News
Loading...

LINH MỤC, LÀ AI?

LINH MỤC, NGƯỜI LÀ AI?


1

- Cha đã gọi điện thoại cho đức giám mục chưa? Ngài nói vô máy trả lời điện thoại.

Cha xứ tái mặt khi cha phó Lành hỏi.

- Cha nghe rõ tiếng đức giám mục hay lại cha nào giỡn nói thế?

- Tiếng ngài rõ ràng; cha nghe thử máy trả lời điện thoại xem sao!

Cha xứ đi theo cha phó ra phòng khách; cha Lành ấn nút, sau vài tiếng bíp bíp, giọng đức giám mục trầm trầm rõ ràng vang lên: "Tôi là giám mục địa phận, muốn nói chuyện với cha xứ."


Vài tiếng nói đơn giản được ghi trong máy đã làm thái độ cha xứ khác thường, hơi luống cuống hơn mọi khi; tay ngài đã hơi run giờ run trông thấy. Ra nhà bếp đun nước để pha trà, cha xứ vẫn cứ thắc mắc không biết đức giám mục gọi về chuyện gì!

- Đức giám mục gọi lúc nào?

- Có lẽ sau 4 giờ chiều vì tôi để máy lúc 4 giờ 5 phút trước khi đi thăm mấy gia đình có con không đi học giáo lý. Có thể đức giám mục gọi thông báo đổi cha đi xứ khác không?

- Tôi không nghĩ thế!

Cha Lành hiểu cha xứ quen những cha trong hội đồng địa phận nên ngài thường biết rất sớm những sự thay đổi nhiệm sở của các linh mục. Nếu ngài bị đổi chắc chắn sẽ đã biết trước khi đức giám mục gọi, nhưng biết đâu!

Chiếc đồng hồ nhà bếp chỉ gần 5g30 chiều mặc dầu trời còn sáng vào đầu tháng tư. Cha xứ dẫu nghĩ rằng đức giám mục không còn làm việc tại tòa nhưng vì nôn nóng vẫn lập cập bốc điện thoại ngay bên gọi thử miệng lẩm bẩm:

- Tôi không nghĩ ngài còn làm việc...

- Hôm nay thứ năm, ngày nghỉ của cha, đức giám mục gọi không gặp là chuyện dĩ nhiên...

Vài hồi chuông điện thoại reo bên kia đầu giây nhưng không ai nhắc, cha xứ đành cúp máy, pha ly trà nóng...

Đức giám mục gọi cho linh mục cả là một sự bất thường, phải là chuyện tối ư quan trọng. Những chuyện thường thì đã có cha chính địa phận hoặc cha quản hạt thông báo trong trường hợp thư từ không kịp. Hơn nữa, lề lối làm việc cần phải có giấy tờ hoặc thư từ chứng minh để tiện việc sổ sách sau này và, dĩ nhiên, ai cũng hay quên do đó càng cần giấy tờ hay thư từ thông báo vì gọi điện thoại trong hệ thống hành chánh không được coi là chính thức ngoài sự cần kíp, tối quan trọng. Gần ba năm chịu chức, chưa bao giờ cha Lành thấy đức giám mục gọi cho mình hay cha xứ. Năm đầu tiên, cha hay ghé qua thăm hỏi đức giám mục; nhưng sau thấy ngài khá bận, thỉnh thoảng cha Lành mới gọi điện thoại tới tòa giám mục bởi mấy lần ghé qua bất thường ngài bận chuyện khác không làm việc tại văn phòng. Cha Lành muốn ghé thăm đức giám mục thường xuyên vì theo kinh nghiệm lãnh đạo cho biết, một người càng ở chức vụ cao bao nhiêu càng cảm thấy cô đơn bấy nhiêu vì có những vấn đề khó có thể chia xẻ được với bất cứ ai và cũng khó cho bất cứ ai có thể thông cảm được. Trong vấn đề điều hành, người lãnh đạo có cái nhìn bao quát hơn những người dưới tay phụ giúp. Xét theo cách điều hành công việc và sự tính toán, vị thế người lãnh đạo trong một môi trường có thể so sánh với người đầu bếp khi nấu một món ăn biết rõ mình không thể nào chiều lòng hết mọi người vì có người thích ăn mặn hơn bình thường một chút, người khác ít tiêu hơn, hoặc không thích mùi hành; người muốn thêm dầu, mỡ, kẻ lại không ăn được chất béo. Dù chỉ một món ăn đơn giản cũng đã không thể nào làm vừa lòng hết mọi người thì một người lãnh đạo càng hay gặp những chuyện khó khăn trong cách đối xử; hoặc những thành phần nhỏ trong tổ chức đôi khi lại cứ như các khách ăn khác biệt khẩu vị thưởng thức chung một món; kẻ kêu thế này; người kêu thế kia mà người lãnh đạo bởi có cái nhìn bao quát phải chấp nhận thành phần nào cần được gia giảm cho hòa hợp và kiện toàn dự án nên thường không thể nào làm hài lòng một vài thành phần nhỏ nào đó. Vì thế, điều ong tiếng ve hoặc những lời bất mãn vô tình sinh ra khiến người lãnh đạo cảm thấy phiền lòng. Cho dù một chương trình có thành công đến cách mấy, người lãnh đạo bao giờ cũng vẫn cảm thấy còn nhiều vấn đề vẫn chưa khai thác đúng mức. Nỗi cô đơn không thể nói cùng ai và không ai có thể chia xẻ nơi tâm tư nhà lãnh đạo càng ngày càng chồng chất... Ghé thăm đức giám mục, tỏ lòng thông cảm, hiểu biết gánh nặng ngài đang mang cũng một phần nào giúp tâm tư ngài thoải mái hơn, cha Lành nghĩ thế. Hơn nữa, linh mục lo việc mục vụ cho giáo dân nhưng thường lại rất ít khi nghĩ đến mục vụ cho chính mình, các linh mục bạn bè và đức giám mục...

