏi, em trả lời với điều kiện anh
phải sống để dạ, chết đem đi. Em không muốn anh H. biết điều em nhận xét. Anh
đồng ý không?
- Tôi đồng ý, chú nói đi.
- Anh H. theo em chỉ thuộc típ người
ăn no vác nặng, không phải là người mưu mô tính toán. Một hôm, em và anh ấy
đang khiêng đồ đi làm ra ghe, em hỏi anh ấy rằng không e sợ tụi công an du kích
sao. Anh ấy trả lời đã sợ thì không làm; mà đã làm thì không sợ. Anh coi, vượt
biên nếu hụt mất hết nhà cửa, ruộng vườn, ghe cộ của cả trăm người, đến mảnh
bát mẻ cũng không còn chứ đừng nói đến nơi ăn chốn ở mà lại không e sợ công an
thì đâu có phải là người biết tính toán. Chỉ biết đường tiến mà không tính lối
thoái là thái độ của người làm công, phu khuân vác chứ sao có thể tính chuyện
lớn được. Hơn nữa, để ý nhìn coi, anh H. có cặp mắt lé kim. Cổ nhân có câu:
"Lưỡng mục bất đồng, tâm can bất chính." Em chỉ dám nói, lưỡng mục
bất đồng tâm can bất nhất thôi... Hèn chi sáng nay em thấy bà cụ và chị Tam nhìn
em khác lạ khi nói em gặp anh tối nay. Có phải mọi người nghĩ em không chịu làm
để hết việc cho anh H. nên anh ấy bực bội phải không?
- Tôi đã nghĩ lầm và mọi người cũng
lầm theo. Tôi để ý chú từ lúc mới gặp nhưng vẫn không ngờ... Đâu ai có thể nghĩ
là chú đi làm không lấy công. Đã không lấy công đâu có thể nói là lười, là bê
trễ; hơn nữa cái mục đích của chú như thế làm sao chú bê trễ được... Tôi đề
nghị chú tiếp tục làm hàng đáy và nếu có chuyến tôi sẽ gửi chú đi, còn chiếc
ghe theo như chú tính bây giờ hơi trễ. Nếu mà có nó cách đây hai năm trước thì
rất hợp thời. Thôi mình về nhà uống rượu, còn chuyện chiếc ghe của chú cứ để
tôi lo... Tôi nói thực với chú, hãy bình tĩnh, chẳng còn mấy ngày nữa... nhưng
nhớ là chú cứ im lặng như từ xưa tới nay...
- Anh đã không ngờ thì đâu cần phải
dặn kỹ như thế...
Thày Lành chợt nhớ lại mình nghe
loáng thoáng đâu đây sắp có chuyến vượt biên, không ngờ là chuyện sắp tới.
Năm người ngồi quanh mâm rượu đặt
trên chiếc sập làm bằng gỗ ván đóng hòm. Ba đĩa đồ ăn trong mâm gồm tôm, cá, và
cua gạch vừa bắt về từ hàng đáy sáng nay. Người ta đang bàn chuyện làm thế nào
để giải quyết vụ con bé Đanh cùng với hai đứa con gái khác gia nhập cách mạng
rình mò ghe vượt biên để đốt lửa báo cho công an du kích bắt...
- Tôi tính làm một chuyến vượt biên
giả để nhử chúng nó tới rình mò rồi đập chết quăng xác xuống sông. Còn thằng
Tranh hay chạy Honda báo huyện ban đêm thì cho một trái mìn playmore nổ tan xác
ở ngang cánh đồng lúa gần Kim Hải.
Thày Lành vừa từ hàng đáy về, nhấp
vài hớp rượu đế thưởng thức con cua gạch và mấy con bạch tuộc đoạn ăn lẹ hai
chén cơm chan canh tép cho dễ nuốt rồi ngả người nằm lên chiếc chiếu gấp gọn
nơi đầu phản, đưa hai tay kê đầu thay gối nghe 4 người khác bàn luận tới lui...
Chợt thấy anh Tam, người chủ chốt đưa lên ý định cuối cùng đúc kết ý kiến của
ba người khác... Anh Tam thuộc loại người rất dứt khoát và dám thực hiện mọi
chuyện táo bạo này... Thày vẫn giữ thế nằm... cất tiếng xen vào cuộc bàn thảo:
- Em có ý kiến...
- Sao từ nãy chú không nói câu nào,
mãi giờ cóc mới thèm mở miệng...
- Anh nghĩ là cái Đanh và hai đứa
con gái kia tội chúng nó có đáng chết không? Thằng Tranh báo huyện cũng thế.
Nếu tội chúng đáng chết, không có gì đáng nói; còn nếu không, đụng đến mạng
người, em nghĩ không nên. Có thể nên thuê thằng nhỏ nào đó cặp với cái Đanh để
dụ mấy đứa con gái đi nơi khác vào đêm đánh vượt biên không?
- Chú đề nghị cũng có lý... nhưng...
coi bộ khó ổn...
- Anh nói khó ổn như thế nào? Hoặc
là khó kiếm người tin cẩn hay là sự phiền hà của việc mình trả tiền cho người
khác làm sự tội.
- A ha! Cóc mở miệng có khác; cả hai
vấn đề chú vừa nói đều khó ổn... Mặc dầu rất hợp tình hợp lý, lại khỏi phải
đụng đến mạng người nhưng khi người ta biết mình có chuyến sức mấy họ chịu cặp
con nhỏ đi chơi; họ còn phải lo căn me chứ. Chỉ có chú làm vật hy sinh mới an
toàn được. Đứa khác biết, cả làng biết thì thà rằng bảo tôi nói toáng lên và
đừng làm nữa còn hơn. Chú nghĩ sao? Tôi tính như vầy, mấy ngày này, chú nói con
Nga giới thiệu chú với con Đanh, hẹn hò nó vài lần nhưng chỉ được hẹn ban ngày,
không được hẹn ban đêm. Tối hôm đó, chú dẫn nó đi Vũng Tàu thuê khách sạn rồi
đưa nó đi ăn, ép uống cho say. Đến đúng giờ hẹn, tôi cho người chạy xe Honda
đón chú về lên ghe. Chú nghe được không?
- Không hiểu cái Nga có chịu giới
thiệu không hay là lại ghen rối lên thì làm sao mà hẹn với hò được.
Cái Nga ở trong ca đoàn, biết nghề y
tá, lại làm thư ký ấp nên thày Lành thường phải nhờ gia hạn giấy phép. Chẳng
hiểu sao, nàng có cảm tình đặc biệt với thày. Có một lần thày Lành bị cảm không
đi làm được phải nhờ người mua thuốc của nàng uống. Nghe tin thày đau, cái Nga
bỏ cả việc lo nấu cháo; chuyện này bỗng nhiên biến thành giai thoại tình cảm
giữa hai người. Thày Lành biết nàng có cảm tình đặc biệt với mình nhưng không
muốn để nàng thất vọng nên chẳng dám mở miệng nói chi. Chỉ âm thầm mang nỗi
thương hại mỗi lần tập hát gặp phải cặp mắt nàng dài ra như mơ mộng... Tình cảm
nàng đã rõ ràng như thế mặc dầu chưa nói ra mà bây giờ nhờ nàng giới thiệu mình
với người con gái khác, sao nỡ đang tâm! Và nàng sẽ nghĩ gì...
- Chú yên trí, tôi sẽ sắp xếp vụ con
Nga, bổn phận chú lo cặp con Đanh là đủ... Đừng thắc mắc thêm. Nhớ là cấm hẹn
ban đêm...
- Thật là oái oăm, giống truyện
Trạng Quỳnh cho ỉa cấm đái...
- Thôi mà... kèo nài cũng chẳng làm
ăn nên cơm cháo gì... Chú dám không; tôi đánh cá với chú đó...
- Cần gì phải đánh cá, anh thuê thử
coi... Đâu ai đánh thuế người nói khoác...
Cha Lành thinh lặng đứng nhìn đôi vợ
chồng chọn chỉ, chọn khâu làm giã trong khi tâm trí trở về với cảnh gian truân
ngày trước. Có cách nào để giúp họ được bây giờ... Mình đã lao đao nơi ngày
tháng cũ với những khó khăn nên có thể thông cảm được sự phiền não chạy ăn,
trốn nợ của kiếp nghèo khổ... Ai là người có đủ năng lực làm phép lạ gỡ rối cho
cặp vợ chồng này. Năm tháng chồng chất, khó khăn cuộc đời đè nặng đôi vai khiến
thân hình tàn tạ vì không có cơ hội để nghĩ tới vóc dáng chính mình. Chúa ơi!
Con dân Chúa lầm than khổ cực thế đó. Muốn cho có hơn, sống dễ thở hơn lại bị
lừa nhiều hơn để rồi suốt đời làm thân trâu ngựa. Cuộc sống đã thiếu thốn lại
càng thiếu thốn thêm, chai lỳ và phải giả câm giả điếc trước những con nợ róc
réo. Trên cao Ngài thấu cho chăng! Con biết kêu ai, nài nỉ ai bây giờ, nên cũng
chỉ còn cách giả điếc, giả câm, ậm ừ cho qua. Thế rồi còn bao nhiêu thứ rắc rối
nơi cuộc sống lầm than nảy sinh ra... Con cái chưa kịp lớn, đã ohải lo đi ghe
giúp bố mẹ. Ghe nhỏ kiếm người đi phần nào ai muốn bước lên bởi phần làm việc
ít. Rõ đã khốn lại thêm khổ, mát tất cả; học hành đã không có mà làm lụng lam lũ
cũng chẳng tìm đâu thấy tiền…
14
"Mình không thể giúp người một
cách thiếu ý thức ngoài khả năng chuyên môn..." Những lời này luôn luôn
được gợi lại nơi tâm trí cha Lành để thúc đẩy ngài đặt vấn đề tìm cách kiếm
người giúp việc dân Chúa. Khổ nỗi, chủng viện có bao giờ dạy chủng sinh cách
kiếm tiền mà vấn đề đè nặng nơi các giáo xứ vẫn luôn luôn là ngân sách. Chủng
viện nào có bao giờ dạy cách chủng sinh nghề lãnh đạo, cách nhận xét người,
kiếm người và dùng người để làm việc. Lại nữa, lỡ chọn lầm người sao có thể
đuổi họ khỏi chức vụ thay vì cứ chấp nhận để họ bố lếu bố láo làm tào lao thiên
tướng hoặc ra vẻ ta đây có danh vọng suốt khóa đem muôn sự khó chịu tới không
những dân Chúa mà còn làm phiền hà tới cả mình... Và rồi dân Chúa thì đa chủng,
họp lại từ khắp nơi khắp chốn sao cho có thể có được dù chỉ là ý niệm phù hợp
với mọi tập quán, tâm não hay cách cư xử của cả lớp người nhào nháo họp lại như
thế...
Những hình ảnh sự việc cũ tuần tự
diễn qua tâm trí từng chi tiết nhỏ mọn, những khác biệt không bao giờ có thể
hòa hợp tiên báo cho những khác thường nặng nề hơn có thể đến trong tương
lai... Kinh nghiệm quá khứ gợi lại, cứ những lúc ngài thấy mình bất lực nhất và
không còn cách nào xoay xở để đi đến tâm trạng chấp nhận thì an bình trở lại,
niềm an bình của kẻ chẳng có chi nên không sợ bị mất khi đã chịu thua thiệt cả
sinh mạng, và từ đó ngài tự cảm thấy cuộc đời mình gắn chặt với dòng đời dân
Chúa. Nếu Chúa muốn thì Ngài sẽ cách này hay cách kia thúc đẩy dân Ngài làm.
Linh mục chỉ như người chiêm ngưỡng, ráp nối những thành phần đơn lẻ của sự
kiện lại thành một mối. Linh mục là người giương to mắt ra mà nhìn công việc
Chúa đang thực hiện nơi dân Ngài mặc dầu nhiều khi và đa số trường hợp linh mục
trở thành người chịu trách nhiệm, chịu những gánh mình không hề nhúng tay đặt
nền tảng...
Bài giảng ngài đã diễn thuyết trong
lễ tạ ơn của một linh mục bạn, cha Nguyễn Tiến Đắc, khi ngài mới chịu chức vẫn
luôn hằn ghi nơi lòng. Đó cũng là kết quả phần nào của những suy tư nguyện cầu
về mối liên hệ giữa linh mục và giáo dân hướng dẫn bước đường ngài đang theo...
Quý cha, quý tu sĩ, quý ông bà anh
chị em trong Đức Kitô,
Tục ngữ Việt Nam có câu: "Đẹp
tốt phô ra, xấu xa đậy lạy." Mọi người chúng ta thực hành đúng mức ý nghĩa
câu tục ngữ này. Có lẽ không ai muốn nói đến bất cứ điều gì không nên không
phải của mình. Chẳng những thế, chúng ta lại càng không muốn nghe bất cứ ai nói
tới những sự yếu hèn của mình nữa. Tuy nhiên, bài đọc hôm nay, trong thư thứ
hai gửi tín hữu Côrintô, thánh Phaolô lại nhấn mạnh rằng: "Vậy tôi rất vui
sướng khoe mình về những sự yếu hèn của tôi," và đồng thời ngài thêm,
"vì khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh mẽ" (2 Côrintô 12: 5).
Thử dành vài giây để suy gẫm những lời này, mọi người chúng ta đều nhận ra câu
nói, "vì khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh mẽ" mang một ý
nghĩa, và ý nghĩa đó là: vì khi tôi nhận thức được mình yếu đuối, lúc đó tôi
nhận thức được sức mạnh của Chúa trong tôi, và đó cũng chính là lúc tôi thực sự
mạnh mẽ.
Thưa quí cha, quí ông bà anh chị em,
nhận thức được mình yếu đuối để rồi nhận ra sức mạnh của Chúa nơi mình là một
hồng ân mà Chúa ban cho mỗi người chúng ta. Vấn đề còn lại là chúng ta có dám
khiêm nhượng, chân thành nhìn ngay thẳng, không thiên vị về con người và cuộc
đời của mình hay không! Với sự nhận thức lời của Thánh Phaolô nhân dịp thánh lễ
tạ ơn của cha Phêrô Nguyễn Tiến Đắc, tôi muốn chia xẻ cùng quí vị tâm tình của
tôi về sự liên hệ giữa linh mục và giáo dân.
Mọi người đều biết, linh mục được
gọi và chọn nơi hàng giáo dân. Điều này nói lên, trước tiên, linh mục là một
con người như mọi người. Chúng ta đều kinh nghiệm rằng, đã là người, chúng ta
được Chúa ban cho những hồng ân, những sự tốt lành, thánh thiện. Ngay từ khi
chịu phép rửa tội, chúng ta được thông phần tư tế, tiên tri, và vương quyền của
Chúa Kitô bởi Thánh Thần Thiên Chúa, chúng ta đã được gọi vào hàng linh mục.
Cho nên, linh mục là những người dùng cuộc đời mình để trả lời ơn gọi khi chịu
phép rửa tội. Lẽ dĩ nhiên, muốn được chọn phải dùng cuộc đời mình trả lời ơn
gọi dâng mình cho Chúa trước, bởi không theo, làm sao được chọn.
Đã là người, không ai trong chúng ta
tránh khỏi những yếu hèn trong cuộc sống. Hơn nữa, lầm lỗi là chuyện bình
thường của con người. Ai không chấp nhận mình lầm lỗi, người đó không chấp nhận
Thiên Chúa là đấng thiện toàn. Ai không chấp nhận mình lầm lỗi, người đó không
chấp nhận người khác lầm lỗi. Nói cách khác, người nào càng nhận ra và chấp
nhận lỗi lầm của mình bao nhiêu, người đó càng thánh thiện bấy nhiêu. Vì thực
ra, người nào càng tốt lành, thánh thiện bao nhiêu, càng nhận ra sự tốt lành
của người khác bấy nhiêu.
Bởi linh mục được chọn từ con người,
linh mục mang tất cả những tính chất của con người. Linh mục cũng phải có những
sự yếu hèn của con người. Không có những yếu hèn của một con người, không phải
là linh mục. Tuy nhiên, qua kinh nghiệm trong sự liên hệ giữa giáo dân và linh
mục, chúng ta thường không chấp nhận linh mục là một con người. Thánh Phaolô đã
rất vui sướng khoe về những sự yếu hèn của ngài, chúng ta kính ngài là thánh
trong khi linh mục là một con người, mà chúng ta không chấp nhận những yếu hèn
của con người nơi linh mục; có lẽ chúng ta đang muốn cho linh mục trở thành giả
hình. Bởi vì chỉ có Chúa mới là đấng thiện toàn, đã là người mà không ai nhận
thấy người đó có lầm lỗi, người đó chỉ là người giả hình.
Đọc trong hạnh các thánh, chúng ta
chỉ thấy kể lại những chuyện một linh mục thánh thiện giữa đám chiên hiền lành,
chứ chưa bao giờ có một linh mục hiền lành giữa đám chiên dữ. Qua những suy
luận như thế, thưa quí ông bà anh chị em, chúng ta là những người đang tiếp tay
đào tạo linh mục trong cuộc sống của chúng ta. Chúng ta đang chia xẻ với linh
mục đời sống tông đồ của ngài. Chúng ta vui, linh mục vui; chúng ta buồn, linh
mục không sung sướng gì. Cuộc sống, tâm tình của chúng ta thế nào, chúng ta
đang góp phần cho linh mục của chúng ta thế ấy. Xét như vậy, chúng ta cũng đang
cùng với linh mục thi hành chức vụ linh mục trong cuộc sống của chúng ta. Linh
mục cần được chúng ta chân thành thông cảm, am hiểu, và chia xẻ những gánh nặng
của chủ chăn chứ đừng lồng ngài vô khung kính, lau chùi láng bóng bên ngoài, và
để ngài bị mục nát phía trong. Tóm lại, chúng ta có thể nói, linh mục là bộ mặt
và là thực trạng biểu hiệu cho tính chất cộng đồng ngài đang coi sóc.
Với tâm tình liên kết cùng linh mục
trong việc phụng sự Chúa và dân Ngài, chúng ta dùng một phút thinh lặng - cảm
tạ Chúa vì những hồng ân Ngài đã ban cho chúng ta và dùng tâm tình này hợp với
thánh lễ - cầu nguyện cho ơn kêu gọi dâng mình cho Chúa. Xin Chúa chúc lành nơi
quí ông bà anh chị em.
Những ngày thường cha Lành không
giảng vì chỉ có 20, cùng lắm là 23 phút dâng lễ. Hôm nào ông từ lần hạt chậm
một phút là mất một phút vì thế cha Lành phải dâng lễ sao cho nhanh hơn một
phút bởi nếu lâu hơn, một vài giáo dân không kịp giờ đến sở. Lẽ đương nhiên,
dâng lễ đâu phải như chiếc máy cassette, ông cha đọc như cái máy, thi hành
những cử điệu giơ tay giơ chân giống robot! Có một ông cụ kia hình như có điều
gì tức với cha xứ; hôm đó, chẳng hiểu uống rượu đâu ngà ngà và bị ai nói khích
thế nào, vô gặp cha xứ đối chất. Nói lung tung trời bể một hồi liên quan đến
vấn đề làm ăn cực khổ, lễ lạy, ông cụ lè nhè thốt: "Cha chỉ quay ra quay
vào mấy phút thì bằng chúng con làm cực khổ cả ngày..." Dâng lễ nào phải
chỉ là quay ra quay vào; nếu quay ra quay vào thì ai quay chả được. Dâng lễ là
sự thờ phượng cao siêu nhất của đạo Công Giáo. Hai mươi ba phút dâng lễ còn
phải vội vàng phương chi thêm vài phút giảng. Cha Lành chỉ giảng vào những ngày
chủ nhật, còn lễ trọng không nhằm ngày nghỉ việc, chỉ hai hoặc ba phút là nhiều
nhất. Nói quá, không kịp giờ đi làm là mất việc, ai dám đi dự lễ! Hơn nữa, nhớ
lại kỳ còn nơi chủng viện với môn học về giảng giải, hội đồng giám mục Hoa Kỳ
có soạn một cuốn sách hướng dẫn về giảng khá hay, trong đó có một câu ngài cho
là hay nhất thỉnh thoảng tự nhắc lại, đại khái, "Nếu bạn có gì nói thì nói
ra đi, còn không, vì Chúa, xin im cái miệng lại..."