Bao công việc chồng chất, giờ nào để đức giám mục gọi điện thoại hỏi thăm đơn sơ; thế mà ngài muốn nói chuyện với cha xứ! Hơn nữa, nếu chỉ thăm hỏi đơn sơ, không gặp lúc gọi thì bỏ qua, đàng này ngài nói vô máy trả lời điện thoại... phải có chuyện gì quan trọng...

Khoảng 8g30, cha Lành, sau khi đi ăn tối trở về, ghé vô phòng khách nơi cha xứ thường xuyên coi ti vi. Ngài mê football, thích xem thể thao hoặc những chương trình diễu, vui cười, nhưng lại không coi phim truyện. Mỗi khi gặp phim truyện trình chiếu trên ti vi bởi không thể kiếm được đài nào có thể thao hoặc diễu, ngài lẹ làng rơi vào giấc ngủ khiến cho cơ thể đồ sộ lại càng có dịp phát triển đồ sộ hơn...

Rất ít khi cha Lành coi ti vi ngoại trừ những khi có chuyện xao động quốc tế lớn lao hoặc những mối đe dọa thiên nhiên. Do đó cha xứ vừa thấy cha Lành bước vô phòng khách, ngài đã cầm "remote control" điều chỉnh âm thanh ti vi nhỏ lại, quay sang nói:

- Chiều nay, đức giám mục dùng cơm với quí cha sau khi khánh thành hội trường tại nhà thờ Đức Mẹ Fatima; ngài nói về vụ con ông Ảnh gọi điện thoại nói ông ta ốm đã lâu mới dời về bịnh viện gần đây sau một tuần và đang ở nhà mà không có một linh mục nào tới thăm và kiệu Mình Thánh cho ông ta. Cũng may, cha tuyên úy bịnh viện đang dùng cơm với ngài trả lời chính cha đã xức dầu, trao Mình Thánh hằng ngày cho ông ta tại bịnh viện. Gia đình ông ta có ai gọi điện thoại báo cho cha biết gì không?

- Không ai gọi. Chỉ có chiều nay, cha Tuyên, bạn già của ông Ảnh ghé qua khi tôi đang ký giấy thực phẩm và xăng cho cặp vợ chồng lỡ độ đường, ngài nhờ tôi kiệu Mình Thánh cho ông Ảnh đang ở nhà và tôi đã đi ngay, đồng thời xức dầu cho ông ta nữa; tôi cũng đã ghi tên ông vào danh sách kiệu Mình Thánh hằng tuần của tôi... Không thể hiểu được họ muốn gì khi không thèm thông báo cho mình biết chi hết. Vậy nếu đức giám mục hỏi cha về chuyện ấy, cha sẽ nói sao?