Người ta cứ nói, muốn nói ngoa làm
cha mà nói. Cha phần đời nói ngoa, vợ con đâu chịu mà còn có khi ra tòa là đàng
khác. Cha phần đạo nói ngoa coi chừng cũng ra tòa. Ngày xưa chữ giảng thường
được kèm theo chữ dạy; ngày nay chữ giảng không mang nghĩa giảng dạy mà mang ý
thức sâu rộng hơn: công bố tin mừng, công bố Lời Chúa hoặc rao giảng Phúc Âm...
Ngày còn trong chủng viện, vào giờ học cuối cùng của môn giảng thuyết năm thứ
tư, linh mục giáo sư nói một câu đơn sơ nhưng cha Lành còn nhớ mãi mỗi khi soạn
giảng:
-Quý thày nhớ dùm mỗi khi giảng sau
này: làm ơn để ý đến tâm tình của giáo dân.
Nói rằng giảng dạy chứ thực ra, chỉ
có giảng mà không dạy; bởi giảng là chia xẻ Lời Chúa với người khác còn dạy thì
đôi khi thường bị hiểu lầm. Có một lần mấy thày ngồi nói chuyện về giảng, một
thày kể lại có một cha muốn quyên tiền làm nhà xứ tại Việt Nam mà giáo dân vì
có một vài điều không đồng ý với ngài nên tỏ ý không chịu đóng góp. Vào một
ngày chủ nhật ngài tuyên bố trong bài giảng:
-Trong Phúc Âm, Chúa dạy rằng
"Ai không nghe 'con' là không nghe Ta;" - thày ấy nói tiếp - "Nó
không chịu làm điều mình muốn thì lại nói ai không nghe mình là không nghe
Chúa!
Giảng Lời Chúa đâu phải là bảo người
ta phải làm theo ý mình mà là giải thích Phúc Âm áp dụng vào đời sống hằng ngày
để khuyến khích người ta sống Phúc Âm; sống Phúc Âm chứ không phải sống theo ý
mình bởi mọi người có quyền tự do chọn lựa lối sống của họ. Mình đề nghị, giải
thích mà không có quyền bắt buộc. Như thế linh mục là dung môi, là tiên tri
theo nghĩa thức tỉnh, nói cho người khác nhận biết ơn cứu độ của Chúa đã được
chuẩn bị sẵn nơi chính cuộc sống họ để họ mở rộng tâm hồn đón nhận và sống ơn
cứu độ. Hơn nữa, những đề nghị linh mục đưa ra trong bài giảng, có thể nói, là
đề nghị cho chính mình; giáo dân nghe giảng rồi thực hành theo hay không tùy sự
lựa chọn và quyền tự do của họ. Thực tế hơn, họ sống theo lời linh mục giải
thích, đề nghị hay không thực sự tùy thuộc vào cung cách đối xử, thái độ của
linh mục với giáo dân chứ không phải bất cứ điều gì linh mục nói ra là
"Lời Chúa phán" như quan niệm cổ xưa. Nhớ lại ngày còn đi học thần
học tại Chicago, một hôm cha giám thị nhà kêu thày Lành vô chỉ trích một số vấn
đề rồi đưa ra một mẫu làm việc thày nên theo...
-Thưa cha, những đề nghị của cha
thật hay nhưng chỉ đúng cho chính cha và chỉ cha mới cần áp dụng. Con ăn cơm
với nước mắm ngày ba bữa ngon lắm nhưng không thể nào ăn được loại cheese xay
nhão. Con không đề nghị cha ăn nước mắm thì yêu cầu cha cũng đừng đề nghị con
ăn loại cheese đó...
Vì thế thày bị kết án là bướng, là
không biết vâng lời. Thày nghĩ, Chúa ban cho mình bộ óc mà không dùng để suy
nghĩ tức là coi rẻ hồng ân của Ngài. Vâng lời một cách ngu xuẩn là khinh chê ơn
Chúa đã ban bộ óc biết suy tư cho mình. Hơn nữa, vâng lời đâu phải bảo sao làm
vậy! Mình là người, mình có sai lầm và bề trên cũng là người, đã chắc gì bề
trên luôn luôn đúng. Nếu đã có ít nhất một lần sai thì có thể có lần thứ hai và
rồi lần thứ ba... Thế nên vâng lời một cách máy móc vừa khinh chê ơn Chúa vừa
từ chối sự tự do mà chính Chúa cũng tôn trọng nơi mình. Nghe những người xưa kể
lại chuyện bề trên sai đệ tử trồng cây ngược để thử đức vâng lời, thày Lành cứ
ngẫm nghĩ: cái nhà dòng ấy chỉ tuyển chọn những người đần. Ôi! "Ba năm ở
với người đần, không bằng một chốc đứng gần người khôn." Thế mà cứ cổ võ
đức vâng lời một cách vô ý thức. Phải là mình, thày nghĩ tiếp, mình sẽ đuổi tất
cả những đứa ngu si trồng cây ngược. Nếu trồng những cây bình thường ngược mà
tin rằng có thể mọc thì người trồng tất nhiên phải là bất bình thường, càng nên
tống cổ ra khỏi nhà dòng bởi sự ngu dốt, không biết dùng lý trí của một con người
bình thường. Hơn nữa, người đã dốt như thế thì làm sao có thể chịu đựng sống
chung cho được bởi tội lỗi do sự ngu dốt mà ra. Chấp nhận sự ngu dốt là chấp
nhận sự tội; ôi, kỳ quái!
Kỳ cấm phòng chuẩn rị chịu chức phó
tế, cha giảng phòng là một vị linh mục dòng Tên đã đưa ra một vấn đề thoạt nghe
rất ngây ngô nhưng ý nghĩa lại rất sâu sắc:
- Qua Kinh Thánh, chúng ta thấy Chúa
chỉ chọn những người thật tầm thường, yếu hèn làm tiên tri hoặc tông đồ hướng
dẫn dân Chúa. Một Môi sen lặp năm lặp bảy lãnh đạo dân Chúa chống lại vương
quốc Ai Cập giải thoát dân Ngài. Một thánh Phêrô nhát gan chối Chúa làm đầu Hội
Thánh. Quý thày nhớ cho, Chúa dùng những người yếu hèn để chứng tỏ quyền năng
của Ngài. Những người tài giỏi làm chuyện đại sự; đó là điều dĩ nhiên. Tuy nhiên,
dùng những người yếu hèn mà làm được những công việc cả thể; điều này minh
chứng Chúa toàn năng biết bao. Thế cho nên, quý thày được Chúa chọn làm linh
mục; xin nhớ rằng mình được chọn để làm việc của Chúa thì mình là người yếu
hèn... Chẳng có gì vinh quang thuộc về mình đâu! Những vinh quang đều do Chúa;
do đó đừng cướp công của Chúa kẻo mà khốn khổ...
Chúa cũng không thể biết được các
đấng dòng Tên nghĩ gì, thày Lành nghĩ, thế ra dân dòng Tên đôi khi cũng nói lắm
chuyện có lý...
Dĩ nhiên, giáo dân không nói lên
những điều bất đồng ý kiến với linh mục khi ngài đứng trên tòa giảng, nhưng
không phải họ không nói có nghĩa họ không biết. Đành rằng Chúa dùng những lời
đơn sơ mộc mạc của linh mục để hướng dẫn dân Ngài nhưng Chúa chắc chắn không
dùng những lời nói không nên không phải, đôi khi tới quá đa quá độ không để ý
gì đến tâm tình người nghe. Dùng tòa giảng vì mục đích riêng tư, chắc chắn Chúa
chẳng thể làm ngơ, và cũng chắc chắn rằng dùng tòa giảng với mục đích riêng tư
thì cũng chẳng tin gì vào Chúa vì có tin chăng thì cũng đã tin rằng Chúa không
chấp nhận cho bất cứ thần thánh nào hơn Ngài hoặc động chạm đến con dân của
Ngài.
Hơn nữa, linh mục được học về thần
học thì giới hạn hiểu biết thuộc về thần học. Chủng viện đâu dạy nghề buôn bán
hay nghề điện tử; do đó có những vấn đề, những kiến thức chuyên môn mà một số
giáo dân đang tham dự Thánh Lễ đáng bậc thày của mình. Nhảy ra khỏi vòng rào
thần học và tu đức, thiên hạ thiếu gì kẻ tài giỏi hơn. Thật ra, các môn học chỉ
giúp con người thêm kiến thức về các ngành riêng biệt nhưng nói chung đào luyện
con người có khả năng suy luận sắc bén hơn khi áp dụng vào thực tế. Trong số
giáo dân nghe giảng có những đầu óc thông minh sắc bén, không liệu bề giảng Lời
Chúa, linh mục đã không giúp họ được gì mà đôi khi làm phiền họ... Và như thế
coi chừng chủ chăn đuổi con chiên ra khỏi nhà thờ thay vì dẫn dắt con chiên qua
sự vô ý của mình.
Rao giảng lời Chúa đâu phải là
chuyện cứ muốn nói ngoa làm cha mà nói. Lời Chúa bao giờ không ngược với đời
sống tham sân si thế tục. Linh mục cũng là con người; có linh mục nào không
phải là người? Mà đã là người, ai tránh thoát tham sân si? Vì thế Lời Chúa đâu
phải chỉ được dùng để "dạy" giáo dân mà linh mục bị dạy trước tiên
khi suy gẫm hoặc soạn giảng. Dù cho bao nhiêu nhà thần học, bao nhiêu nhà chú
giải Kinh Thánh làm việc, suy tư từ đời nọ qua đời kia thì Lời Chúa vẫn cứ còn
như một màn bí mật chỉ mới được bắt đầu vén lên. Bao nhiêu thư viện chứa sách
vở thần học, Lời Chúa vẫn còn đầy huyền nhiệm. Có chăng các nhà thần học, tu
đức học, chú giải Thánh Kinh, chỉ mới làm sáng tỏ được một phần nào sự áp dụng
Lời Chúa trải qua các thời đại. Giảng là áp dụng Lời Chúa vào cuộc sống tâm
linh để rồi được thực hiện qua cách sống, thái độ, ý thức tùy thuộc từng hoàn
cảnh môi trường, hoặc sự nhận thức hiểu biết cá nhân.
Năm giúp xứ tại Xuân Ninh, Cam Ranh,
một buổi tối dạo mát nói chuyện với cha xứ ngài nói:
-Lời Chúa lắm lúc không thể nào giải
thích được vì rất ngược tai. Không thể hiểu Chúa muốn nói gì qua đoạn Thánh
Kinh...
Mặc dầu đồng ý với cha xứ nhưng thày
Lành ngày ấy còn ngây ngô, chưa biết gì về thần học nên không dám tán đồng ý
kiến và cũng chẳng dám thêm thắt chi, chỉ nhận thấy nhiều vấn đề không
"thuận tai" trong Kinh Thánh! Nhưng thày nghĩ, nếu Kinh Thánh chỉ viết
những điều thuận với mình thì có chi phải học, có gì nên theo do đó đâu cần
giảng, đâu cần phải suy nghĩ. Mình chỉ suy nghĩ, tìm hiểu những gì chưa hiểu,
chưa biết chứ đâu ai tìm hiểu điều mình đã biết. Lời Chúa nếu thuận tai mình
thì mình không phải là người mà là thánh bởi chỉ có thánh mới sống đúng theo
lời Chúa.
Bao nhiêu lâu rồi người ta đọc Kinh
Thánh, đọc Phúc Âm, nhưng được mấy ai nhận ra rằng Kinh Thánh được viết để minh
chứng một cách ám chỉ về Thiên Chúa chứ không phải Kinh Thánh là một bộ sử của
người trần thế; nói khác đi, Kinh Thánh không phải là bộ sử của dân Do Thái.
Kinh Thánh viết lại kinh nghiệm về Chúa của dân Do Thái chứ cũng không phải sử
của Chúa của dân Do Thái. Nếu Ađam và Evà là người đầu tiên vậy thì ai chứng
kiến cảnh Chúa lấy xương sườn cụt của Ađam nặn thành Evà mà ghi chép lại. Nếu
coi Kinh Thánh là bộ sử thì người mà Thiên Chúa dựng nên đầu tiên phải là người
viết hay người kể lại Kinh Thánh chứ không phải Ađam hoặc ít ra Ađam phải là
người thứ nhì và Evà là người thứ ba nếu người viết Kinh Thánh là người đàn
ông. Nếu người viết Kinh Thánh là người đàn bà thì chắc chắn sẽ không thể nào
có Evà từ xương sườn cụt theo nghĩa giấy trắng mực đen!
Quan niệm Lời Chúa trong Kinh Thánh
được hiểu theo nghĩa đen như bộ sử ký đã gây nên không biết bao nhiêu tai hại,
phân rẽ. Ngày xưa, gọi là xưa thôi, ông bà ta cấm con cháu đọc truyện Kiều cũng
chỉ vì hiểu Kiều theo nghĩa đen. Nào có ai tên Thúy Kiều, Thúy Nga có cuộc đời
giống như Nguyễn Du đã mô tả trong Đoạn Trường Tân Thanh; mà Thúy Kiều được dùng
ám chỉ Nguyễn Du, tác giả "Truyện Kiều". Nguyễn Du lại là đàn ông sao
có thể bị bán vào lầu xanh; thế nên lầu xanh cũng chỉ là một biểu tượng được
tác giả dùng để nói về cảnh khổ ải tâm tư của mình đối với thực tại của thân
phận trong "hàng thần lơ láo." Kinh Thánh cũng được viết ám chỉ, phải
được hiểu theo nghĩa bóng tương tự như thế.
Hơn nữa Kinh Thánh được viết dựa
theo phong tục tập quán người Do Thái cùng những ảnh hưởng của kiến thức thời
đại 2000 năm về trước nên càng khó hiểu. Lời Chúa được diễn giải theo biểu
tượng ám chỉ trong khi cứ tin theo nghĩa đen của Kinh Thánh để rồi tưởng rằng
nắm được chân lý trong tay tha hồ vùng vẫy; có lẽ Chúa cũng phải nực cười; mà
có nói ra sẽ bị cho là bướng, là không vâng lời, là rối đạo. Năm thứ nhất thần
học tại C.T.U. (Catholic Theological Union), Chicago, tuần nào thày Lành cũng
cố kiếm lấy một giờ gặp cha giám đốc nhà trường vì ngài dạy lớp nhập môn thần
học. Một hôm thày băn khoăn hỏi cha:
- Thưa cha, con không hiểu trí khôn
mình sẽ suy nghĩ đến đâu về thần học nhưng son e sợ trở thành rối đạo.
Cha giám đốc nhìn thày ngỡ ngàng,
đoạn ngẫm nghĩ chút xíu, ngài trả lời:
- Tôi nói cho thày biết, những người
rối đạo là những người tuyệt đối thông minh. Thày không thông minh đủ để có thể
rối đạo. Cứ yên trí suy luận.
Câu trả lời đơn sơ nhưng thật tuyệt
vời giúp thày Lành xóa bỏ được tất cả những tự ty mặc cảm e sợ đã chồng chất
bao lâu nay, kể từ ngày mới lớn, biết đặt vấn đề suy tư về cuộc đời hoặc những
chuyện xảy ra trong cuộc sống liên hệ đến tâm tư nhất là về tôn giáo.
Nhớ lại kỳ còn nhỏ, hôm gia đình
thày lợp lại mái nhà, nhờ ông bác ruột làm thợ. Gia đình ông tương đối kể cũng
đề huề, 5 gái, 2 trai chỉ phải cái tội người con trai lớn bằng tuổi thày Lành
hơi bị dở dở ương ương. Số là ngày xưa ông đi lính Tây, kiếm được ít thuốc
Bévitine 1 cho con uống để ăn được cơm. Hơn nữa, thằng bé lại cứ như bị đẹt
không chịu lớn. Bà mẹ không hiểu mô tê gì, mỗi ngày cho đứa nhỏ uống hai viên.
Nghe người ta nói thuốc B1 có tính chất nóng và vì đứa nhỏ uống quá nhiều nên bị
ảnh hưởng tâm tính trở thành bất bình thường. Trong lúc lợp nhà, không hiểu ông
bác và những người giúp nói chuyện gì liên quan đến vấn đề các cha giảng dạy;
đang ngồi trên mái nhà đóng đinh lợp tôn mà ông bác nổi sùng nói oang oang:
- Cha mẹ sinh người, trời sinh tính.
Các cha giảng là nhìn cây biết quả đâu có được. Các cha đâu có đẻ con mà
biết... Nếu nói rằng cha nào con nấy thì các cha có dạy người ta đi ăn cướp đâu
sao vẫn có những kẻ cướp...
Ông bác kế trầm tĩnh hơn muốn cho êm
chuyện, tránh nói đụng chạm đến các cha do đó nói chận anh mình:
- Thì cha chỉ lặp lại Phúc Âm chứ
nói gì bác đâu. Phúc Âm chả nói xem cây biết quả là gì...
- Thì Lời Chúa nói mình phải chịu
nhưng cũng có những câu nghe chịu không được.
Phúc Âm đối với những người bình dân,
quê mùa mộc mạc mà còn như vậy, phỏng với cuộc đời rắc rối hơn, sự hiểu biết
cao hơn Lời Chúa phải được hiểu thế nào?
15
Trong thời gian thực tập lớp tuyên
úy bệnh viện, thân nhân một bệnh nhân nói với thày Lành bà ta không thể chấp
nhận được những người không được rửa tội có thể vào nước thiên đàng vì họ không
tin vào Đức Kitô và Kinh Thánh.
- Thưa bà là người Công Giáo?
- Không, tôi theo Tin Lành.
- Tôi nghĩ, có những người không
theo Công Giáo, chẳng theo Tin Lành, chẳng bao giờ được rửa tội, không được
nghe dù chỉ tới tên Chúa Giêsu mà cuộc đời họ sống tốt lành, chân thật chẳng
hạn như những nơi vùng quê hẻo lánh ở Trung Hoa hay Ấn Độ bởi đâu có người
truyền giáo tới đó; nếu họ bị trầm luân chẳng lẽ Chúa cố chấp đến thế ư! Hơn
nữa, trước khi Đức Kitô sinh ra, có ai được rửa tội đâu. Chẳng lẽ bao nhiêu
người đã qua rồi muôn đời bị đày đọa mặc dầu sống tốt lành! Tôi không thể chấp
nhận họ bị trầm luân bởi nếu chấp nhận như vậy thì sống tốt lành cũng không
được cứu rỗi; sống lôi thôi bê tha cũng bị lên án phạt thì vô lý quá, lại
khuyến khích cho người ta sống bê tha...
- Nhưng công tôi giữ đạo mà không
được hơn họ à?