Hỏi như thế vì cha Lành thấy thương hại cho cha xứ; ngài rất sợ những sai lầm nho nhỏ vô tình xảy ra, không đúng theo như thường lệ, và chính sự e sợ này đã làm ngài mất bình tĩnh. Có lẽ đó cũng là kết quả của lối huấn luyện ngày xưa; một thày phải được dạy dỗ trong một khuôn mẫu nhất định, từ cách đi đứng, ăn nói hoặc vâng lời tuyệt đối...

-Ngày mai tôi sẽ gọi đức giám mục; nếu ngài nói giống như ở nhà thờ Đức Mẹ Fatima, tôi sẽ trả lời là người của gia đình đó nói không thật vì họ đã không thông báo cho nhà xứ biết. Hơn nữa cha tuyên úy đã lo phần thiêng liêng cho ông ta tại nhà thương và chính cha đã kiệu Mình Thánh cho ông ta...

Sáng thứ sáu tiếp theo, cha Lành đang chuẩn bị kiệu Mình Thánh cho những người bệnh và già yếu tại tư gia, cha xứ hỏi:

- Cha có tên của ông Ảnh trong danh sách kiệu Mình Thánh chưa?

- Có, tôi đang chuẩn bị mang Mình Thánh cho họ.

- Vợ ông ta nói rằng cha không cho bà ta rước lễ kỳ trước.

- Phiền quá, nào bà ta có nói gì với tôi đâu; bà ta dự lễ chủ nhật mà!

- Thôi thì mang thêm Mình Thánh cho bà ta...


Nghĩ cũng rầu, Mình Thánh là của ăn đàng cho người bệnh chứ đâu phải cho người khỏe. Chủ nhật trước bà còn đi lễ thì sao lại đòi rước lễ tại nhà. Hơn nữa bà ta đã không nói gì hết, ai có thể đoán được bà ta muốn gì. Những phiền hà xảy ra bởi sự khác biệt lối nói hay quan niệm, tập quán đến với cha Lành khá nhiều nhất là do thực tế đối chiếu với thần học Công Giáo. Được huấn luyện chuẩn bị làm việc cho giáo dân trong tương lai với những quan niệm thần học hiện đại cộng thêm sự học hỏi tâm lý phụ họa cho những công việc mục vụ làm ngài ngỡ ngàng khi đối diện với thực tại dân Chúa. Công Đồng Vatican II đã gần 30 năm qua, sự thay đổi mới chỉ thực sự được nhìn thấy nơi Thánh Lễ, nhưng sự hiểu biết của giáo dân về ý nghĩa và sức sống thần linh nơi Thánh Lễ tuyên xưng thì thật vẫn mù mờ trong khi hãy còn những người bị ảnh hưởng quá sâu đậm bởi lối giáo dục cứng ngắc ngày xưa đã không thể chấp nhận ngay cả kiểu cách dâng lễ để rồi cứ "Lễ La Tinh" mới trang trọng. Trang trọng vì gì? Có phải vì mình không hiểu những lời La Tinh nói gì nên trang trọng? "Mình được huấn luyện làm linh mục cho dân Chúa thời hiện đại trong khi lại làm việc với giáo dân thời tiền Vatican II" Cha Lành đôi khi thầm nghĩ. Thế nên tâm tình chấp nhận đành được sinh ra bởi ngài thấy dù có muốn thay đổi họ cũng chưa thể đổi được hoặc chính họ không muốn đổi; vô tri bất mộ mà. Chuẩn bị kiệu Mình Thánh cho người bệnh trong khi ngài thầm nghĩ: "Thôi thì đem thêm Mình Thánh cho bà ta tránh khỏi những lời nói phiền hà..."

Con đường Fountain Ave., được gọi là avenue nhưng chỉ là lối nhỏ tráng nhựa, nằm dọc giữa hai dãy nhà bao bọc bởi những hàng rào thép lưới cao ngang thắt lưng. Đầu đường, cột điện đứng sát một bên và bên kia bụi cây lòa xòa chắn lối khiến cho xe muốn quẹo vô phải lấn gần hết nửa bên kia. Chẳng may nếu có một xe khác đi ra, xe quẹo vô phải nhường dầu quyền ưu tiên thuộc phần mình. Đầu đường phía kia bảng tên đã mất tự bao giờ khiến lần trước kiệu Mình Thánh cho người khác cha Lành kiếm mãi không ra dù đã mấy lần đi ngang. Số nhà lại thay đổi lung tung, nơi số cũ, nơi số mới; cái thì tán trên hộp thư ngoài lề đường, cái bên trên cửa nhỏ xí như sợ người khác dòm thấy. Nhà ông Ảnh thì lại không có số, chỉ có bảng nhỏ nâu đen khắc tên dòng họ Nguyễn. Hình như bảng số nhà đã quá cũ, chán cảnh chường mặt cho thiên hạ dòm nên đã về hưu.

Từ từ đậu xe ép sát bên kia hàng rào, cha Lành cảm thấy hơi chán nản; sự chán nản khiến chân ngài nặng nề không muốn bước ra khỏi xe. Kiệu Mình Thánh đến cho họ, đã không một lời cảm ơn lại còn kiếm cách hoạch họe vô lối. Lần trước kiệu Mình Thánh đến, ông bà ta khoe nhà có 7 đứa con, đứa nào cũng học hành giỏi giang, làm ăn giầu có. Đứa thì chủ tiệm này, đứa làm đại diện hãng kia. Cha Lành tự hỏi có phải vì con cái ông bà ta giầu có nên họ nghĩ mọi người khác phải phục dịch hoặc bợ đỡ, tìm kiếm ý muốn của họ để làm theo. Nhìn đến cổng rào khép kín, cánh cửa lưới nằm sát bậc thềm, và những giọt nước từ mái nhà thi nhau nhỏ xuống đang khi trời lất phất mưa, cha Lành thở dài. Có gọi được người ra mở cửa thì cũng đã bị ướt; mà người ta có nghĩ đến điều đó đâu; người ta ở trong nhà. Căn nhà tuy cùng đứng theo dãy với các nhà khác nhưng đầy vẻ cô lập, cô lập bởi hàng hiên bọc lưới không để thừa chút mái tránh mưa lúc cần kíp. Thôi thì đàng nào mình cũng đã mang Mình Thánh tới, dù có muốn hay không cũng phải vô! Cha tự nghĩ, hãy bỏ tâm tư nặng nề lại nơi xe, ráng bọc lấy bộ mặt vui tươi tha thiết tránh những xoi mói của người khác để tiếp đãi họ. Ta đi thôi!

Cha Lành với ra sau lấy chiếc dù đen què quặt. Nó què quặt nên đã bị người nào đó cố tình bỏ quên nơi nhà thờ bởi gẫy hai sống căng vải. Chiếc dù tự động bằng nhôm thứ rẻ tiền nên sống dù mềm yếu gặp gió hơi lớn cầm không để ý là bị thổi bật ngược. Đã mấy lần kiếm dù mua mà chưa kiếm ra; chợ Sears thì xa đi mất giờ, Kmart bán đồ rẻ thì sao có thứ tốt nên cứ đành nhờ vả chiếc dù què quặt này. Tuy nhiên, có nó vẫn còn hơn không. Thân dù vừa cỡ nhưng so với chiếc xe lại hơi dài, cầm lên không để ý là đụng. Mới chịu chức được hơn hai năm, dành dụm, bóp chắt từng đồng mới đủ tiền mua được chiếc xe mới. Hơn hai năm tiền lương đâu phải nhỏ nhặt chi! Hơn nữa, tâm lý chung của những người có xe mới, hơi chút đụng chạm cũng thấy đau xót. Tránh được chiếc dù đụng chạm phía trong, cánh dù què quặt lại đụng vào chiếc mui xe bên ngoài. "Oops" cha Lành lẩm bẩm "Sao mày cứ thích đụng đến cái xe mới làm chi thế!" và từ từ bước ngang qua đường mở cổng sắt, bấm chuông đứng đợi người trong nhà mở cửa...

- Chào ông bà, hôm nay ông cảm thấy khỏe không?

- Tệ lắm.

Câu trả lời cộc lốc như của ông chủ đối với người đầy tớ...