- Ồ! Bà nói như thế không thuộc về
vấn đề rửa tội hay không mà là vấn đề mình sống như thế nào. Mình là con người
có tự do lựa chọn và cuộc sống mình tùy thuộc sự chọn lựa mình muốn trở nên thế
nào chứ không phải được rửa tội là tốt lành mà không được rửa tội đều là phường
bất hảo. Cuộc sống mình chứng tỏ niềm tin của mình, cuộc đời mình có nói lên,
có chứng tỏ ơn cứu độ của Đức Kitô đến với mình không. Nếu không, mình đang từ
chối ơn cứu độ, mà lẽ dĩ nhiên, từ chối ơn cứu độ sao có thể được cứu rỗi. Còn
những người không biết đến Đức Kitô nhưng có cuộc sống tốt lành, xứng đáng phải
được cứu rỗi. Đọc trong Kinh Thánh, có đoạn nào viết về Abraham, Jacob, Môi
Sen, Josuah, v.v... được rửa tội đâu. Có bao giờ họ được nghe đến tên Đức Kitô
đâu; sao Abraham lại được gọi với danh hiệu "cha ông của những người tin
vào Thượng Đế?" Xét như vậy, nếu đặt vấn đề những nhà sáng lập các đạo là
những tiên tri Chúa đặc biệt gửi đến cho từng đám dân như Abraham, Jacob, Môi
Sen... thì ơn cứu độ của Chúa đã và đang ở nơi chính họ rồi đó chứ. Họ không
dùng ngôn từ giống mình để nói lên niềm tin vào Đức Kitô vì họ chưa được nghe
đến tên cũng như những người trước thời Ngài...
- Kinh Thánh đâu có nói thế!
- Bà hiểu Kinh Thánh ra sao?
- Thì Kinh Thánh là Lời Chúa nói với
mọi người, mình phải tin theo..
- Tôi xin cắt lời bà. Xin lỗi, tôi
muốn phân tích lời bà vừa nói. Tôi muốn nói rõ là chỉ phân tích chứ không bắt
bẻ, bà hiểu dùm cho bởi tôi không muốn bị hiểu lầm.
- Ông cứ nói... tôi hiểu.
- Bà vừa nói mình phải tin theo...
Tôi nghĩ, mình có tự do tin hay không tin và theo hay không theo. Hơn nữa, Kinh
Thánh được gọi là Lời Chúa không có nghĩa bởi miệng Chúa nói ra... Kinh Thánh
chỉ là cuốn sách gom góp lại kinh nghiệm về Chúa, kinh nghiệm tin vào Chúa của
dân Do Thái được diễn tả qua những câu chuyện ám chỉ. Chúa dùng con người viết
ra theo sự hiểu biết của con người về Chúa được gọi là linh ứng hay mặc khải.
Lời Chúa ở nơi nghĩa bóng, ở mục đích đoạn văn, câu chuyện được viết ra chứ
không phải Kinh Thánh chép lại y chang những gì Chúa nói. Chẳng hạn câu chuyện
Môi Sen đưa dân Do Thái vượt biển đỏ và Chúa đã dùng nước để giết chết hết quân
lính Ai Cập. Câu chuyện này nói lên bàn tay uy quyền của Chúa bảo vệ những kẻ
tin vào Ngài chứ không phải thực sự Ngài giết đám người này để bảo vệ đám người
kia. Đâu ai có bao giờ chấp nhận được cha mẹ đối xử với con cái theo kiểu này!
Thế nên, tôi nghĩ mình cần biết thêm để hiểu về Kinh Thánh, những lý do tại sao
Kinh Thánh được viết như thế, kinh nghiệm về Chúa của người Do Thái được hiểu
và áp dụng ra sao trong sự liên hệ văn hóa thời bấy giờ để áp dụng trong cuộc
đời mình bây giờ và ở nơi này trong cuộc sống tin vào Đức Kitô.
- Thì những gì Kinh Thánh viết là sự
thật, và phải là sự thật vì các tiên tri được chọn để rao giảng về Ngài như
Ezêkiel, Eliah, Isaiah...
- Tôi xin ngắt lời bà; bà vừa nhắc
tới sự thật trong Kinh Thánh và các tiên tri. Thật ra, tên của các tiên tri đã
cả là một vấn đề không đơn giản trong Kinh Thánh. Chẳng hạn Ezêkiel, chữ El có
nghĩa là người thân thiết, người bỏ tiền ra chuộc mình khi mình mắc vòng lao
tù. Nói theo kiểu bây giờ là người trả tiền "bond" lấy mình ra khỏi
nhà tù chẳng may mình phạm luật bị giam giữ. Chữ El mang nghĩa đặc biệt được
viết hoa chỉ về Chúa là đấng thân thiết với mình, đấng cứu chuộc, đưa mình thoát
khỏi ách tội lỗi. Những chữ Eliah, Isaiah, Zeremiah bà thấy có 3 chữ cuối iah
có nghĩa Yah
- Vê, tên người Do Thái gọi Thiên
Chúa; thế nên tên của tiên tri quanh đi quẩn lại đều mang ý nghĩa lời của Chúa.
Hơn nữa, sự thật trong Kinh Thánh không mang tính chất lịch sử hoặc những diễn
tiến xảy ra thường ngày như chúng ta quan niệm mà Sự Thật đây được viết hoa có
nghĩa là Thượng Đế, là Chúa, là Chân Lý, là mục đích cuối cùng cho con người
tiến tới. Kinh Thánh được viết chứng minh có Thiên Chúa toàn năng, Ngài đang
hiện diện trong cuộc đời chúng ta chứ không phải một Thiên Chúa xa vời, ngây
ngô, có thế giới riêng tách biệt. Vấn đề áp dụng sự tin tưởng vào Thiên Chúa
qua Kinh Thánh lại càng không đơn giản. Không phải cứ Kinh Thánh viết thế nào
thì áp dụng đúng như vậy là được cứu rỗi mà có thể lại chống ngược lại với niềm
tin vào Thượng Đế, và cũng chống ngược lại chính quyền làm người được Thượng Đế
ban cho mình.
- Ông nói chi, sao thực hành theo
Kinh Thánh lại ngược với quyền làm người?
- Tôi đưa ra một thí dụ nơi Kinh
Thánh: Trong Tân Ước có viết đoạn Đức Kitô nói nếu tay con gây ra sự tội, chặt
nó đi, thà rằng vào nước trời cụt tay còn hơn mất phần rỗi đời đời. Bà nghĩ thế
nào? Đã bao giờ tay bà gây sự tội chưa? Thế sao bà vẫn còn cả hai tay? Và nếu
ai thực hành theo như vậy sẽ bị đưa ra tòa vì tội hủy hoại thân thể. Hơn nữa,
xét theo niềm tin vào Thượng Đế, người đó từ chối và hủy hoại hồng ân Thượng Đế
đã ban cho là cái tay. Tôi đề nghị kiểu khác để hiểu về đoạn Tân Ước này nói
riêng và Kinh Thánh nói chung. Tuy nhiên kiểu này cần sự hiểu biết nhiều hơn.
- Ông nói kiểu nào...
- Bà có nhớ có đoạn Phúc Âm kể lại
Đức Kitô đi trên mặt hồ không? Thánh Phêrô xin được đi trên nước và rồi rớt cái
tủm, la toáng lên "Lạy thày cứu con." Trong Phúc Âm cũng nói tiếp Đức
Kitô hỏi tại sao Phêrô lại hoài nghi. Bà nghĩ thế nào về đoạn Phúc Âm này; bà
có thể nghĩ rằng Thánh Phêrô rớt xuống nước vì thiếu đức tin không?
- Thì Phúc Âm viết vậy mình tin vậy,
chẳng lẽ Phúc Âm viết sai!
- Tôi không nói sai hay đúng, và nói
rằng mình tin vậy thì sự tin này lợi ích gì cho mình? Tôi muốn đặt vấn đề làm
thế nào có thể áp dụng sự hiểu biết về Kinh Thánh trong cuộc sống chứ không
phải chỉ tin suông rồi để đó. Tin suông theo kiểu đó đâu có ăn nhập chi đến
cuộc đời, đâu có thể giúp mình sống sao minh chứng ơn cứu độ của Chúa đang hiện
diện nơi chúng ta...
- Vậy chứ ông còn muốn bới vẽ gì về
Phúc Âm. Công Giáo các ông đâu tin vào Kinh Thánh như chúng tôi!
- Tôi không muốn mình có cuộc bàn
cãi tôn giáo, bà theo Tin Lành, tôi theo Công Giáo đó là quyền của mỗi người.
Tôi chỉ muốn nói tới vấn đề mình là Kitô hữu, làm sao áp dụng Kinh Thánh trong
cuộc sống một cách đúng đắn chứ không thực hiện móc mắt, chặt tay một cách
thiếu hiểu biết hoặc nói về móc mắt, chặt tay mà chẳng bao giờ thực hiện.
- Ông muốn nói Tin Lành chúng tôi
tin Kinh Thánh mà không làm theo?
- Đó là bà nói và bà đã hiểu lầm ý
tôi muốn nói. Tôi đã nói với bà là không phân biệt Tin Lành hay Công Giáo mà
nói về chúng ta là Kitô hữu. Bà tin vào Đức Kitô, tôi tin vào Đức Kitô nào có
gì sai trật đâu. Tôi chỉ muốn nói lên điểm chung trong khi bà đặt vấn đề về Tin
Lành hay Công Giáo. Vấn đề tôi đặt ra là làm sao áp dụng Kinh Thánh vào cuộc
đời tôi, cuộc đời bà, cuộc đời của mỗi người Kitô hữu. Tôi nói rõ là Kitô hữu
chứ không phải Tin Lành hay Công Giáo hoặc Anh Giáo.
- Vậy ông nói đi, ông bảo tại sao
Thánh Phêrô rơi xuống nước.
- Bà có biết bơi không?
- Có chứ; đó là môn thể thao của tôi
mà...
- Hèn chi cử điệu của bà có vẻ nhanh
nhẹn khác thường...
- Bơi lội giúp cho cơ thể cân đối
hơn và khỏe hơn. Bơi lội tốt hơn bất cứ môn thể thao nào...
- Bà bơi được lâu không?
- Mỗi ngày tôi bơi 1 mile trong vòng
một giờ.
- Bà bơi giỏi đó, thế cỡ chừng 100
yards bà bơi chỉ mấy phút thôi.
- Cỡ ấy...
- Vậy giả sử bà đang ở trên ghe, bị
rớt xuống nước bà sẽ phải thế nào?
- Tôi nín thở, bơi ngược lên...
- Bà không la hoảng lên à?
- Ông không biết bơi hay sao?
- Biết chứ nhưng không giỏi như bà
vì ít khi đi bơi nhưng rớt xuống nước không chết chìm được.
- Vậy tại sao ông nói về la hoảng
khi rớt xuống nước?
- Tôi muốn nói thánh Phêrô thôi!
- Ah há! Đúng rồi, thánh Phêrô không
biết bơi nên la hoảng, ông khá thông minh.
- Sao Kinh Thánh nói thánh Phêrô
thiếu đức tin.
- Nhưng lúc bấy giờ sóng to gió
lớn...
- Ở trong hồ mà, lại gần thuyền, gần
bờ. Nếu là bà, bà làm thế nào?
- Thì bơi về thuyền.
- Sao bà bảo sóng to?
- Sóng to đối với người không biết
bơi!... Ông lại đưa tôi vào bẫy rồi!
- Không, chẳng bẫy rập chi hết. Vấn
đề chỉ là nếu thánh Phêrô là dân chài mà không biết bơi để bảo vệ mạng sống thì
mình là Kitô hữu đã không biết những gì để sống chứng tỏ ơn cứu độ của Chúa
đang ở nơi mình cho mọi người biết. Đức tin mình phải được áp dụng trong cuộc
đời mình ra sao!
- "Profound thought!" Ông
lý luận hay; thế tại sao ông lại nghĩ được như vậy?
- Tôi không thích người khác bảo
mình phải thế này, phải thế kia hoặc tin như vậy là đúng, như kia là sai mà tôi
muốn biết tại sao Phúc Âm hay Kinh Thánh viết như vậy đồng thời cần phải hiểu
như thế nào cho phù hợp với cuộc sống cùng suy tư của mình trong thời đại bây
giờ để có thể chấp nhận được.
- Thế sao tôi nghe nói Công Giáo các
ông không có quyền tin theo ý riêng mình?
- Chữ "công" đây có thêm
nghĩa chung với nhau, toàn bộ dân Chúa. Dĩ nhiên, ý nghĩ, sự hiểu biết cá nhân
có thể chỉ đúng với một người mà không hợp với những người khác. Chẳng hạn bà
và tôi gọi Chúa là cha và có thể chấp nhận được, nhưng đối với những người
không có kinh nghiệm gì về bố đẻ của mình hay bị những kinh nghiệm xấu, kinh
hãi với bố đẻ của mình không thể chấp nhận được gọi Chúa là cha thì họ gọi Chúa
là Thượng Đế đâu có gì cản trở. Tuy nhiên, không thể lấy kinh nghiệm riêng tư
về Chúa của mình mà bảo rằng Chúa phải là như mình hiểu qua kinh nghiệm cuộc
sống cá nhân để rồi không chấp nhận những kinh nghiệm về Chúa của người khác
hay là cho rằng họ đã tin sai lạc. Chính vì những kinh nghiệm cá nhân về Chúa,
nói cách khác, Chúa bày tỏ chính Ngài với mỗi người khác nhau nên cần có những
điểm chung gom góp từ những kinh nghiệm giống nhau về Chúa của nhiều cá nhân hợp
lại, đó là đức tin Công Giáo...
- Ông có ý kiến hay, thế những đoạn
Kinh Thánh khác ông có tìm được điều gì "funny" không?
- Có một lần nghe giảng thuyết về
đức yêu thương. Vị giảng thuyết nhắc đến đoạn Phúc Âm người Samaritanô tốt lành
rồi lên án thày cả tế lễ và người luật sĩ đang trên đường đến Jerusalem như
trong Phúc Âm kể. Tôi thấy dị kỳ nên về lục lọi tìm hiểu tại sao thày cả tế lễ
và vị luật sĩ là hai lớp người gương mẫu tốt lành lại không thực hiện đức yêu
thương trong khi họ nên làm gương để đến nỗi Phúc Âm đặt vào miệng Đức Kitô lời
lên án đó...
- Phúc Âm viết rõ ràng như thế mà
ông không hiểu hay sao mà phải lục lọi...
- Thế mới phiền! Tôi chỉ đặt vấn đề
tại sao đoạn Phúc Âm được viết ra vì chuyện có gì đặc biệt đâu. Không giúp
người là không biết thương xót, thế thôi, việc gì phải nhắc tới? Hơn nữa, đoạn
Phúc Âm có vẻ đưa lên chuyện ngược đời với bất cứ ai. Thấy người khác chết đến
nơi mà mình không thương xót, không giúp đỡ là điều chính ngay những người tàn
ác nhất cũng không thể làm ngơ nếu họ có thể. Điều dị kỳ nhất là chính thày cả
tế lễ đang giảng thuyết lên án người tế lễ; vậy thì bài giảng đó chỉ nên giảng
cho những người có nhiệm vụ tế lễ chứ mắc mớ gì tới người khác. Chẳng lẽ nói
rằng ấy người tế lễ được nhắc trong Phúc Âm xấu hơn mình...?"
- Ông nói cũng có lý, mình không nên
kết án người khác và lại càng không nên so sánh để nói mình tốt lành hơn...
Nhưng thế rồi ông có tìm ra được gì không, chuyên viên lục lọi?
- Tôi lục vừa vừa thôi chứ không
phải chuyên viên lục lọi... Thế bà có hay cho người đón xe dọc xa lộ đi nhờ
không?
- Không! Làm thế nguy hiểm lắm. Bao
nhiêu trường hợp cướp bóc giết chết người đã xảy ra nên tôi phải đề phòng.
- Mấy lần tôi đón người "hit
hike" dọc xa lộ; khi kể cho bạn bè nghe, họ nói tôi liều mạng và rồi tôi
cảm thấy e sợ nên từ đó không bao giờ đón người dọc đường nữa.
- Ông không nên là đúng, lỡ ra thì
sao, vừa mất xe vừ có thể bị chết người.
- Vậy nếu bà thấy người gặp tai nạn
dọc xa lộ, bà có giúp họ không?
- Tôi kêu cảnh sát.
- Xe bà có CB không?
- Có chứ.
- Lỡ không có CB thì sao?
- Sẽ có người khác kêu, đó là điều
dĩ nhiên.
- Sao bà không dừng lại giúp người
ta?
- Luật không cho phép. Hơn nữa lỡ bị
vạ lây, người ta sẽ kiện mình, có thể mất nhà cửa, và làm cả đời cũng không đủ
tiền vạ! Ông có biết chuyện y tá và bác sĩ bị đền hai triệu dollars vì băng vết
thương cho một em nhỏ hướng đạo sinh không? Có một em nhỏ hướng đạo sinh đi cắm
trại; không hiểu thế nào, em bị đứt tay. Thiếu trưởng đưa em tới bác sĩ băng
ngón tay bị thương và tiếp tục để em cắm trại với thiếu đoàn. Thế rồi không
hiểu em bị chất độc gì thấm vào trong vùng cắm trại; khi về nhà bộc phát và
chết. Gia đình em kiện bác sĩ và y tá đã băng bó cho em. Cuối cùng tòa kết án
đền hai triệu; đó cũng là lý do tại sao nếu không có giấy của bố mẹ các em, bác
sĩ và y tá không dám đụng tới sác em dù trong trường hợp khẩn cấp...
- Thế bà có ý kiến gì về vụ thày cả
tế lễ và vị luật sĩ làm ngơ khi gặp người bị nạn sắp chết dọc đường không?
- Ừ há! Cũng có thể có chuyện gì,
nhưng ngày xưa khác, ngày nay khác... Ngày xưa đâu có xe, đâu có tai nạn bất
ngờ, và đâu có cảnh sát...
- Thật ra tai nạn thì thời nào cũng
có nhưng điều kiện cuộc sống khác nên tai nạn xảy ra dưới hình thức khác. Tôi
còn nhớ không biết đọc được ở đâu về luật Do Thái; người Do Thái có luật nhơ
uế. Con heo là thứ nhơ uế nên người theo đạo Do Thái không ăn thịt heo; họ cũng
không bao giờ dám đụng đến con heo vì đụng vô thứ nhơ uế cũng bị nhơ uế và muốn
được sạch phải thi hành luật thanh tẩy một cách nghiêm chỉnh và khó khăn. Có
khi tới 7 ngày tắm gội, giặt giũ quần áo với nước pha phân bò đực còn tơ, rồi
kiêng khem và cuối cùng lại phải tới gặp thày tế lễ trong nhiệm kỳ để được
tuyên bố thanh sạch thì mới thực sự được sạch. Những con vật chết tự nhiên
ngoài trời hoặc bị con vật khác giết chết cũng là nhơ uế. Người chết được coi
là nhơ uế, và thày cả đang ở trong nhiệm kỳ tế lễ không được đụng đến xác chết
dù là thi thể của cha mẹ mình. Người bị cướp đánh gần chết ngoài trời được soi
như nhơ uế; thế nên...
- Thì giúp người mà nhơ uế à?
- Đó là luật Do Thái. Hơn nữa, thày
cả tế lễ và vị luật sĩ đang trên đường tới Jerusalem tế lễ sao họ dám đụng vào
người nhơ uế. Luật Do Thái rất khắt khe, người bị nhơ uế không được bước vào
đền thờ trong khi mỗi năm chỉ có một lần người ta lên đền thờ tế lễ.
- Thế sao người Samaritanô dám đụng
vào?