Một ý nghĩ thoáng qua tâm trí, có lẽ đêm rồi ông ta ngủ không được nên khó chịu. Ai chả thế, khi người không được khỏe, lời nói hoặc thái độ trở nên khác thường; thế nên cha Lành điềm đạm hỏi:

- Đêm rồi ông ngủ được không?

- Chán lắm, cứ trằn trọc suốt.

- Cũng phiền thật! Kỳ này khí hậu ẩm ướt quá hay làm khó ngủ hoặc làm cơ thể đau như dần...

Quay qua bà Ảnh đang đứng tại cửa vào nhà trong, ngài hỏi:

- Hôm nay bà có muốn rước lễ không?

- Thưa cha có.

Cố gắng nói thật chậm, ngài thêm:

- Hôm trước bà không nói cho tôi biết. Thật ra, nếu vô tình hỏi một người mà họ không thể rước lễ được vì có sự ngăn trở nào đó, đôi khi làm cho họ mang mặc cảm; đó là lý do tại sao tôi đã không hỏi. Thế giờ ông bà đã sẵn sàng chưa?

- Thưa cha vâng...

Dợm bước đi ra sau khi cho hai ông bà rước lễ, cha Lành cảm thấy thương cho họ. Con cái nuôi nấng lớn lên nhưng giờ không một ai ở gần cha mẹ. Ai cũng phải lo cho chính mình đến nỗi quên cả bố mẹ giờ này ra sao. Còn khỏe thì sống riêng một mình, yếu hơn, nhà dưỡng lão! Cũng chẳng có thể trách ai được vì cuộc sống thúc đẩy người ta bận rộn vật lộn từng ngày từng giờ. Có thương bố mẹ lắm thì may ra một tuần gọi điện thoại hỏi thăm được một lần để rồi lại phải chìm vào công việc mưu sinh, ai lo phận nấy. Cha mẹ, khi tuổi già, có nhớ về con cái thì chỉ còn cách nhắc nhở niềm hãnh diện của mình về chúng hầu che lấp khoảng trống tâm tư, cảnh thiếu vắng bởi mặc cảm bị bỏ rơi. Thế nhưng cảm nghĩ này đâu bao giờ có thể nói ra được nên sinh ra mơ ước được người khác nhận biết công lao của mình... đôi khi đưa đến tâm trạng cho rằng mọi người nên biết ơn mình thay cho con cái... Mối thương tâm cảm thông thúc đẩy ngài dừng lại đoạn nhẹ nhàng hỏi:

- Ông bà có gọi điện thoại cho nhà xứ biết ông bà cần được kiệu Mình Thánh tại nhà không?

- Không, tôi nói con trai tôi gọi cho nhà xứ.

- Thế anh ta đã gọi nhà xứ chưa?

- Tôi không biết. Sáng nay đức giám mục có gọi phone cho tôi nói con tôi gọi ngài.

- Anh ta ở gần đây?

- Không, nó ở riêng mình nó bên Osean Springs.

- Anh ta có hay ghé thăm ông bà không?

- Ít khi, nó chỉ gọi điện thoại.

- Thế ông có nói với đức giám mục là ông rước lễ tại nhà không?

- Có, tôi nói cha kiệu Mình Thánh cho tôi.

- Từ nay, ông bà làm ơn gọi cho nhà xứ khi có chuyện gì cần thiết vì nếu gọi cho đức giám mục thay vì gọi nhà xứ, ngài sẽ nghĩ có chuyện gì rắc rối xảy ra. Tôi muốn cho ông bà biết, các cha cầu nguyện đặc biệt cho những người bệnh trong xứ hằng ngày. Xin Chúa chúc lành nơi ông bà. Xin chào....

Băng ngang qua đường tới chiếc xe, Cha Lành chậm rãi bước thầm nghĩ về sự đối nghịch của phản ứng con người. Người nào càng cố gắng cảm thông cho kẻ khác càng bó buộc chính mình. Trái lại, ai cho rằng chỉ mình mới là quan trọng hơn hết sẽ gây ra lắm cảnh phiền lụy tai hại tới người khác. Câu hỏi tại sao con ông Ảnh lại gọi đức giám mục trong khi không hề gọi nhà xứ cứ luẩn quẩn nơi ý nghĩ. Anh ta muốn gì? Hoặc là anh ta muốn chứng minh rằng những người khác cũng đối xử với bố mẹ anh ta không ra gì giống như chính anh. “Cầu xin cho anh nhận ra giá trị của việc đã làm,,,” ngài lẩm bẩm khi chúi người vô tay lái.