- Người Samaritanô đâu theo luật Do
Thái, đâu biết chi về luật nhơ uế.
- Vậy câu chuyện đi đến đâu theo sự
khám phá của ông?
- Bà còn nhớ đoạn Phúc Âm lên án
người không biết thương xót không? Cứ theo thời điểm lúc bấy giờ thì đoạn Phúc
Âm này lên án luật nhơ uế của người Do Thái. Đại khái, theo tôi hiểu, bất cứ lề
luật nào ngăn cản mình thương xót kẻ khốn cùng cũng đều phản lại đức yêu
thương, phản lại đức tin của mình. Những luật đó, những điều kiện đó là những
cánh tay cần phải chặt bỏ, những con mắt cần phải móc đi vì chúng làm cho mình
phạm luật yêu thương. Theo tôi, cánh tay, con mắt là những thói quen, những tập
tục ăn rễ sâu nơi cuộc sống con người, xã hội khó lòng dứt bỏ; chúng là một
phần của đời sống mình như cánh tay, con mắt...
- Ông nói có lý, thế sao tôi chưa
bao giờ nghe ai nói như thế?
-
Đó là lý do tại sao tôi thấy cần nhiều cố gắng tìm
hiểu Kinh Thánh để áp dụng trong cuộc đời mình. Nói cách khác, người Do Thái
kinh nghiệm về Chúa trong cuộc đời họ, viết ra cuốn Thánh Kinh thì mình cũng
cần tìm hiểu về chính kinh nghiệm đối với Chúa qua đức tin trong cuộc sống của
mình và đem so sánh với Kinh Thánh. Tôi nghĩ, cuộc đời mình là cuốn Kinh Thánh
sống động; mình đang viết Kinh Thánh bằng chính cuộc sống. Theo nghĩa này, mình
đang là chứng nhân của ơn cứu độ Chúa dành cho mọi người và nếu mình không giúp
cho người khác quanh mình nhận ra ơn cứu độ của Chúa nơi họ, nơi cuộc sống,
cccó lẽ mình đang rơi xuống nước như thánh Phê-rô mà không kêu la chi hết, lại
chấp nhận chìm cho qua…
16
Bởi cá tính không chấp nhận một cách
mù quáng và cho rằng mỗi người được Chúa ban cho hồng ân suy tư, thày Lành càng
ngày càng cảm thấy sự học hỏi giúp cuộc đời mình có thêm những ý nghĩa khác lạ.
Tự diễu với Kinh Thánh khiến cái nhìn với cuộc đời sâu rộng hơn. Thày Lành hay
dùng tiếng diễu nhưng được hiểu theo nghĩa tìm những khía cạnh khác hoặc ý
nghĩa khác của đoạn Kinh Thánh muốn nói lên. Càng suy nghĩ ý nghĩa Kinh Thánh,
thày Lành càng nhận ra cuộc đời mình gắn bó chặt chẽ với đức tin và đức tin đòi
hỏi cuộc sống mình phải thay đổi, thay đổi tận gốc rễ. Những chuyện bình thường
hằng ngày mang ý nghĩa mới, lối cư xử mới thay vì chấp nhận sống theo thói quen
đã từ lâu sống như mọi người.
Qua những bài vở làm nơi nhà trường
thày Lành có cơ hội đối diện với những quan niệm thần học xưa và nay. Gọi là
xưa vì những quan niệm, tư tưởng đã được viết ra cách đây cả 100 năm về trước,
đa số là hơn, từ thời Chúa giáng trần hay trước nữa. Mỗi khi bước vào thư viện
giữa những kệ sách, thày thấy mình thật nhỏ bé. Chỉ một cuốn sách nhỏ cũng chất
chứa nhiều suy tư, hiểu biết. Những người đi trước để lại những kho tàng vô giá
dù mình có dành ra cả một cuộc đời cũng không thể nào hiểu biết hết, thày nghĩ.
Nếu đem so sánh cuộc đời mình với dù chỉ một cuốn sách, mình chưa đáng là hạt
bụi nơi thư viện. Một điều làm thày Lành thích thú lẫn ngạc nhiên là những gì
thày mới nghĩ tới để đặt vấn đề, có khi đã được viết ra cả trăm năm về trước.
Cha giám đốc C.T.U. nói đúng: "Thày chưa đủ thông minh để trở thành rối
đạo, đừng ngại chi hết." Thư viện có một hấp lực đặc biệt đối với thày; đã
bước vô là không muốn trở ra bởi còn nhiều quá, nhiều điều mình chưa hề bao giờ
nghe hoặc nghĩ tới; có những tâm tư chưa ai có thể ngờ, những diễn giải đưa con
người tới chân trời thật mới lạ cho thấy rằng Chúa đã không quá khắt khe, xa lạ
giống như mình tưởng. Chúa rất gần, gần hơn bạn thân thiết để mình có thể tâm
sự tất cả dù những điều chói tai đã bao lâu thày nghĩ nhưng không dám nói cho
ai nghe. Nói ra, người khác sẽ cho mình rối đạo hoặc khùng khùng.
Gần ngày chịu chức phó tế, đến lượt
thày Lành diễn giải Phúc Âm ngày lễ Đức Mẹ Nữ Vương Các Thánh Tông Đồ. Dầu đã
bao nhiêu năm theo đuổi ơn gọi, những phấn đấu nơi cuộc đời, nơi nội tâm ròng
rã như hành trình chuẩn bị cho ngày chịu chức, thày Lành vẫn thấy nao nao; nao
nao vì chưa bao giờ có được thực sự tâm trạng của người trong cuộc. Dù sao,
không kể quãng đời ấu thơ vô lo, từ ngày thày có ý hướng đi tu làm linh mục cho
tới nay vẫn chỉ trong tiến trình chuẩn bị mặc dầu cha giáo lớp chuẩn bị ra
trường rành rẽ giải thích.
-Quí thày không việc gì phải lo lắng
về ngày chịu chức. Những việc nên làm như gửi thiệp mời bà con anh em thân
thuộc, những sửa soạn khăn áo, chén thánh hay học thi, quí thày cứ tuần tự
chuẩn bị theo lịch trình đã tính toán. Vấn đề chịu chức không phải là chuyện
một tháng hay hai tháng cuối cùng mà quí thày đã được đào luyện từ bao năm nay,
từ khi có ý định dâng mình cho Chúa làm linh mục. Không phải phi lý mà quí thày
có được những kinh nghiệm bản thân dầu đơn sơ hay đôi khi rắc rối trong quá
trình học tập qua những năm tiểu học, trung học, đại học, rồi thần học. Thử
nhìn lại những diễn tiến đã xảy ra một cách tổng quát, tất cả những năm tháng
ngày giờ, những diễn biến trong cuộc đời đã được xảy ra một cách huyền nhiệm để
quí thày có được ngày hôm nay. Những thanh lọc, nhận xét của nhà trường qua ban
điều hành, giám thị, qua những ý kiến theo dõi của các vị giáo sư, anh em trong
nhóm họp hàng tuần v.v... Tất cả đã đưa lại kết quả như một sự nhìn nhận ơn
Chúa kêu gọi quí thày, và quí thày đã được đào luyện đầy đủ, xứng đáng được
tuyển chọn gia nhập hàng tư tế chuẩn bị bước lên bàn thánh. Quí thày không nên
để cho tâm tư ngỡ ngàng khi ngày chịu chức tới mà nên xác tín rằng Chúa đã gọi
quí thày qua các môi trường đời cũng như chủng viện và ngày nay là ngày thực sự
công bố sự chọn lựa của Ngài trước công chúng...
Mối suy tư mình sẽ như thế nào sau
ngày chịu chức thúc đẩy thày Lành vô nhà nguyện lật bài đọc suy gẫm để soạn
giảng. Cuộc đời Đức Maria thay đổi từ khi nói lên hai tiếng "xin
vâng" và ngài cũng chẳng làm những chuyện to tát chi, không mơ ước cao
sang, chỉ sống hòa nhịp theo sự quan phòng của Thiên Chúa... Ngài đã được chọn
làm mẹ Đức Kitô, đối nghịch với tất cả những tham vọng oai hùng của loài
người... Rồi đến những vị thánh nhân, mọi người ca tụng nhân đức khiêm nhường
của các thánh chứ không ai viết hoặc nhắc nhở tới thánh này tiếng tăm lừng lẫy
hoặc thánh kia oai phong, hét ra lửa làm muôn người phải sợ... Trong cuộc đời,
bao nhiêu người chạy theo danh vọng đã gục ngã không phương chỗi dậy mà chỉ
tiêu tan sự nghiệp, mộng ước... cuộc đời Mẹ Thiên Chúa phải là gương mẫu cho
linh mục trong vấn đề sống chấp nhận hòa nhịp với hoàn cảnh đang sống...
Qua hai tuần suy gẫm, thày Lành
giảng thuyết nơi chủng viện với một tâm tình thách đố sự chấp nhận con đường
tương lai theo gương cuộc đời Đức Maria:
Mấy năm trước, khi tôi theo học lớp
"The Problem of God," tôi thấy Chúa cũng có nhiều sự rắc rối. Chuyện
rắc rối đầu tiên và cũng là nguyên nhân cho những rắc rối tiếp theo là Ngài đã
quên không thiết lập một hàng rào chung quanh cây táo thiện ác. Theo nghĩa đen
của Kinh Thánh, nguyên nhân tạo nên sự rắc rối đầu tiên của Chúa là hành động
ăn trái cấm của bà Evà có lẽ là để dành quyền bình đẳng. Thật sự, tôi cũng
không thể hiểu được bà Evà muốn dành quyền bình đẳng về phương diện nào, hoặc
là bà muốn được toàn năng như Thiên Chúa hoặc bà muốn được trở thành con người
được tạo dựng đầu tiên giống như ông Ađam. Tôi chỉ biết một điều rõ ràng theo
như Kinh Thánh viết là bà Evà đã nhận thực ra cả hai người, ông Ađam và bà hoàn
toàn không một tấm áo che thân. Thế rồi bà vội đổ lỗi, nói cách khác, trao ngay
"quyền hành" bà vừa dành được do hành động ăn trái cấm cho con rắn
khi Chúa hỏi bà nguyên do. Thế nên, chính sự đổ lỗi này đã làm Chúa tuyên án
thù bất cộng đái thiên giữa đàn bà và con rắn.
Đức Maria đã không tìm kiếm hoặc mơ
ước bất cứ sự cao sang thế trần mà chấp nhận thân phận mình là một tôi tớ hèn
mọn của Chúa, và Chúa đã mời gọi Đức Maria làm mẹ Đức Kitô. Chúng ta là thân
thể Chúa Kitô; chúng ta cũng là con cái của Đức Mẹ. Hơn nữa, bài Phúc Âm hôm
nay kể lại chính Chúa Kitô phó thác thánh Gioan như đại diện dân Chúa cho Đức
Mẹ dưới chân Thánh Giá. Chúa Kitô muốn chúng ta được sự che chở và học theo
gương Đức Mẹ. Vì thế tôi muốn chia xẻ suy tư của tôi nơi tâm tình của Đức Mẹ
đối với Thiên Chúa và điều đó là Đức mẹ chỉ sống theo điều Thiên Chúa muốn cho
mình trong cuộc đời.
Chắc chắn rằng mỗi người chúng ta
đều có nhiều ước mơ, và ai cũng muốn thay đổi cả thế giới theo quan niệm riêng
của chính mình. Chúng ta đang chờ đợi được truyền chức năm nay, sang năm hoặc
vài năm sau. Và dĩ nhiên, khi được bổ nhiệm, chúng ta sẽ cảm thấy phấn khởi và
sẵn sàng thay đổi giáo xứ được sai tới theo ý muốn hoặc quan niệm của chúng ta.
Thực tế chứng minh, nếu chúng ta thực hiện theo đường hướng này, chúng ta sẽ
gặp rắc rối lớn lao với cha chính xứ đầy quyền hành nhưng khác quan niệm.
Suy niệm về tâm tình của Đức Mẹ, tôi
nhận thấy điều tốt nhất cho chúng ta là hãy làm những gì được trao phó hay yêu
cầu bởi vì chưa chắc những điều chúng ta muốn đã thực hiện được nhưng làm những
chuyện cần thiết trước mắt sẽ đem lại kết quả hữu ích hơn. Chúng ta được gọi và
chọn để làm công việc của Thiên Chúa chứ không phải để làm việc của chúng ta.
Vấn đề còn lại là làm thế nào ngăn chận hay loại bỏ những ước mơ không cần
thiết nơi chính mình. Tôi mượn lời cha giám đốc chủng viện đã một lần nói với
tôi đó là luôn luôn đặt trong tâm tư câu hỏi: "Chúa Kitô sẽ làm thế nào
trong trường hợp của mình" để giải quyết thực tại. Sống trong tâm tình
này, chúng ta là chứng nhân của Chúa Kitô như Mẹ Maria, người chứng nhân đầu
tiên đã làm thánh Gioan Tẩy Giả nhẩy mừng trong lòng bà Elizabeth. Trở thành
chứng nhân của Chúa Kitô, chúng ta mang lại niềm vui tươi và hy vọng cho người
chung quanh.
Hôm nay chúng ta mừng lễ Đức Mẹ Nữ
Vương Các Thánh Tông Đồ, ngài cũng là nữ vương của chúng ta trong tập thể các
thánh thông công. Tôi mời mọi người dùng đôi phút suy tư về phương cách nào để
chúng ta học theo đức Maria trả lời hai tiếng "xin vâng" với Chúa;
đoạn cùng với Thánh Lễ khẩn cầu Chúa ban ơn cho chúng ta theo bước chân Mẹ Maria
trong cuộc đời mỗi người...
Tuy bài giảng không lấy gì làm đặc
sắc nhưng vẫn còn ảnh hưởng cha Lành trong những năm tháng làm phó xứ cho tới
ngày giờ này ngồi cầu nguyện trong nhà thờ. Thực tế và ước mơ, sáng kiến đổi
mới nhiều khi đem lại niềm xót thương tâm tưởng. Chúa đang muốn gì nơi mình?
Chúa muốn dân Chúa ra sao? Mình phải làm gì? Âm thầm chấp nhận những cảnh ngang
trái, lỗi luật thì lòng ray rứt vì sự hiểu biết! Nói ra dân chúng than van hoặc
bỏ không đi nhà thờ! Cả một vấn đề mục vụ nan giải, nan giải như câu chuyện tếu
mấy người cựu quân nhân quen biết có lần diễu diễu đọc lại câu định nghĩa huynh
đệ chi binh; "huynh đệ chi binh là dấu kín thì nó rình, để hở thì nó rinh,
không nói thì nó khinh, và nói ra thì nó binh..."
Dĩ nhiên, Lời Chúa bao giờ cũng trái
ngược với lòng ham muốn bình thường của con người và khuyến khích con người
sống tốt lành, đạo đức hơn. Vả lại, mặc dầu đã học thần học nhưng không dễ chi
hiểu được rõ ràng lời Kinh Thánh ngày xưa muốn nói gì, ngày nay ý nghĩa thế
nào, và áp dụng trong cuộc sống ra sao. Thật ra, giảng Lời Chúa đâu phải cứ đem
Chúa ra mà nói tào lao thiên tướng nhưng nói sao cho không những phù hợp với
thực tế rắc rối lại còn phải phù xợp với tâm tình dân Chúa theo tính chất dân
tộc hoặc đôi khi tùy địa phương, phong thổ. Có nhấp nhận được điều mình giảng
giải, người ta mới sống theo; có nghe được điều thuận lý, hợp tai người ta mới
thèm để ý, thèm suy nghĩ. Thế nên, một điều trái ngược khó tin là linh mục
giảng giải cho chính mình trước; giảng giải trở thành chia xẻ tâm tình sống Lời
Chúa của mình với giáo dân. Chúa hiện diện giữa đám dân Ngài; chia xẻ tâm tình
sống Lời Chúa là giúp cho giáo dân nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi họ, giúp
họ thêm niềm tin tưởng vào Chúa, vào sự quan phòng của Ngài để có cuộc sống
chứng nhân và đồng thời cũng nhận ra Chúa đang dùng con người, dùng chính họ
giúp con người trong mọi hoàn cảnh khác biệt hay bình thường nơi cuộc đời.
Có quan niệm cho rằng giảng giải
phải dạy người ta thế nọ, thế kia. Thật ra nếu giảng được nhìn theo khía cạnh
chia xẻ Lời Chúa qua tâm tình suy niệm của mình thì giảng lại là dạy chính mình
trước. Hơn nữa, giảng đâu phải bới điều xấu của giáo dân ra mà nói ở nhà thờ.
Đâu ai muốn nghe những điều xấu của mình; người ta chỉ thích nghe điều tốt nơi
họ thôi. Thực tế cho biết, những kẻ xấu đâu thèm đi nhà thờ; thế nên bới điều
xấu của người khác mà nói trở thành dạy những người tốt lành làm điều xấu. Bình
thường, theo tâm lý con người, không hiểu tại sao ai cũng dễ nhìn thấy những
điều không nên không phải của kẻ khác. Nhìn theo khía cạnh tâm lý, có thể rằng
vì mình đã chất chứa nhiều lỗi lầm do đó dễ nhìn thấy nó nơi những người khác
như một phản ảnh chăng! Rồi vì mình không thể chấp nhận những điểm yếu hèn này
của mình nên đem ra mổ xẻ để trút lên đầu kẻ khác hy vọng có cảm tưởng mình tốt
lành... Chỉ có Chúa biết... không thể chấp nhận được!
Có quan niệm khác, giảng nên đem ra
những điều tốt lành nơi giáo dân để khuyến khích người ta sống vươn lên mãi.
Vấn đề thật phức tạp vì thực tế không đơn giản như những điều mình nhìn và nghe
thấy. Lại nữa, dù chỉ trong một nhóm, đã có nhiều thành phần phương chi cả xứ,
cả cộng đồng, được người nọ mất người kia rồi kẻ không được để ý sinh ra phiền
lòng chán nản. Còn nếu nói chung chung thì một năm 52 ngày chủ nhật, hai năm
104 lần; đào bới đặc tính tốt chung chung sẽ được bao nhiêu lần, và có phù hợp
với bài đọc hôm đó hay không! Làm cha mà nói ngoa thì không nên mà nói tốt cũng
không biết sao mà nói... Có ai biết đâu, Lời Chúa nào dễ chi giảng giải.
Những ngày còn trong chủng viện, cha
Lành ít khi nghĩ đến những rắc rối của vấn đề giảng Lời Chúa vì, cũng như bao
người khác, nghĩ rằng nào có chi đâu, vài câu nói thì nói cái gì chả được. Thế
rồi qua lớp học giảng, và khi ngồi soạn giảng sác ngày lễ, cha Lành mới nhận
thấy rõ hơn vấn đề không đơn giản như bao nhiêu người khác nghĩ. Không ai có đủ
kiên nhẫn để nghe giảng cả tiếng đồng hồ và khi đã không muốn nghe, tai họ đóng
lại, mi mắt khép vô và ngủ gật, hoặc người khác thì ngáp... Đang giảng mà nhìn
thấy người ngáp, hứng khởi tiêu tan. Hơn nữa, ai có thể nhớ được những lời mình
nói cả tiếng đồng hồ vì có ai là máy thâu băng đâu. Giảng 15 phút đã là dài và
đã là nói nhiều rồi. Cha Lành cố gắng soạn giảng tối đa 10 phút nhưng thường
thì ráng sao cho từ 7 tới 8 phút và phải công nhận rằng, soạn giảng ngắn mới
khó. Chỉ trong vài phút mà nói lên được điều mình muốn nói sao cho phù hợp với
Kinh Thánh, với giáo dân để khuyến khích, cỗ võ họ sống đạo không dễ chi.