2

Như một cuốn phim sống động quay lại nơi tâm tư cha Lành - dáng người nhỏ con - quì thinh lặng hướng về nhà tạm. Thi thoảng tiếng xe chạy trên con lộ ngay trước nhà thờ vọng vô chừng như nhắc nhở linh mục trẻ, cha phó xứ đạo bao gồm 1500 gia đình này, thế giới bên ngoài hãy còn đang sinh động. Đôi khi tiếng rú cuồng bạo của xe "sport" vượt ngang cố nhắc nhở ngài đêm đã khuya. Thế nhưng dường như những dòng tâm tư nặng nề vẫn cố kéo ngài chùng xuống không cho trở về nhà xứ. Chỉ thấy ngài quì hồi lâu dường như bất động. Bỗng ngài từ từ đứng dậy, tưởng rằng ra về... thì ra ngài đứng lên để ngồi xuống. Hai động tác phân biệt rõ ràng, đứng dậy từ thế quì rồi mới từ từ ngồi xuống ghế dựa, mắt vẫn chăm chăm hướng về nhà tạm, chân bắt chéo và hai tay nhịp nhàng khoanh lại như đã thường quen làm.

Ánh đèn rọi từ trần làm nổi bật sắc hoa màu trắng của bình bông phía sau nhà tạm được kê cao hẳn lên. Mầu mạ vàng của nhà tạm bóng lên đối nghịch sắc hoa dưới ánh đèn bao quanh bởi cả một vùng tối của ngôi thánh đường rộng lớn càng tạo thêm nét linh thiêng thần bí thu hút tâm tư. Phía xa về bên trái trong khung tối, một chùm ánh nến đỏ đua nhau linh động như cố đẩy lời nguyện cầu của những người đốt nến theo sức nóng bay mãi lên cao xuyên tới cõi thiêng liêng.

Bàn thờ tế lễ đứng âm thầm thinh lặng chặn giữa cha Lành và nhà tạm. Cứ mỗi khi trông đến bàn thờ, ngài tự cảm thấy đó là chính mình, chính cuộc đời mình, nơi tế lễ, nơi dâng lên những niềm vui cùng những nỗi u buồn trong cuộc đời không những của chính ngài mà của con chiên bổn đạo, của cả Giáo Hội. Tâm tình này mỗi lần đến với ngài là tất cả những ưu phiền tự giảm dần để được thay thế bằng sự cam tâm chấp nhận. Chấp nhận vì con đường đã được gọi, chọn và đã được chọn. Đôi khi có những cay đắng khó thể mang bùng lên đối diện, ngài chỉ chép miệng tự nhủ: "Cuộc đời nào không có chông gai." Chính nhận thức thực tế này đã giúp ngài sống vui tươi, cởi mở và chấp nhận nhiều hơn.

Cha Lành một mình nơi nhà thờ trong đêm vắng không phải là chuyện lạ, nhưng đêm nay ngài ngồi đó lâu hơn, dường như quên bẵng thời gian. Những sự việc xảy ra cứ tuần tự diễn qua tâm tưởng khiến hiện tại dừng lại, dừng lại để chuyển mình dẫn đưa về quá khứ, một quá khứ có chú Lành khắc khoải với niềm tin, với những ước mơ, và thắc mắc về giá trị của kiếp người.