Nhớ lại thời gian chuẩn bị lãnh chức
linh mục, cha Lành đã suy nghĩ suốt hai tháng cho bài giảng lễ tạ ơn của mình.
Một linh mục mới chịu chức thường hay nhờ cha linh hướng hoặc cha khác giảng
dùm. Cha Lành không có cha bố lại cũng không muốn nhờ bởi lẽ không muốn nói về
hoặc được ca tụng những cố gắng theo đuổi ơn gọi của mình. Cha Lành nhận thấy.
Chức linh mục không phải cứ học giỏi mà được hoặc đạo đức nên Chúa chọn; chức
linh mục là một hồng ân của Thiên Chúa. Học hành giỏi dang... bao nhiêu người
có bằng tiến sĩ, bằng nọ tước kia ngoài đời... Bạn bè đi tu, bao nhiêu người
tốt lành, thánh thiện, cầu nguyện đọc kinh liên miên, đã ra đi không bao giờ
trở lại... và nay đã con đàn con đống... Các cha giảng lễ tạ ơn lại cứ coi như
vì vị tân linh mục cố gắng nên đã được chọn để được truyền chức rồi buông lời
ca tụng... Có lẽ Chúa không chấp nhịn được vì Ngài chọn chứ không phải do cố
gắng thế nọ thế kia của con người... Ông bà ta có câu, "Hòn đất cất nên
ông bụt;" chứ không phải hòn ngọc cất nên ông bụt...
Suốt hai tháng nghiền ngẫm, bài
giảng vẫn cứ như đâu đâu; sao cho nói lên được hồng ân của Chúa trong cuộc đời;
nói sao chứng tỏ lòng biết ơn của mình đối với những người chung quanh đã
khuyến khích, giúp mình rằng cách này hay bằng cách khác; nói sao để khuyến
khích người khác thêm ý nghĩ muốn đi tu; rồi điểm nào đưa lên tính chất dân
tộc... Thế rồi ngày chịu chức ập đến, nào là bà con khách khứa, nào là sửa soạn
nhà cửa cho khách về ở... và bài giảng vẫn chưa được viết. Mãi tới 1 giờ đêm
trước ngày lễ tạ ơn sáng hôm sau, cha Lành mới cầm bút viết trong khi mọi người
đã đi nghỉ...
Quí cha, quí tu sĩ, quí vị chức sắc
tân, cựu, quí vị trong các ban, ngành, đoàn thể, quí ông bà anh chị em trong
Đức Kitô.
Tục ngữ Việt Nam có câu: "Ăn
quả nhớ kẻ trồng cây" hoặc "Uống nước nhớ nguồn." Hai câu này
vừa nhắc nhở, vừa nói lên ý nghĩa tấm lòng biết ơn của chúng ta đối với tổ
tiên, ông bà cha mẹ đã gầy dựng cho mình và đối với những người đã làm ơn cho
chúng ta. Để nói rõ hơn tâm tình này, chúng ta còn có câu: "Ơn ai một chút
khó quên, phiền ai một chút để bên dạ này." Trong cuộc sống thường ngày,
mỗi người chúng ta thường canh cánh bên lòng và hay nhắc nhở đến những công lao
hoặc sự giúp đỡ của những người đã làm ơn cho chúng ta bằng cách này hay bằng
cách khác.
Tâm tình biết ơn này phù hợp với Lời
Chúa hôm nay vì chúng ta tin như trong thơ gửi giáo dân Côrintô: "Tất cả
mọi người chúng ta đều phải phơi bày trước tòa án của Đức Kitô để mỗi người
lãnh lấy thành quả đời sống mình."
Nhìn vào sự việc mà biết được tâm
tình, tôi muốn dùng đôi phút để nói lên tấm lòng biết ơn của tôi nói chung đối
với dân tộc Việt Nam và nói riêng với quí ông bà, anh chị em. Tôi cũng muốn xin
thêm nơi quí vị một yêu cầu; đó là sự tiếp tục cổ võ ơn gọi dâng mình cho Chúa.
Trước hết tôi xin cảm tạ Chúa đã cho
tôi là người Việt Nam; tôi đã được sống trong truyền thống dân Việt với tâm
tình con người Việt Nam. Năng lui tới, và bây giờ, tôi là một phần tử trong
cộng đồng này, tôi mang ơn cộng đồng bao gồm quí ông bà anh chị em.
Trải qua những năm sống chung với
người Mỹ, tôi đã có cơ hội nhận thức được giá trị của hệ thống gia đình dân
Việt mà tôi có thể nhìn thấy và chứng minh được trong cuộc sống gia đình; đó
là: quí vị, những người sống trong bậc đôi bạn, quí vị được ban cho những đặc
tính thánh thiện. Không những sống trong ơn thánh của Chúa, quí vị là thánh mà sự
chịu đựng, chấp nhận, hy sinh trong những phong ba cuộc đời để giữ vững, sống
đúng với ơn gọi trong bậc gia đình, chỉ những vị thánh mới có thể sống được như
thế. Tôi ghi ơn những lời khuyến khích hoặc khuyên giải quí vị đã dành cho tôi.
Tôi ghi ơn những nụ cười, những cử chỉ thân ái, những lời cầu nguyện, và ngay
cả những sửa sai mà quí vị đã đặc biệt nói với tôi. Không có những sự đặc biệt
ưu ái này của quí vị, có thể tôi không có cơ hội nói với quí vị ngày hôm nay.
Điều làm tôi cảm phục nhất là đức tin
đơn thuần và lòng mộ mến của quí vị đối với Chúa. Kết quả của đức tin và lòng
mộ mến này là sự đoàn kết, mến yêu hàng giáo sĩ, tu sĩ. Nhìn vào hiện tại, một
ngôi thánh đường này, một trường học giáo lý bên kia, đã và đang chứng minh quí
vị thế nào.
Qua những nhận thức và sự kiện tôi
vừa nói, tôi dám bạo dạn xin với quí vị một yêu cầu; tôi muốn xin quí vị cổ võ,
thúc đẩy, khuyến khích mạnh mẽ hơn về ơn gọi dâng mình cho Chúa. Là con dân
nước trời, sống đẹp lòng Chúa, được lòng người chưa đủ. Chúng ta còn mang thêm
bổn phận rao giảng nước trời. Ai cũng biết, không có người đi tu, lấy ai rao
giảng, lấy ai ban phép bí tích. Quí vị là bậc cha mẹ, ông bà, có con cháu dâng
mình cho Chúa, quí vị được lãnh nhận ân huệ không những đời này mà lại còn cả
đời sau.
Riêng các bạn trẻ thanh thiếu niên,
tôi muốn gửi đến các bạn chỉ một câu. Đó là: nếu ông thày cao bồi mà có thể đi
tu được, các bạn cũng có thể đi tu được. Vấn đề là các bạn có dám hay không.
Làm việc, quen biết với các bạn, tôi hiểu các bạn dám thực hiện bất cứ chuyện
gì, và các bạn có thừa khả năng, thừa sinh lực hoàn thành những gì các bạn
thích hoặc muốn làm. Các bạn chỉ còn chưa dám đặt vấn đề đi tu. Chúa mời gọi
mọi người, nên những ai dám chịu chơi chấp nhận, "này tôi đây, tôi dám
dùng cả cuộc đời để trả lời sự kêu gọi của Chúa;" thế là chuyện coi như
xong. Tôi tin các bạn dám trả lời kiểu này và tôi thách đố các bạn dám dùng cả
cuộc đời mình để trả lời ơn gọi đi tu.
Trong tâm tình biết ơn đối với Chúa
và với mọi người, chúng ta dùng đôi phút thinh lặng để nhớ lại những ơn lành
Chúa đã ban cho mỗi người chúng ta, và dùng tâm tình này như của lễ đặc biệt
dâng tiến Chúa hôm nay để cầu nguyện cho giáo xứ chúng ta và cho ơn gọi dâng
mình cho Chúa. Nguyện xin Chúa chúc lành cho mọi người chúng ta.
Dùng văn hóa dân tộc để khuyến khích
đời sống luân lý và sống đạo có sức mạnh ảnh hưởng khá quan trọng nơi tâm hồn
giáo dân Việt Nam. Hơn nữa, nếu nhận xét thêm theo lối nhìn thần học, Chúa dùng
văn hóa dân tộc để giúp dân Ngài sống tốt lành hơn. Luân lý bổ túc cho đạo đức
và là khuôn mẫu cho con người sống đạo đức trong cách đối xử hằng ngày. Trong
những bài giảng hôn nhân, sự nhấn mạnh đến cá tính và luân lý dân tộc, những
khuôn mẫu, nề nếp gia đình hầu giúp người ta ý thức sự quan trọng của mối liên
hệ gia tộc trong cuộc sống hôn nhân là điều nên để ý tới. Cha Lành nghĩ, những
sự liên hệ gia đình trợ giúp cho hôn nhân vì trong mối giây ràng buộc này, văn
hóa và nề nếp gia đình đóng một vai trò bảo trợ cho hôn nhân. Thực ra, dầu hôn
nhân là chuyện của hai người nhưng nếu thiếu sự liên hệ, chia xẻ kinh nghiệm
sống trong liên hệ gia tộc, đôi hôn nhân khi đương đầu với những khó khăn, khó
có thể kiếm được đường lối giải quyết để tránh phần nào nguy hại có thể đưa đến
đổ vỡ. Nhờ mối liên hệ thân thiết với anh em họ hàng, bà con, nhờ sự chia xẻ
kinh nghiệm và những lời khuyên bảo hoặc giúp đỡ đồng thời do sự liên hệ thân
thiết ảnh hưởng đến danh dự liên đới gia tộc, tất cả trở thành những yếu tố
đóng góp vào sự bền vững của hôn nhân.
Đặc tính sống cộng đồng của dân Việt
nảy sinh ý thức bảo vệ danh dự gia đình và đồng thời cá nhân không những lo
sống bảo vệ danh dự chính mình mà còn có bổn phận gìn giữ danh dự cho họ hàng.
Những yếu tố này đã trở thành động lực giúp con người nhẫn nại, chấp nhận và
chịu đựng hơn. Đây là đặc tính thiết yếu của những người sống trong bậc đôi
bạn. Vì thế dùng đặc tính dân tộc nhắc nhở trong bài giảng một phần nào giúp
dân Việt ý thức được điều hay lẽ phải của văn hóa Việt, ý thức được sự hợp nhất
trong cách sống liên hệ dân Chúa và cũng giúp họ nhận ra vai trò của mỗi người
trong nhiệm vụ mục vụ của giáo dân bằng cách này hay cách khác đóng góp vào
việc xây dựng gia đình không những của mình mà còn giúp người khác. Dĩ nhiên,
đôi hôn nhân trong lễ cưới chắc chắn chẳng nghe được gì nơi bài giảng; họ còn
muôn thứ chuyện nào về nghi thức, nào nỗi e ngại muôn người nhìn vào, nào tiệc
tùng sắp tới, rồi sự ảnh hưởng của những việc sửa soạn cho ngày cưới khiến cơ
thể mệt mỏi khó có thể cầm trí lắng nghe. Hơn nữa, đối với hôn nhân, lễ cưới là
biến cố trọng đại chưa quen kinh nghiệm của đôi trẻ; tâm tư họ bị căng thẳng;
rồi tâm tình đôi hôn nhân bị giao động khi được chính thức chấp nhận sự liên hệ
ràng buộc vợ chồng gây cho họ cảm xúc bất thường... Tất cả những yếu tố này gom
lại đè nặng tâm trí thì sao họ còn có thể nghe. Thế nên, giảng đám cưới là
giảng cho người dự lễ, không phải giảng cho đôi hôn nhân. Do đó nhắc nhở người
ta ý thức vai trò của một người trong sự liên hệ với gia đình và cộng đồng cũng
phần nào khuyến khích họ góp tay xây dựng cộng đồng dân Chúa. Nhấn mạnh vai trò
cha mẹ, anh em cha bác, bạn bè trong mối tương quan khuyến khích và bảo vệ hôn
nhân, cha Lành cảm thấy mình cũng một phần nào tích cực chia sẻ sự cố gắng vun
trồng cộng đoàn dân Chúa…
17
- Bình an của Chúa ở cùng anh chị
em.
- Và ở cùng cha.
- Xin Thiên Chúa toàn năng là Cha và
Con và Thánh Thần ban phước lành cho anh chị em.
- Amen.
- Lễ xong, chúc anh chị em về bình
an.
- Tạ ơn Chúa.
- Xin cảm ơn quí ông bà anh chị em
đã tham dự thánh lễ sáng nay. Chúc quí ông bà anh chị em một ngày vui tươi...
- Xin cảm ơn cha...
- Tôi không hiểu sao sáng nay chúng
ta tham dự thánh lễ đông hơn mọi ngày. Hình như cứ mỗi lần tôi bị trễ, quí vị
dự lễ đông hơn; thế nên, sáng mai chắc chắn tôi cũng sẽ bị trễ...
Mọi người cười nhẹ trong khi cha
Lành hôn bàn thờ đoạn quay ngang hướng về nhà tạm bái gối rồi đi vào phòng mặc
áo. Sáng nay, còn đang ngon giấc, điện thoại reo một tràng dài làm ngài choàng
tỉnh. Điện thoại reo lâu hơn bình thường vì được gọi "intercome" từ
nhà thờ. Đưa tay chụp điện thoại trong lúc mắt nhắm mắt mở liếc vô chiếc đồng
hồ dạ quang. 6 giờ 39 phút; chiếc đồng hồ được chỉnh chạy nhanh hơn 9 phút
nghĩa là bây giờ đúng giờ lễ... Tiếng ông câu giúp việc dọn lễ và lần hạt vang
lên trong điện thoại:
-Cha dâng lễ sáng nay?
-Chúa ơi, tôi bị trễ rồi!
-Con nói với mọi người cha trễ ít
phút...
-Ông làm ơn.
Nghĩ mà xấu hổ, ngủ quên cả giờ dâng
lễ. Tối qua đi ăn về muộn lại còn những việc lỉnh kỉnh phải làm cho xong; đọc
kinh tối mà mắt cứ gà ra, nhắm tít lại để rồi vừa xong kinh tối cha Lành lăn
quay ra ngủ quên cả bật nút hai chiếc đồng hồ báo thức. Đã mấy lần dặn ông câu
lúc tới mở cửa nhà thờ nếu không thấy điện nhà bếp sáng thì gọi ngài trước nửa
tiếng thế mà mãi tới giờ lễ mới gọi. Biết sao hơn, ai là người không bao giờ
quên; hơn nữa, dâng lễ là nhiệm vụ của linh mục, và có trả tiền cho ông ta báo
thức mình đâu! Dù ông có gọi hay không thì cũng không phải là bổn phận của ông
mà là bổn phận của mình. Buông điện thoại, cha Lành vội vàng vô phòng tắm rửa
mặt, đánh răng, vuốt nước chải tóc, xịt keo; rồi nào hối hả mặc quần áo bước
vội ra nhà thờ trong khi cặp mắt cứ nhíu lại. Đã bao nhiêu lần ngài tự nhủ phải
đi ngủ sớm, muộn nhất là 10 giờ tối; thế rồi nào những nốt ghi treo nơi cửa
phòng làm việc nhắc nhở, những quyết định, lý luận thúc đẩy đi ngủ trước 10 giờ
nhưng rồi có cũng như không. Có tối nào lên giường trước 11 giờ đâu mà thường
thì sớm cũng phải xuýt soát 12 giờ khuya. Nhất là những tối đi nhậu; gỏi cá,
tái vịt, tiết canh dê... chẳng lẽ người ta mời mình, đến ăn xong rồi xăm xăm
vội về như nhà có con dại. Hơn nữa, bản tính cha Lành lè phè, thích diễu nhất
là khi đàn đúm với nhóm thanh niên hồn hồn hoặc những ông già chịu chơi, thích
nói chuyện tầm phào với cha. Thôi thì khen cha dễ tính, chịu chơi, bình dân...
làm cha ưng ý và rồi ông một ly, cha một ly thi nhau uống trong khi vui câu
chuyện trời mưa trời nắng. Cứ thế, người mời càng đông, cha quen thói ngủ trễ
càng nhiều để rồi sáng nào mắt cũng cay xè, đồng hồ báo thức kêu gào mà chủ
nhân cứ ậm ừ ngủ nướng...
Nhìn hình mình trong gương nơi phòng
áo, ngài không thể chấp nhận được! Giáo dân sẽ nghĩ gì khi thấy cặp mắt cha còn
lờ đờ vì chưa tỉnh hẳn? Rồi nữa, bài Phúc Âm số bao nhiêu; sách lễ trang nào;
có kính thánh gì ngày hôm nay không; áo lễ mầu gì? Vội kéo ngăn khăn che bàn
thờ, 3 cặp đỏ, trắng, tím... "màu xanh," ngài thầm nghĩ trong khi đưa
tay dịch cánh cửa tủ lấy áo lễ. Thường ngày mặc dầu lễ 6g30 sáng, cha Lành đã
phải dậy lúc 5g00. Như một cái máy, đưa tay ấn nắp chiếc đồng hồ điện đang oang
oác phát ra những tiếng kêu chói tai. Đã bao nhiêu lần tự hứa với mình nhổm dậy
ngay khi đồng hồ reo nhưng hình như những gì cố gắng hứa lại càng khó thực
hiện. Bởi thế, thay vì tuân theo một cách khổ não ý định, ngài đã để đồng hồ
reo chạy nhanh 9 phút và đồng thời cho báo thức một giờ rưỡi trước giờ lễ.
Chiếc đồng hồ điện nhiều khi cũng đã
làm ngài cuống lên bởi dòng điện bị trắc trở ban đêm làm sai lệch bộ phận điện
tử, ngài đành mua thêm thứ lên dây thiều. Được chừng hơn năm, an tâm với thứ
đồng hồ xinh xắn du lịch này, mỗi khi báo thức kêu ầm lên một tràng dài như
chuông báo động khiến muốn ngủ nướng cũng khó. Nó lại sinh tật; có lẽ hơn một
năm làm việc quá đủ công sức cho số tiền mua nên muốn về hưu; để đứng không
thèm làm việc mà đặt nằm mới chịu. Có còn hơn không, nằm mà chạy, cha Lành
nghĩ, hãy còn tốt chán. Hơn tháng sau, phải đặt nghiêng nó mới tiếp tục phát ra
những tiếng tích tắc đều đều ru ngài vào giấc ngủ. Thế rồi nghiêng một bên suốt
hai tháng có lẽ cũng bị mỏi, nó lại ngưng để được nghiêng qua bên kia. Vừa chẵn
hai năm, dù cho đứng, nằm, nghiêng ngửa gì chăng nữa nó vẫn cứ chình ình bất
động khiến ngài đành lùng cho được chiếc đồng hồ báo thức chạy pin. Những 3
chiếc đồng hồ báo thức ngự trên bàn ngủ choán chật một góc. Chiếc về hưu chính
ra phải được vất đi, nhưng mà ai chả thế, những đồ vật mình đã xài dẫu cho
không dùng được nữa nếu đem vất đi cũng tiếc; giống như mớ quần áo cũ, không
muốn mặc, vất đi chẳng đang tâm; cho không ai lấy và cứ chất đầy tủ. Riêng
chiếc đồng hồ điện khi báo thức, cứ ấn chiếc nắp phía trên là ngưng để rồi 9
phút sau lại chịu khó nhắc nhở cha Lành lần nữa. Cũng chính vì đặc tính chịu
khó của nó như thế nên ngài có thêm tật ngủ nướng. Mà ngủ nướng tuyệt thật, căn
báo thức trước một tiếng rưỡi để có thời giờ ngủ nướng vì sau một hoặc hai, có
khi ba lần ngủ nướng, lúc dậy hình như con người cảm thấy tỉnh táo hơn; tỉnh
táo hơn bởi ngủ nướng ngon hơn, quí báu hơn...
Từ ngày tậu chiếc đồng hồ chạy pin,
không sáng nào cha Lành không giật mình. Nó không to chi, nhỏ xí à, chỉ to bằng
3 ngón tay và dầy gấp đôi; thế mà tiếng kêu của nó tàn bạo không thể tưởng; âm
thanh gì lạ kỳ, cứ xuyên qua màng nhĩ xoáy vào óc. Không cho nó báo thức e
chiếc đồng hồ điện gặp trục trặc; cho nó báo thức, mỗi lần nó kêu là cứ như
muốn văng ra khỏi giường. Tuy nhiên, lâu dần riết rồi cũng quen. Những ngày nào
đồng hồ điện không gặp trục trặc, cha Lành dậy trước khi đồng hồ pin báo thức,
thuận tay đập một cái cho thằng điện ngưng, và một cái cho thằng pin mất cơ hội
làm phiền để rồi an tâm ngủ nướng.
Có lẽ không có gì thú vị hơn ngủ
nướng mặc dầu đã ngủ thì đâu biết gì; mà ai chả thế, sáng nào hưởng đủ ba lần
ngủ nướng thì cha Lành cũng phải hối hả suốt diễn trình sinh hoạt buổi sớm:
uống cà phê, đánh răng, rửa mặt, tắm, mặc quần áo, đọc trước bài Phúc Âm một
lần cho trôi chảy và lật tự điển nếu gặp chữ nào khó đọc. 6g15 có mặt tại nhà
thờ đọc kinh nguyện trong khi giáo dân lần hạt để rồi đến ngắm thứ năm ngài vô
phòng bận áo cho kịp dâng Thánh Lễ ngay khi xong lần hạt. Lễ 6g30 phải chấm dứt
10 hay 7 phút trước 7 giờ.
Kỳ mới chịu chức, thường ngài chỉ
uống cà phê sau khi đánh răng rửa mặt. Uống cà phê là một nghệ thuật cần thời
giờ thưởng thức. Luật Giáo Hội giữ chay 1 giờ trước khi rước lễ; do đó thi hành
xong những chuyện cần buổi sáng đâu còn giờ uống cà phê cho đủ 1 giờ giữ chay.
Thế nên nhân một lần nào đó không hiểu nói chuyện với ai hoặc đọc từ bài viết
nào, cha Lành nghe người Pháp ăn sáng trước khi làm những chuyện vệ sinh căn
bản; ngài hoan hỉ áp dụng uống cà phê ngay sau khi dậy. Hơn nữa, ngài cũng nghe
đâu đó rằng khi vừa thức dậy buổi sáng, miệng con người độc vô cùng nếu ngay
lúc đó cắn vào cây nào thì cây đó cũng sẽ bị chết. Hơn nữa, chính chất độc nơi
miệng con người lại trị những bệnh thông thường. Buổi sáng chưa đánh răng súc
miệng mà uống nước thì những chất độc này làm người ta khỏe hơn, ít bệnh hơn.
Và thế là từ dạo đó, vừa mắt nhắm mắt mở bước xuống khỏi giường, cha Lành đã
vội khoác chiếc áo tắm, vừa đi vừa thắt dây lưng vô nhà bếp pha cà phê.
Cà phê không những giúp ngài tỉnh
buổi sáng mà còn là nước uống cả ngày. Nước ngọt uống không vô bởi chất đường
hóa học, lại nữa, không muốn bị thói quen tiêu tiền vì nước ngọt khi khát, thật
là vô cùng hoang phí! Nước lạnh thì có mùi thuốc lọc làm khó chịu cả ngày. Khi
nào uống quá nhiều cà phê, ngài muốn uống nước lạnh, phải lọc cọc đun sôi hoặc
may mắn có nước đã đun sôi còn thừa lại do cha xứ pha trà thì cả là điều hạnh
phúc vì đã hết mùi clor. Hơn nữa nhà xứ không có bình nước lọc thế là cha Lành
cứ cà phê tì tì uống. Trên bàn nơi phòng làm việc, có khi 7, 8 chiếc ly uống cà
phê ngổn ngang chiếm hết một góc; nhưng không uống cà phê, uống chi bây giờ?
Trà thì nóng và nhiều chất cafein gấp đôi cà phê, ai dại bỏ cái hại ít đế chuốc
lấy thói quen hại nhiều! chẳng lẽ bỏ cà phê để uống bia. Uống bia lại càng
không nên vì sẽ bị nghiện. Ngài sợ bị nghiện những thứ không nên nghiện. Mới có
cà phê và thuốc lá mà đôi khi đã phiền hà; nghiện rượu bia mới nguy hiểm, không
những tự làm hại chính mình mà còn ảnh hưởng đến giáo dân. Đã lỡ không nghiện
rượu, chẳng nên tập cho quen dầu ngài có thể uống được rượu bia. Đôi khi nghĩ
về mình xem có những tật không nên không phải nào, ngài cảm thấy tự mang mặc
cảm với chính mình vì không chịu bỏ hút thuốc. Dùng lý luận, đủ kiểu, đủ cách
để minh chứng hút thuốc là không nên nhưng hút vẫn hút. Lắm lúc nói chuyện với
người khác về tội tổ tông, ngài đem thói quen hút thuốc ra minh chứng rằng tội
tổ tông không phải chỉ là tội của ông Ađam và bà Evà theo nghĩa đen nơi Kinh
Thánh mà là tội mình không biết hoặc không cho là tội và đang sống trong nó,
với nó, không nghĩ đến sự ảnh hưởng của nó. Một gói thuốc hơn một đồng Mỹ kim
trong khi số tiền tương đương với gói thuốc có thể nuôi được một gia đình 5
người tại Việt Nam một ngày vương giả. Nghĩ như thế, mặt trái của những thói
quen nói lên lầm lỗi mà mình không để ý. Dĩ nhiên, mình hút thuốc tiền mình
nhưng nếu không hút thuốc, lấy số tiền đó giúp những người khốn khổ hơn thì lại
là điều tốt lành. Hút thuốc, mình bỏ cơ hội làm điều thiện giúp người nghèo
đói. Hơn nữa, hút thuốc thật ra không cần thiết! Dẫu rằng thuốc lào được người
xưa quan niệm là thứ Thảo Lam Sơn có tính chất trị sơn lam chướng khí nơi miền
rừng núi (không biết có đúng không). Người ở miền núi hút thuốc lào để chống
lại chất độc tự nhiên quanh vùng mình ở. Tuy nhiên, xét về mặt tu đức học,
những gì mình không cần thiết thuộc về người nghèo. Hút thuốc không cần thiết
cho cuộc sống do đó số tiền hút thuốc nên được dùng để cho người nghèo...
Nghĩ như thế, lý luận là thế mà hút
thuốc ngài vẫn cứ hút, chỉ được cái không đam mê hút nhiều, ngày không đến một
gói. Có vài người đề nghị ngài chừa hút thuốc viện cớ hại cho sức khỏe...
-Ông bà không hút thuốc phỏng có thể
sống mãi được không?
-Thưa cha ai mà không chết.
-Hút cũng chết mà không hút cũng
chết, đàng nào cũng không tránh thoát, thế thì hút có khác chi đâu!
-Nhưng thưa cha hút thuốc chết sớm
hơn.
-Nói lạ kỳ, cứ cầu nguyện mong sao
cho chóng được hưởng mặt Chúa mà lại muốn sống lâu; vậy sợ chết có phải là kiểu
nói dóc không? Như vậy người hút thuốc sẽ được hưởng mặt Chúa sớm hơn kẻ không
hút.
Lý luận diễu chơi để bảo vệ lý do
hút thuốc của mình chỉ cho qua; thực ra, cà phê và thuốc lá ảnh hưởng cha Lành
khá nhiều. Muốn viết lách gì, tay cầm bút, tay kia điếu thuốc, rồi cà phê hết
ly này đến ly kia. Không có cà phê thì bia nhưng không có thuốc lá lại không
được. Khói thuốc bay lên dường như có mãnh lực kéo tư tưởng ra khỏi bộ óc. Lý
do chính ngài không muốn bỏ hút thuốc có lẽ cũng vì một phần nào chất nicôtin
giúp ngài hứng khởi hơn khi viết. Tuy thế, đã nhiều khi ngài định bỏ thuốc. Dĩ
nhiên, định bỏ tức là vẫn còn hút và lý do ngài muốn chừa vì khói thuốc làm
phiền; thật lạ kỳ, hút thuốc nhưng không chịu được mùi khói thuốs. Những ngày
còn học thần học, thày Lành đã phải mua chiếc quạt bàn nhỏ xíu ráp vô trần
phòng mình để thổi khói thuốc ra ngoài. Chính vì không chịu được khói thuốc nên
phải ráp quạt, đôi khi lại là cớ cho các anh em khác sang ăn mì ké bởi hơi mì
không đọng lại nơi phòng ngài như các phòng khác không có quạt hút hơi. Lắm lúc
thày Lành nghĩ, vừa tốn mì vừa mất thời giờ tiếp khách cũng chỉ vì tật hút
thuốc.
Đàng khác, ngài cũng muốn có chút
giọng hát nên muốn chừa hút thuốc, viện cớ hút thuốc làm đứt quãng dây
"thiều" rung không đều do chất nicôtin bám vào. Lý do muốn cho giọng
hát hay hơn có thể là động lực thúc đẩy ngài tới quyết định chừa hút thuốc. Khi
tham gia với bạn bè trong những ngày cuối tuần, sau khi ăn uống, với tình quen
biết thân thiện không ngại bị phê bình, ngài chung vui hát với họ. Hết nhạc
tiền chiến rồi nhạc thời trang, chia phe hát đối hoặc đơn ca trình diễn. Gọi là
trình diễn cho oai chứ thực ra chia phiên mỗi người hát một bài vì đa số ai
cũng ngại hát. Hơn nữa, biết nhạc và có thể nói là mê nhạc nên ngài thích hát.
Bạn bè cho ngài biết ngài có một cá tính tự nhiên thật hấp dẫn và thu hút khán
giả. Mới đầu ngài không để ý bởi nghĩ rằng người ta nói cho qua hoặc đôi khi
phỉnh phờ diễu chơi. Nhưng sau nghe riết đến độ nghi ngờ, ngài hỏi một vài
người mới biết họ nói thật... Tuy nhiên, lý luận, ý thích, ý kiến... có đến đâu
thì ngài vẫn chưa và có thể không bao giờ bỏ hút thuốc bởi quan niệm ai cũng có
một tật xấu nào đó, có bỏ được cái này thì vương thêm cái khác; đàng nào cũng
là tật. Nếu hút thuốc là một tật xấu, bỏ nó, coi chừng vương tật khác xấu hơn.
Lắm lúc trong những khi lý luận diễu chơi ngài mượn quan niệm của Lâm Ngữ Đường
trong cuốn Một Quan Niệm Sống Đẹp (Nguyễn Hiến Lê dịch): - Người nào không biết
thưởng thức cuộc đời, có được lên thiên đàng cũng sẽ chán - để bào chữa cho tật
hút thuốc của mình.
Nhớ lại thời kỳ ông chẳng ra ông,
thằng chẳng ra thằng, thày mà. Sau năm 1975, sáng hôm ấy sau khi thày Lành giúp
cho rước lễ ghé vô nói chuyện với cha Đông Anh tại nhà xứ. Nhân ngài pha cà phê
uống nước sáng, ngài hỏi thày Lành có muốn uống cà phê với ngài không. Đang cơn
túng quẩn nên cà phê trở thành thứ xa xỉ dầu thèm muốn chết, thày Lành vui mừng
trả lời có! Đứng tựa nơi cửa nhìn chiếc lọc cà phê bằng điện kiểu Ý đang chảy
cà phê ra ly qua chiếc vòi cong vòng từ trên nắp lọc, thày Lành buông lời ngộ
nghĩnh:
-Kể ra thày Lành cũng may mắn gớm
chứ!
-Có chuyện gì mà may mắn?
-Thì được cha xứ pha cà phê cho
uống.
-Thật đấy, tôi chỉ pha cà phê cho
mình thày uống thôi, chứ dù cho đức giám mục có đến tôi cũng không pha.
Khi hai ly cà phê được bưng tới bàn
ăn, biết cha xứ không hút thuốc, thày Lành tiếp:
-Nếu cha không đồng ý con hút thuốc
thì con bưng cà phê về nhà uống.
-Tôi biết rồi, mỗi người một kiểu
thưởng thức "sự vật". Thày uống cà phê mà không hút thuốc thì thà
đừng uống; cứ tự nhiên!
Còn gì sảng khoái hơn khi mới thức
dậy, đang ngái ngủ có được một ly cà phê nóng và một hai điếu thuốc nhâm nhi
trước khi đánh răng rửa mặt. Hôm nào lỡ quên để đồng hồ báo thức, chất đắng cà
phê chưa có cơ hội du lịch thấm nhập qua các mạch máu, ngài phải cố gắng hết sức;
không cố gắng, nhìn chữ nọ nhảy qua chữ kia. Thế nên, ngài đôi khi tự diễu: có
những số tật không nên sửa vì nếu sửa nó sẽ rơi vào những cố tật tai hại hơn.
Dâng lễ trong lúc ngái ngủ không gì tệ hại bằng vì dâng lễ là dâng với tất cả
tâm hồn của mình. Lúc còn ngái ngủ thì dù cố gắng cách mấy ngài vẫn cảm thấy
như còn thiếu sót điều gì... Làm sao người ngái ngủ có thể dâng lễ với tất cả
tâm tình như người tỉnh.
Nghĩ lại những lúc ngái ngủ ngài nhớ
câu chuyện cô em gái đã kể sau khi mới chịu chức được mấy hôm:
-Mẹ bảo Chúa chọn thày lười...
Nào có gì đâu, kỳ còn nhỏ cần ngủ
nhiều lại ham chơi vào buổi tối, sáng ra khó dậy nhưng vì nhà gần thánh đường,
ngài bị đánh thức dậy đi lễ hằng ngày như cái máy. Lớn lên, khi còn đang ở
chủng viện, ngài mới biết lễ ngày thường không phải lễ buộc nên khi nghỉ hè,
ưng thì đi, không ưng ngài tiếp tục ngủ nên bị gọi thày lười. Thế mà bây giờ,
dù lười cũng phải dậy lúc 5 giờ sáng. Ngày nào dâng lễ sớm cũng phải thức giấc
lúc 5 giờ trong khi lên giường ngủ vào 12 hoặc 1 giờ đêm; thật đáng đời. Ghét
của nào trời trao của đó.
Đã thế mà cha Lành lại thích dâng lễ
sớm vì có nhiều giờ làm việc hơn. Hơn nữa, đến giờ lễ buộc lòng phải dậy nên
ngày dài hơn. Cũng đã nhiều lần mặc dầu dâng lễ 8g15 ngài để đồng hồ báo thức
lúc 5g sáng tự bảo mình dậy sớm làm thêm ít chuyện cần phải làm cho xong. Thế
nhưng, lúc vặn đồng hồ thì tốt lành, hăng say lắm mà khi đồng hồ báo thức cả là
một vấn đề. Giỏi lắm, chồm dậy vặn đồng hồ cho báo thức trễ lại một tiếng rưỡi
hoặc hai; còn bình thường tắt luôn để rồi lại hối hả cho kịp giờ lễ... Và chưa
bao giờ ngài thực hiện được ý muốn tốt lành này gần ba năm... Ôi! thần trí thì
sáng suốt nhưng thân xác lại mê đắm... ngủ. Những ngày dâng lễ sớm, cha Lành
cảm thấy niềm vui khó tả. Ngồi tại bàn viết được những hai tiếng từ 7g tới 9g
sáng, không bị ai làm phiền, muốn làm gì thì làm, viết gì thì viết... Điều thú
vị nhất, lúc đã tỉnh táo, ly cà phê và thuốc lá mới thực sự hấp dẫn cũng như có
thể làm tròn nhiệm vụ đã được chế biến của chúng.
-Cha Lành, điện thoại đường dây số
hai. - Bà thơ ký gọi cha từ phòng bên kia.
-Hello,
-Con muốn tới gặp cha bây giờ được
không?
-Được, vậy lúc nào thì bà tới?
-Con có đánh thức giấc ngủ của cha
không?
-Không đâu, bây giờ đã hơn 8g sáng;
tôi dâng lễ 6g30 mà. Chừng nào bà tới?
-Cỡ 15 phút nữa được không cha?
-Từ từ lái xe, tôi chờ.
Dĩ nhiên, cuộc đời có người nọ người
kia. Đa số giáo dân thật tốt lành ngoại trừ phần nhỏ đôi khi chỉ biết đến mình,
không chịu hiểu biết hoặc thông cảm cho người khác, ngay cả đối với các cha.
Người thì muốn cha lúc nào cũng phải ở nhà xứ để gọi là gặp ngay. Đồng thời lại
cũng có những người muốn cha ghé thăm mà chẳng bao giờ nói để rồi than phiền
nào là cha tới nhà người này, người kia mà không tới nhà mình. Có người còn bày
ra những câu nặng hơn... Nào có thèm mời, có thèm nói đâu, làm sao cha biết...
Ngay cả như vấn đề kiệu Mình Thánh cho người bịnh, chẳng biết bao nhiêu lần yêu
cầu nếu nhà có người tật nguyền hay bệnh lâu năm không đi lễ được thì gọi điện
thoại báo cho nhà xứ mà người ta có thèm gọi đâu; không gọi để kêu ca cho có vẻ
quan trọng, cho oai thôi. Các bà các cô ngày xưa lập gia đình chỉ phải làm dâu
một họ nhà chồng đã thấy lắm sự phiền hà, than như bọng. Nào mẹ chồng con dâu,
nào chị dâu em chồng... thôi thì muôn thứ chuyện xảy ra. Đàng này, các cha làm
dâu trăm họ, ngàn thứ người. Một mẹ chồng khó tính đã đủ chết; các cha có cả mớ
mẹ chồng chứ không phải một mà mẹ chồng nào thì cũng hay, cũng đúng vì đâu ai
chịu nhận phần không nên không phải về mình... Thế rồi cứ "Nếu tôi mà là
cha... tôi thế nọ, tôi thế kia..." Thật ra, có thế nọ, thế kia được thì đã
là cha cần gì phải nếu...
-Chào cha...
-Chào bà, mời bà ngồi. Bà có khỏe
không?
-Thưa cha, con cũng thường. Con tới
gặp có phiền cha không?
-Có chi mà phiền, đó là công việc
của linh mục mà.
-Cha dậy sớm vậy dâng lễ có mệt
không?
-Tối nào đi ngủ muộn thì sáng khó
dậy, nhưng cũng quen đi.
-Vậy thứ bẩy, chủ nhật lắm công việc
cha có mệt không?
-Có chi đâu! Chúa ban cho ai cũng có
24 giờ một ngày và mình có bao giờ làm việc 25 giờ đâu... Hơn nữa, người ta đi
làm sò, làm tôm ngày 8 tiếng mà họ không kêu mệt thì mình sao mà mệt.
-Nhưng cha làm việc đầu óc...
-Thì việc nào chả là việc. Mỗi người
Chúa ban cho các khả năng khác nhau nên công việc làm khác nhau. Thôi, vào
thẳng vấn đề, bà đến gặp tôi có chuyện gì vậy?
-Con muốn xưng tội, nhưng trước khi
xưng con có mấy việc thắc mắc.
-Chuyện gì vậy, khó hay dễ nói?
-Thưa cha, chẳng có gì khó nói cả,
chỉ là những chuyện thường.
-Thế vấn đề gì...
-Thưa cha con hay nóng giận, chửi
bới con cái và đôi khi bực mình với cả bố mẹ con. Con đã cố gắng chừa sửa nhưng
chứng nào vẫn tật nấy làm con khổ quá...
-Bố mẹ bà hay bố mẹ chồng?
-Bố mẹ con ấy chứ. Bố mẹ chồng con
đâu có đi được.
-Ông bà cụ năm nay Chúa ban cho thọ được
bao nhiêu tuổi?
-Ông thì cỡ 80, má con chừng bẩy
mấy.
-Ông bà cụ thọ đấy. Bao nhiêu người
muốn sống tới tuổi ấy mà đâu có được!
-Bởi thế con mới cảm thấy phiền chứ.
Lắm lúc con gắt um lên với bố mẹ con.
-Bà có biết lý do tại sao bà hay gắt
gỏng với ông bà cụ không?
-Tại con nóng tính.
-Đâu phải cứ nóng tính mà hay gắt
gỏng được. Nếu nói là tại nóng tính rồi cứ làm tưới đi thì sao bây giờ bà không
gắt gỏng chút nào?
-Thì khi có chuyện gì xảy ra làm con
bực mình con mới gắt chứ.
-Nghĩa là khi có chuyện gì xảy ra
không hợp ý bà thì bà mới nổi nóng lên.
-Vâng, ai đời nào mà trời nắng chang
chang, bố con cứ hì hục với mảnh vườn bằng bàn tay rồi mồ hôi cái mồ hôi con đổ
ra đụng phải gió máy rồi lại ốm. Con nói mãi cũng không thèm nghe làm con cứ
phát cáu lên thôi! Con cáu lên, bố mẹ con lại phiền lòng.
-Đâu phải ông cụ làm sai ý bà thì bà
gắt đâu. Bà sợ ông cụ ốm đau đấy chứ.
-Ơ! Cha nói đúng.
-Chẳng phải mình bà đâu. Tôi cũng
thế! Mấy cụ có tuổi rồi mà cứ làm như mình còn trẻ cỡ 30, 40. Thấy các cụ làm
mà mình phát rét lên; mình lo các cụ lỡ ra thì sao; mà nói thế nào thì cũng
"Tao còn đẻ ra mày."
-Con cứ tưởng con hỗn láo với bố mẹ
con.
-Cái đó không phải là hỗn láo mà là
quá lo cho bố mẹ. Đời nào bố tôi bẩy mươi mấy rồi, đi đứng làm sao mà vững như
những người còn trẻ. Do đó tôi đã phải đổ lối xi măng xuôi từ phần đất cao
xuống chỗ thấp hơn để khỏi phải bước bậc thang. Thế mà bố tôi đóng ngay mấy bậc
bằng gỗ khấp khểnh đi lên đi xuống cho tiện nơi mấy chỗ khác. Đất thịt gặp trời
mưa thì trơn té chết người! Mới chỉ trông thấy thôi đã muốn đứng tim mà nói thế
nào cũng không chịu phá bỏ. Đến khi má tôi té trật giò mới sợ phá đi... Chỉ có
Chúa mới hiểu được các cụ...
-Khổ quá cha ạ, con cáu lên thì bố
mẹ con tủi thân mà con thì sợ lắm; lỡ ra có bề nào, con chẳng biết ăn nói sao!
-Biết sao hơn bây giờ! Thôi thì đành
chấp nhận rồi phó thác thôi chứ. Nếu mình không thương bố mẹ mình thì đâu có
chuyện cáu kỉnh xảy ra. Mình có bao giờ gắt gỏng với mấy người già hàng xóm
đâu. Đành dâng các cụ trong tay Chúa, và những gì giúp được thì giúp; chẳng hạn
nếu cụ ốm, ráng lo nấu cháo cho cụ ăn, mua thuốc cho cụ uống. Còn những chuyện
vớ vẩn nguy hiểm khác không làm sao giúp được thì đành nhắm mắt để khỏi phải
nhìn thấy... Ngăn cản thì quí cụ đau lòng... không thể hiểu được!
-Sao cha nói nghe dễ vậy mà lâu nay
con cứ áy náy trong lòng...
-Còn vấn đề con cái, lúc nóng mà hò
la chúng, chửi bới bậy bạ thì lại tập tành cho chúng ăn nói giống mình... có lẽ
phải kiếm cách khác để dạy bảo chúng chứ la nhắng lên không được ơn ích gì mà
cái nhà thì lại um lên...
-Con biết cách nào hơn đâu cha!
-Từ từ... đàng nào thì bà là mẹ, bà
hiểu tính tình từng đứa một. Tùy theo cá tính mà chỉ bảo nó. Thế có bao giờ bà
để ý đến cá tính từng đứa con của bà chưa?
-Có chứ, nhưng con chưa bao giờ nghĩ
đến dạy bảo chúng tùy theo từng đứa, mà thường thì cứ nổi nóng là la toáng lên.
-Không có việc gì cao cả hơn là vấn
đề dạy dỗ con cái đâu. Dạy cho chúng nó nên người là bổn phận và cũng là thiên
chức Chúa ban cho các bậc cha mẹ. Mình thương con nên dạy con. Bà thấy không,
bà đâu có bao giờ nổi nóng với con nhà hàng xóm vì bà đâu cần biết đến chúng
nó. Tôi nghĩ, bà nên dành thời giờ suy nghĩ để kiếm cách dạy con cho hữu hiệu;
việc đó mới khó! Thế bà còn chuyện gì muốn nói nữa không?
-Thưa cha không, chỉ có thế.
-Vậy bà đã dọn mình xưng tội chưa?
-Thì có bấy nhiêu con đã nói hết
rồy.
-Tội lỗi chi ba cái chuyện vớ vẩn...
có lẽ cái tội to nhất là tội mình không biết...
Dân Chúa đơn sơ và thật tốt lành;
chỉ phiền một nỗi là những chuyện không ra gì đôi khi thiếu hiểu biết bị trở
thành tội và có khi làm khổ một đời để rồi lại sinh ra muôn sự rắc rối khác.
Điều đơn giản sinh ra rắc rối đầu tiên là cứ muốn người khác phải theo ý mình
chẳng cần biết như thế là hay hoặc dở cho họ mà đâu thèm để ý đến trên đời này
không ai thích giống ai, mỗi người lại có cái nhìn khác biệt. Đã thế thường thì
không chịu nói ra, cứ ấm ức trong lòng ngày này qua ngày khác, tới khi gặp cơ
hội là làm toáng lên, moi móc từ đời ông bành tổ trở xuống làm cho kẻ khác mang
ấn tượng là mình xấu xa không có được gì tốt lành. Hơn nữa, dạy con thì cứ lôi
những cái xấu của nó ra mà la mắng trong khi những điều tốt chẳng bao giờ khen
thưởng chúng. Chẳng lẽ đứa bé 11, 12 tuổi chưa bao giờ làm được điều gì hay cho
gia đình ư? Thế mà có nói được lời nào khen nó đâu... chỉ những bới tội! Còn
nữa, còn muôn thứ chuyện lăng nhăng của người nào đó vắng mặt cũng moi ra cho
đỡ "rỗi miệng" và rồi "đình đám người, mẹ con ta;" đôi khi
người trong nhà giận nhau cũng chỉ vì chuyện của kẻ khác. Đúng là sinh tội.
-Mời cha ngồi lên đây.
-Được rồi, tôi thích ngồi đây. Ngồi
chỗ này gắp được cả hai bên không sướng hơn ư!
-Nhưng cha phải ngồi lên đây, ngồi
đấy ai coi cho được.
-Không cần biết, tôi thích ngồi đây,
còn ai coi không được thì nhắm mắt lại, đâu có sao.
-Cha ngồi lên đây không người ta nói
con không biết phép tắc...
-Ai cười thì bảo người ta rằng ghế
tôi đang ngồi mới quan trọng. Thôi mà, hình thức làm chi... Nào chuẩn bị làm
dấu...
-...
-Cha ăn món này trước... để con gắp
cho cha...
-Không, đừng làm thế; ông để tôi ăn
theo ý thích.
-Nhưng món này ngon hơn...
-Thôi đừng ép nữa để tôi kể một câu
truyện... Truyện kể rằng có hai ông bà cụ người Mỹ cỡ bẩy mươi mấy tuổi. Ông
thương bà lắm, ngày nào cũng chịu khó dậy sớm pha cà phê, chiên trứng, xúc xích
rồi nướng bánh làm đồ ăn sáng cho cả hai người. Sáng hôm ấy, ông cụ cũng như
thường lệ, làm hết mọi sự thì bà cụ cũng vừa ra tới bàn ăn. Ông cụ mới lấy hai
miếng bánh mới nướng xong bỏ lên đĩa cho bà cụ. Bà cụ thoạt trông thấy hai miếng
bánh cất tiếng: Ông xem, tôi lấy ông 50 năm trời, lần nào ông cũng bắt tôi ăn
hai miếng bánh quỉ này. Ông cụ ngớ cả người, rưng rưng nước mắt đoạn nói: sao
bà không nói cho tôi biết từ 50 năm về trước. Tôi thích ăn đầu miếng bánh nướng
mà phải nhường cho bà...
-Cha kể chuyện gì chúng con đâu có
hiểu.
-Thì món ngon đối với ông chưa chắc
đã ngon đối với tôi chứ có chi đâu!
Chủ nhà cười ha hả ra chiều hiểu
biết:
-Nào mời cha, cha con mình cụng
ly...
-Cụng thì cụng nhưng ai muốn uống
nhiều ít tùy ý.
Uống được vài hơi rượu, chủ nhà cảm
thấy gần gũi với cha Lành hơn nên tỏ lời thân mật:
-Con thấy có nhiều cha khó quá... và
làm những chuyện độc đoán... chẳng hạn cha Thuyết...
-Ông say chưa? Cha khó hay ông chẳng
thèm mời rồi nói khó... Còn những chuyện về cha khác, các ngài không có mặt ở
đây nên không có cái miệng để trả lời; tôi nghĩ mình không nên nói tới. Nếu
muốn nói, muốn phê bình, nói ngay ông cha này. Ông ấy đang ngồi đây, có cái
miệng trả lời xem thế nào. Dám không? Nói sao cũng được nhưng phải hợp tình hợp
lý và dẫn chứng đàng hoàng, không được bày đặt hay phét lác...
-Đâu ai dám nói tới cha...
-Có phải vì cha đang ngồi đây không?
Chốc nữa cha về thì ai mà chả dám. Kể cũng lạ, chính phủ đánh thuế hết mọi thứ
mà không biết cách đánh thuế người nói khoác hay nói lung tung. Nếu bị đánh
thuế, tôi nghĩ thiên hạ chừa hết...
-Thưa cha, con xin phép được nói, -
Giọng một ông khác lè nhè, sứa rồi - Cha thì cũng nhiều cha, mà mỗi cha một lý
đoán chứ đâu phải cha nào cũng giống cha nào... Con xin nói thật lòng... chỉ có
sang đến bên này chúng con mới được ngồi ăn với cha chứ như ở Việt Nam, muôn
đời chúng con cũng chẳng bao giờ được ngồi gần cha... Ở bên này các cha không
được kính trọng, bị mất giá trị... Con thấy bên này người ta coi rẻ các cha
quá.
-Ông nói hết chưa?
-Thưa hết rồi đó cha...
-Có gì đâu mà coi rẻ và mất giá trị.
Có chăng thì đất lề quê thói thôi chứ đâu phải gặp cha cứ khúm núm mới là kính
trọng hoặc là để ông cha ngồi một mình một mâm buồn thỉu buồn thiu nuốt không
nổi là có giá trị. Thôi, chuyện mấy ông cha bỏ qua một bên, nào mình nâng ly...
Làm việc cho giáo xứ Mỹ nên thỉnh
thoảng được người Việt mời đi ăn là cả một cảnh thiên đường hạ giới. Buổi sáng,
cha Lành đã lười ăn; đến trưa, ăn đồ Mỹ cũng chỉ nuốt cho qua mặc dầu đã quen nhưng
khẩu vị đâu không thấy. Thịt và thịt... giỏi lắm vài miếng rau xà lách trộn cà
chua thái sống... khoai tây... cà rốt... thiếu hẳn mùi vị quê xương. Ăn thịt bò
mà cứ nấu chín tơi ra với khoai hoặc steak; thịt heo chỉ tẩm bột chiên lên; còn
gà thì mua chợ nấu sẵn đem về hấp lại với vài thứ đậu hộp... thì con tì con vị
cũng chán ngán ngủ tuốt luốt. Cứ thử tưởng tượng; thịt bò xái tái chấm nước mắm
gừng nổi mùi thơm phức pha lẫn mùi mè rang hay thính xay thì người có no cách
mấy cũng đưa được vài lon bia. Tôm hay cá đem thái gỏi kèm theo lá mơ và ít lá
thơm đủ thứ, mới ngửi thấy có phải đã tỉnh táo rồi không! Người Mỹ làm sao biết
thưởng thức những món ăn đơn giản như dấm mẻ ăn gỏi, hoặc thịt bò xào rau muống
đập vô củ tỏi làm kẻ đứng xa cả cây số cũng phải rệu nước miếng...
Bẩy ngày một tuần, bà bếp nấu năm
bữa trưa... còn tối lục tủ lạnh hoặc chạy ra McDonald hay tiệm khác. Mà nào có
rẻ gì, hèn cũng gần năm đồng. Thứ bảy và chủ nhật càng tệ; những món cũ còn lại
trông phát ớn... Chẳng trách chi người Mỹ họ mập, mập vì đồ lạnh chứa mỡ khó
tiêu... có lẽ vậy! Vấn đề ăn uống nơi nhà xứ Mỹ là thế nên thèm đi ăn rông muốn
chết mà có biết nơi nào có thể tới đâu. Một năm 365 buổi tối, 104 ngày cuối
tuần chứ đâu có ít gì! Thế mà không thiếu người nói cha khó mời! Có mời đâu mà
chả khó! Nhưng không sao, cơm mời, có "ăn được bát cháo thì cũng đã phải
chạy ba quãng đồng." Một lần đi ăn cơm mời thì ít nhất cũng tiêu mất hai
tiếng đồng hồ. Đến muộn người ta chờ, đến đúng giờ mình chờ người ta; rồi chẳng
lẽ tới nơi lo cắm cúi ăn và về? Nó kỳ làm sao ấy! Ngồi thêm chút nói dăm ba câu
chuyện... và rồi cũng có kẻ nói hay đi ăn nhậu lang thang. Lắm lúc cha Lành
nghĩ, thiên hạ cũng kỳ thật; người mời không nói; kẻ chẳng bao giờ cho ăn lại
bày ra rậm lời. Ôi! Đâu phải muốn nói ngoa làm cha mà nói nhưng ngược lại, muốn
nói ngoa làm con cha mà nói. Chẳng khác gì làm dâu muôn người; cuộc đời mình ai
cũng có quyền xía vô!
Nào đã hết đâu, cái đầu mình từ ngày
chui lọt lòng mẹ ra không được thẳng với cái thân người như cây tăm; người ta
nói mình nghênh nghênh ngạo đời. Cặp mắt lỡ Chúa bắt tội nhìn không được ngay;
họ nói nhìn đời rằng nửa con mắt! Nhìn cả còn chưa được phương chi nhìn nửa!
Hai chân chẳng may không đều - mà nào có ai hai chân đúng thước tấc bằng nhau -
họ nói dáng đi nghênh ngang, kênh kiệu... Làm dâu trăm họ thì chỉ có bới bèo ra
bọ bởi đâu có ai là người hoàn toàn vừa lòng được hết mọi người. Được lòng kẻ
nọ lại mất lòng người kia... Người thích cha mặc áo dài cho có vẻ thánh thiện;
kẻ ưa cha bận áo cộc. Người quan niệm cha phải mặc áo đen; kẻ khác lại muốn
nhìn màu trắng... Có lẽ chỉ còn cách mặc áo vá, tà ngắn tà dài mới gom đủ được
mọi ý thích; mà nếu thỏa mãn được ý mọi người kiểu này, ông cha trở thành dị kỳ
lại càng biến thành nguồn gốc cho muôn ngàn ý kiến mới. Đàng nào cũng có những
người không ưa - cha Lành đôi khi nghĩ - mà không ưa thì dưa có dòi... Thêm
nữa, một điều nhân gian khó thể hiểu là đa số những người tốt lành thì chẳng
thấy nói chi; chỉ những người lôi thôi, chẳng ra gì cái miệng lại cứ toang toác
như loa phóng thanh, làm như con cái loài người khôn ngoan hơn con cái Thiên
Chúa...
Tuy nhiên, nói cho cùng, thánh giá
nào chẳng khó mang; mà nếu dễ mang đã chẳng là thánh giá. Cuộc đời nào không
lắm chông gai trắc trở, và nếu không có chông gai, trắc trở thì anh hùng xào
kiệt đâu hơn chi người bình thường. Ngày xưa, Chúa xuống thế cũng đâu có thể
làm hài lòng được hết mọi người. Nếu Chúa có thể làm hài lòng được hết mọi
người thì đâu có chuyện khổ hình, và đã không có khổ hình sao có thể có phục sinh.
Thêm nữa, xét ra những gai nhọn "phê bình nhăng cuội" đâu đến nỗi
chua cay bằng cảnh Chúa trốn lánh thiên hạ vác đá ném. Người ta mới ném mình
bằng lời nói đâu ăn nhằm gì mà còn có thể giúp mình sửa đổi được những điều
không để ý bất lợi cho vai trò của mình trong cuộc sống. Người ta vác đá ném
Chúa thì chắc chắn rằng Chúa đã bị kêu ca, xỉ vả không sao kể xiết... Thánh giá
lời nói còn nhẹ chán, bước chân theo Thầy hãy còn thênh thang... Thử hỏi nếu
Chúa không dám sống với chính con người của Ngài mà chỉ ráng làm sao cho đẹp
lòng "nhân loại" đâu ai kết án Ngài. Lời đức giám mục dặn dò còn văng
vẳng bên tai ngày nào chịu chức: Con hãy tin những gì được dạy dỗ, giảng giải
những điều con tin và thực hành trong đời sống những điều con giảng giải. Mình
đề nghị người khác sống thực với tâm tình, với con người của họ trước mặt Chúa
mà mình không theo, không dám, có thể chỉ là giả dối. Tuy nhiên sống thực lại
bị ném đá! Lời Kinh Thánh khuyên đi con đường hẹp mà đường hẹp nào dễ đi! Đi
đường hẹp chắc chắn vướng chông gai. Những nhức nhối mục vụ đòi hỏi lòng một
tâm hồn chịu đựng biết xót thương. Những lời phê bình không đúng chỗ, nếu nhìn
theo khía cạnh khác, sẽ tạo thêm cho mình sự kiên trì trên bước đường sống thực
với niềm tin.
"Cái gì" của ngày xưa mơ
ước cho cuộc đời không rập khuôn buồn tẻ đang trải dài trước mặt. Công việc mục
vụ không kinh nghiệm nào giống kinh nghiệm nào bởi bá nhân tá tánh. Dân Chúa
chẳng ai giống ai, và ngay cả đối với một người, hôm nay đâu giống hôm qua.
Kinh nghiệm mục vụ giúp cha Lành nhận rõ hơn bàn tay Chúa đang trực tiếp dẫn
dắt dân Ngài, biến đổi dân theo ý Ngài muốn, và linh mục chỉ là người nối nhịp
cầu để chiêm ngưỡng. Có người, cả năm trước, mang đầy sự giận hờn vì bất bình
bởi vài chuyện nhỏ nhen; thế mà chỉ vài câu thăm hỏi, khuyến khích, tâm hồn cay
đắng đổi vị ngọt ngào để rồi bỏ giờ giấc, công sức giúp việc nhà thờ. Chúa dùng
con người để chữa lành những vết thương nơi dân Chúa, cha Lành thầm nghĩ. Mình
chỉ là kẻ giương mắt ra mà xem...
-Tôi không biết cách nào để kiếm được
người dẫn hát cho nhà thờ. Kêu gọi mấy lần sau Thánh Lễ nhưng chẳng thấy ai gọi
điện thoại...
-Con vẫn dẫn hát cách đây một năm
nhưng ông Thoa đánh đờn rối um lên làm con hát bể hoài nên thôi...
-Bây giờ ông Thoa đâu có đánh đờn
nữa... Thế ông có biết còn ai có thể đánh đờn nhà thờ được không?
-Có chị Ngọc mà chị ấy đâu có chịu
đánh...
-Đã ai nhờ chị ấy chưa?
-Đâu có ai nói gì với chị ấy. Hơn
nữa, cha xứ không bằng lòng cho ai đụng đến cái đờn phong cầm bao giờ, chỉ một
mình bà Thanh mà thôi.
-Vậy nếu tôi nhờ chị Ngọc đánh đờn
ông có bằng lòng giúp dẫn hát nhà thờ không?
-Để con về xếp lại chương trình đã,
son sẽ gọi cha sau...
-Tôi sẽ gọi ông ngày mai; số phone
của ông bao nhiêu?
- ...
-Ông có biết số phone của chị Ngọc
không?
-Chút nữa chị ấy đi lễ, con sẽ chỉ
chị ấy cho cha.
Ông ấy hát bể thật nhưng cũng không
đến nỗi tệ lắm; có điều hát theo đờn nên chẳng ai để ý. Hơn nữa, sau một thời
gian hát lại, ông ta có vẻ tiến bộ hơn... Chị Ngọc thì đờn không mấy giỏi giang
chi lại không dám đụng đến đờn bởi nghe nói cha xứ không muốn cho người nào
khác ngoài bà Thanh. Cha Lành thầm nghĩ, đâu ai chế đờn cho chỉ một người xử
dụng. Cũng như chiếc xe, ai lái không được. Nếu đến thời hạn nó hư, cho dẫu có
giữ gìn cách mấy cũng phải sửa...
Hai ngày đầu, cha Lành đánh đờn ầm
cả nhà thờ lúc rảnh. Cha xứ thấy cha phó đụng vào chiếc phong cầm nên chẳng dám
nói chi. Ngày thứ ba, có thêm chị Ngọc và rồi suốt hai tuần lễ, chị Ngọc dợt
lại ngón đờn cùng ông già chuẩn bị cho lễ chủ nhật... 6 tuần cha xứ đi nghỉ, bà
Thanh đánh đờn cũng nghỉ... Chị Ngọc cùng ông già kéo 5 lễ cuối tuần. Mặc dầu
ông già hát không hay nhưng được Chúa ban cho thích hát... thế nên nhờ hát mà
hăng say...
-Hình như dạo này ông hát hay hơn
lúc trước...
Ông già phổng mũi, chỉ sang chị Ngọc...
-Chị ấy đánh đờn con dễ hát... Thế
mà đôi khi vẫn còn lạc giọng!
-Có thấy ai nói gì đâu hay chỉ mình
ông nói. Ông thấy không, mọi người cũng muốn hát ca tụng Chúa. Họ chỉ cần người
xướng chứ đâu ai để ý mình hát bể hay không...
Theo đạo đâu phải chỉ là theo lấy lệ
cho giống những người khác, chỉ đi nhà thờ rồi sống tách biệt, ai lo phận nấy.
Hơn nữa, đến nhà thờ cùng nhau thờ phượng Chúa, đồng dâng Thánh Lễ thì nếu có
thể giúp được gì để nâng tâm hồn mọi người lên tới Chúa lại là điều cần thiết
nên làm. Công Đồng Vatican II nhóm họp cách đây gần 30 năm trước xem ra ảnh
hưởng đối với các nhóm tách rời từ Công Giáo không phải là nhỏ. Ngược lại, một
số người Công Giáo cho đến giờ vẫn còn chưa nhận ra ít nhất là giá trị mục vụ
lẫn phụng vụ của Công Đồng nổi tiếng được mọi giới ca tụng này. Thế nên cứ còn
những lời ca thán có thể nói ngây ngô; chẳng hạn Hội Thánh càng ngày càng rộng,
hoặc Giáo Hội thay đổi, hay lễ Latinh mới sốt sắng v.v... Đối với các cha thì
giáo dân muốn phải thế nọ, phải thế kia chứ như vầy không oai, không làm cho
người ta kính nể. Làm linh mục của thời hậu công đồng không còn tính cách
"cha oai hơn quan" của thời xưa; mà cha dám sống cởi mở thì đôi khi
cũng phiền.
Trong một bữa gỏi, cha Lành đang
kiếm mấy thứ lá thơm:
- Ban nãy tôi thấy có mớ ngò ôm mà
nó biến đâu mất rồi?
- Ngò đây cha.
- Không, đó là mùi.
- Ngò mà cha gọi là mùi.
- Tôi nói theo dân Hà Nội mà...
- Thì ăn ngò rồi ôm sau cũng là ngò
ôm...
Một chị hồn hồn, cứ mỗi lần cha Lành
nói là xía vô đấu... Ngài chỉ còn nước lặng thinh bởi nói lại chẳng được ơn ích
gì mà chỉ thêm phiền hà do cái miệng của chồng chị ta...
- Nhà thờ Mân Côi.
- Chào cha, cha khỏe không?
- Cảm ơn bà, tôi vẫn thường...
- Sao cha lại gọi con là bà, bộ con
đã già lắm sao?
- Ai đó, nghe tiếng hơi quen mà
không thể bói được là ai.
- Ối "giời" ơi! Cha có
thèm để ý gì đến con đâu.
- Để ý làm sao được, tôi đi tu mà.
Có chuyện chi thế?
- Thưa cha phải có chuyện mới gọi
được hay sao! Thăm hỏi có phải là chuyện không?
- A! chị Hiền, cảm ơn chị đã có lời
thăm hỏi. Tôi nói chỉ có thế mà sao chị bới ra cả dây vậy?
- Hình như dạo này cha khó tính ra,
khinh người nữa!
- Có chi đâu, tôi vẫn như thường;
còn khó ra hay khó vô đâu tôi có để ý. Vậy có chuyện gì mà chị nói tôi khó tính
và khinh người.
- Thì tối hôm thứ năm ăn ở nhà ông
Bình, sao cứ mỗi lần con nói là cha im tịt, không thèm nói năng chi hết.
- Không ngờ có người bực lên vì sự
im lặng của mình để rồi kết án là khinh người. Chị thông minh đấy nhưng thông
minh trật. Chị có để ý đến thái độ của anh ấy và nghe được những gì anh ấy nói
mấy ngày trước hôm thứ năm không?
- Sao cha, nhà con nói gì?
- Tôi hứa với người nói cho tôi hay
là sống để dạ chết đem đi nên không nói được, chị thông cảm. Chỉ biết rằng hơi
phiền hà đến tôi thôi. Vậy từ nay, chị làm ơn đừng đấu tôi nữa bởi tôi không
muốn anh ấy nghĩ lôi thôi, trật duộc...
- Vậy à, con chỉ nói giỡn thôi, đâu
có để ý. Được rồi, từ nay tha cho cha...
- Cảm ơn tấm lòng đại bác tha thứ
của chị. Thế chuyện khó tính và khinh người giải quyết xong chưa?
- Con hiểu lầm...
- Bây giờ ai tha cho ai?
- Thì cha tha cho con...
- Với điều kiện.
- Điều kiện gì vậy cha?
- Từ nay chị đừng đấu tôi nữa.
- Cha yên trí! Con tưởng nhà con
ghen với những người đàn ông khác thôi còn cha là người tu hành thì anh ấy phải
hiểu là con giỡn chơi mà!
- Anh ấy đã như thế, tôi không muốn
bị dây dưa vô chuyện quýt làm, cam chịu.
- Cha nói chuyện gì mà quýt làm cam
chịu?
- Thì chị diễu cho vui, tôi trở
thành cái bia cho anh ấy nhắm tới tấn công...
- Vâng, từ nay có lẽ con chỉ còn
nước trở thành câm là xong hết.
- Chứ chị không cần tha nữa à?
- Tha được đâu mà tha, câm rồi còn
biết nói sao đây!
- Chị đang đứng gần cái lồng chim
phải không?
- Đâu, nhà con làm gì có lồng chim.
- Thế con chim nào đang hót...
- Cha muốn đấu con đấy à? - Người
đàn bà cười vui vẻ. - Cha mà không đi tu, tán đào chắc ăn khách lắm đó, khối kẻ
chết mê chết mệt vì cái miệng...
- Chưa tán đã phiền còn nói gì đến
tán...
- Thôi con bắt đầu câm nghen...
- Chị cần băng keo không.
- Băng keo làm gì cha?
- Để không cho con chim hót nữa.
- Con sẽ ngậm tăm, dễ hơn. Dán băng
keo không ăn được. Cảm ơn ý tốt lành khó thực hiện của cha. Con chào cha.
- Chào chị.
Đôi khi những chuyện nhỏ nhặt coi bộ
không ra gì mà linh mục phải để ý. Người ta thích được nghe lời nói cảm ơn từ
miệng ông cha mà vô tình quên mất cũng là đầu mối cho sự chán nản giúp việc nhà
thờ hoặc tâm tư phiền hà...
- Cảm ơn ông nhiều, có ông chuẩn bị
đồ lễ, tôi không phải lo lắng gì.
- Không có chi thưa cha. Con làm
việc cho Chúa mà cha cảm ơn làm chi!
- Dĩ nhiên, ông cũng như những người
khác, giúp việc nhà thờ là giúp việc thờ phượng vinh danh Chúa và giúp cho dân
của Ngài. Tuy nhiên, nếu không có ông những buổi sáng sớm như thế này, tôi sẽ
gặp nhiều rắc rối, lập cập. Nào mới mắt nhắm mắt mở dậy đã phải vội ra mở cửa
nhà thờ, lại phải trở về nhà xứ làm những chuyện cá nhân... rồi sau đó ra lại
nhà thờ sắp chén lễ, lật sách, thay khăn bàn thờ v.v... Thấy không, có ông tôi
có tất cả. Cảm ơn ông là đúng quá rồi...
- Cha quá khen...
- Không biết lý do gì mà ông Thuận
lâu nay không thấy đâu?
- Con nghe hình như ông ấy có chuyện
bất bình...
- Với ai và về vụ gì?
- Ông ấy nói cha xứ coi ông ta như
một đứa trẻ con...
- Chuyện gì vậy?
- Nghe đâu hôm ông ấy dẫn hát, ông
Hoành dẫn lễ nói sai số trang sách hát. Ông Thuận nói lại, và sau lễ cha xứ nói
với ông chuyện gì đó làm ông ấy giận.
- Để tôi gặp ông ấy xem sao. Tôi
nghĩ chắc có chuyện gì hiểu lầm.
- Hôm ăn tại nhà ông Dương, ông
Thuận nói cha xứ đã chẳng có được lời cảm ơn mà lại còn trách ông ấy về chuyện
nhỏ nhoi mà đâu phải là lỗi tại ông ta.
- Chắc chẳng có chuyện gì lớn lao
đâu bởi cha xứ ngài rất dễ thương, nhưng lối nói của ngài đôi khi làm người
khác hiểu lầm đó thôi. Tôi sẽ giải thích cho ông ta hiểu. Nếu cần, tôi nói cha
xứ gọi điện thoại cho ông ta. Thôi chào ông... À, chừng nào ông đi thăm bà cụ
gọi tôi đi với; tôi không nhớ đường.
- Mai con sẽ đi thăm má con; cỡ 10
giờ con sẽ gọi cha.
-Nếu ông đi 10g, gọi nhắc tôi lúc
9g45 để tôi khỏi quên. Gặp ông ngày mai; chào ông.
- Xin chào cha...
Càng ở vị thế cao, người ta lại càng
đòi hỏi mình phải trở thành toàn hảo hơn. Mà toàn hảo theo quan niệm riêng của
họ nghĩa là không được dùng những lối nói bình thường giống họ mà luôn luôn
phải nhẹ nhàng, biết tỏ ra lắng nghe. Họ nói mình nghe thì không sao nhưng mình
nói đôi khi bị cho là ra lệnh hoặc độc tài; không nói thì nhu nhược v.v... Đàng
nào thì cũng như cái lưỡi giữa hai hàm răng muôn đời đối diện với điều trái
ngược.
Công việc mục vụ lắm khi dồn linh
mục vào những cảnh cười ra nước mắt dù muốn tránh thoát cũng không được. Bạn bè
thân quen, càng có dịp gặp gỡ tâm sự, càng thân thiết và hiểu nhau hơn. Tương
tự như thế, khi người ta có chuyện phiền hà rắc rối khó nói cần người thông cảm
để chia vơi đi những gánh nặng tâm tư, người ta thường tới gặp linh mục. Họ
biết rằng những gì nói với linh mục sẽ không bao giờ bị lộ ra ngoài vì linh mục
được học hành, đào tạo để chia xẻ, thông cảm những gánh nặng khó mang nơi tâm
hồn con chiên bổn đạo. Đối với đàn ông, có lẽ bởi không để ý đến những tiểu
tiết nhỏ nhoi, câu chuyện dễ được giải quyết dứt khoát. Riêng về phía các bà,
lắm chuyện tình "như mơ" dễ dàng được ươm đầy đôi khi gây cho linh
mục nhiều cảnh khó ăn khó nói. Cầu nguyện thì cứ muốn Chúa làm phép lạ ngay tức
khắc do đó những lúc mang tâm tình đau khổ lại thấy Chúa chẳng thèm nghe. Thế
nên, nói chuyện với cha được thông cảm, an ủi dễ sinh lòng quí yêu, cảm mến.
Nào ai có chịu hiểu cho rằng cuộc đời này mỗi người đều mang nỗi khổ riêng mà
chỉ nghĩ mình là người mang nhiều chuyện đau khổ nhất. Thế nên, được nghe từ
miệng cha những lời thông cảm, người ta dễ có cảm nghĩ mình được đặc biệt để ý
và từ đó phát sinh lòng yêu thương "thánh thiện." Đến Chúa cũng biết
ghen tương, không chấp nhận cho dân Ngài tôn thờ bất cứ thần thánh nào khác thì
các bà, các chị với "lòng yêu thương thánh thiện" ghen "với
cha," coi cha như của riêng là chuyện bình thường. Chuyện bất thường mới
sinh nhiều rắc rối. Dĩ nhiên, đối với cha thì ai chẳng như ai; trong vị thế linh
mục, thái độ của ngài với mọi người cần được đối xử một cách đồng đều. Như vậy,
dưới con mắt "đặc biệt quí mến" thì cha đã bị âm thầm lên án vì đã
không coi mình đặc biệt hơn những người khác...
- Nhà xứ Mân Côi.
- Cha ngủ chưa?
Vừa chợp mắt thì chuông điện thoại
đánh thức, Cha Lành vung tay chộp ống nghe, giọng nhừa nhựa. Những lúc đang ngủ
tiếng reo điện thoại thật khó chịu; nó chát chúa như những nhát vồ đập mạnh vào
màng tang... Chẳng lẽ người bên kia đầu giây nặng tai đến nỗi không phân biệt
được giọng nói bình thường với giọng ngái ngủ?... Chiếc đồng hồ điện hiện rõ 4
con số màu xanh 12:36 nổi bật trong bóng tối. Mới ngủ được 15 phút khiến cha
Lành bực mình vì câu hỏi. Nếu là trường hợp khẩn cấp thì không nói chi, đàng
này lại còn đưa ra câu hỏi ngang như cua...
- Có chuyện gì thế?
- Cha đã ngủ rồi à! Con tưởng cha
chưa ngủ; nếu vậy... thôi, xin lỗi cha.
- Có chuyện gì thì nói đi chứ; ngủ
mà trả lời điện thoại được sao?
- Thôi, con không muốn làm phiền cha
nữa.
- Lạ đời, không muốn thì đã làm phiền
rồi còn nói gì nữa!
- Cha có muốn nói chuyện với con
đâu! Bây giờ cha có thiếu gì người khác nên chưa chi đã nhăn nhó với con...
- Chị gọi tôi để dạy bảo phải ăn nói
đàng hoàng hơn đó phải không?
- Con đâu dám dạy bảo cha. Cha muốn
bông đùa, cười cợt với ai con đâu có quyền.
- Chị nói cái chi? Cái gì mà bông
đùa, cười cợt?
- Thì tối hôm thứ bẩy cha không bông
đùa là gì!
- Chị lấy quyền gì mà đòi lên án tôi
bông đùa!
- Nhưng cha giỡn như thế làm mất tư
cách linh mục.
- Chuyện gì mà lại dính thêm tư cách
linh mục; tôi có hiểu chị đang nói chuyện chi đâu!
- Cha không nhớ là cha đã nói gì à?
- Nói gì? Có chi đụng chạm đến chị
mà vòng vo tam quốc vậy?
- Con đâu có nói cha đụng chạm đến
con, nhưng cha không nên nói thế.
- Nói thế nghĩa là nói làm sao? Vậy
chứ tôi đã nói gì chị nói lại coi!
- Cha nói làm người ta thích thú
cười như nắc nẻ, tít cả mắt lại mà cha không để ý à!
- Để ý chuyện gì? Sao chị cứ càng
lúc càng đưa ra lắm thứ hỏa mù vậy?
- Con hỏi cha có để ý chị Thanh
Giao, tên đẹp như người vậy.
Mãi đến lúc này cha Lành mới biết
chị ta ghen vì tối hôm thứ bẩy vừa qua trong lúc ăn tại nhà ông sáu Thông cha
Lành thêm mắm thêm muối vào vài câu chuyện làm mọi người cười như pháo rang...
Ngài thầm nghĩ, chắc chồng chị ta qua mười mấy năm chung sống đã bị đay nghiến
bởi những chuyện vô tình kinh khủng lắm! Phục các ông quá chừng; có phong cho
các ông làm thánh sống thì cũng không ngoa chút nào... Chúa ơi! Vừa bắt đầu ngủ
mà bị dựng dậy phân giải mối ghen tương của tình "như mơ"... Cõi nhân
gian lắm chuyện không thể hiểu...
Có lẽ hơn 11 giờ khuya, khung cảnh
vắng lặng nơi nhà thờ như khuyến khích ngài trầm tư suy nghĩ tìm kiếm thái độ
phải thế nào đối với phái nữ để tránh bị coi như của riêng đối với một số
người. Không tỏ ra nhã nhặn thì bị phê bình là khinh người, coi rẻ hoặc khinh
con chiên bổn đạo. Khó tính, sống theo một mẫu mực cố định lại là điều trái
ngược với công việc mục vụ. Tỏ ra dễ dãi, thông cảm, năng thăm hỏi thì bị hiểu
lầm là mình để ý cách đặc biệt. Mình đâu có được chọn làm linh mục để trở thành
của riêng một người mà là của cả dân
0 nhận xét :
Đăng nhận xét