Khi còn đang học lớp đệ tam (lớp 10), nhân buổi nói chuyện của mấy người lớn, ông cậu khuyến khích chú Lành đi tu làm linh mục. Chẳng kịp suy nghĩ, chú đồng ý và rồi từ ngày ấy, ý tưởng đi tu thi thoảng trở lại như một động lực thúc đẩy chú đặt vấn đề tìm giá trị cho cuộc đời của mình khi so sánh với cuộc sống thực tại nơi những người chung quanh. Có một lần đứng dựa vào tường cuối nhà thờ xếp hàng chờ vô tòa cáo giải, ngay phía trước là một ông gần nhà cỡ chừng 45 đến 50 tuổi. Ông thấp hơn chú một cái đầu. Chú Lành đã chẳng cao gì mà ông còn lùn, lại nhỏ người hơn kèm thêm nước da cháy nắng bởi làm việc cực nhọc ngoài trời. Chú thầm nghĩ, với một thân xác nhỏ bé như thế này, tuổi đời chồng chất theo năm tháng làm ăn cực nhọc để nuôi dưỡng một đàn con 6 đứa; suộc sống còn gì khi xuôi tay nhắm mắt? Phải chăng con người được sinh ra, lớn lên, lập gia đình, sinh ra một đàn con; rồi đàn con cũng thế, cũng lấy vợ, lấy chồng... rồi chết đi... và còn gì? Giá trị cuộc sống ở đâu, và chú sẽ chấp nhận cuộc đời của mình sau này thế nào?

Nếu đem so sánh cuộc đời một con người trong phạm vi sinh tồn, bảo toàn giống nòi với một con thú, con thú sung sướng hơn con người vì chúng không phải lo lắng cho ngày mai. Nếu chỉ xét riêng về sự sống thì con người được sinh ra, lớn lên, già rồi chết. Phải còn gì nữa! Thế giá trị của cuộc sống con người khác và hơn con thú ở chỗ nào? Chẳng lẽ cuộc đời của một con người chỉ lo sao cho có miếng ăn để sống, nghĩa là đi làm, ăn, ngủ, rồi lại đi làm... tiếp tục một cách buồn tẻ như sự luân chuyển của chiếc nhông trong bộ phận nơi cái máy và chờ ngày hao mòn bị quăng đi. Chắc chắn phải còn gì nữa mà chú Lành chẳng biết đặt tên nó ra sao. Chú chỉ biết mù mờ rằng giá trị cuộc sống con người phải hơn con thú trong khi chú không thích lối sống lặp đi lặp lại vì nó bình thường quá, một ngày như mọi ngày... Chú muốn mình phải là một cái gì nhưng cái gì thật mơ hồ, chỉ có trong mộng ước mà chú không xác định được.

Sau năm thứ I đại học, chú được nhận vô chủng viện; để rồi qua hai năm được huấn luyện, chú Lành nghiễm nhiên trở thành thày Lành nhưng lòng đầy thắc mắc, nghi ngờ sự cầu nguyện của chính mình. Nghi ngờ vì cầu nguyện mà không thấy chi hết; cứ như bị rơi vào khoảng không vì thày suy luận, nếu có Chúa thì Chúa đã nghe, và nếu Chúa đã nghe thì thày cầu phải được, xin phải có. Cầu nguyện không thấy ai trả lời, thày xin chẳng gì xảy đến; như thế đối với bản năng thường tình, sự suy nghĩ đơn giản cho thày giải đáp: không có Chúa, và giả sử nếu có Chúa thì Chúa cũng chẳng làm được gì, chỉ như những hồn ma bóng quế còn sót lại lang thang sau cuộc sống, chẳng giúp được ích chi.

Nghe những câu chuyện ma từ những người dân quê mộc mạc mà thày biết rõ không bao giờ họ có ý nghĩ đánh lừa người khác khuyến khích thày đặt vấn đề. Họ là người Công Giáo; họ gặp sự thật và sự thật là họ đã gặp ma. Anh thày, như lời bố mẹ và những người sống cùng thời kể rõ từng chi tiết, bị sài tréo. Khi còn nhỏ, hai chân cứ bắt tréo qua nhau không đi đứng được. Ông thày lang lúc bấy giờ bảo bố thày phải đi lấy tổ quạ, lấy đất trên mả người bị sét đánh trăm ngày và nhiều thứ khác nữa về nhào lộn lại, nặn thành hình nhân, rồi nấu nước tắm; điều kiện là lúc đi đường không được gặp bất cứ gì dù là người hay con vật. Tháng chạp ở miền bắc Việt Nam, trời rét, thế mà bố thày phải lội dưới sông đi lấy đất mả người bị sét đánh vì đi trên đường cứ bị gặp con chó bông. Rồi anh thày khỏi bịnh, đang ở Mỹ.

Những chuyện bùa ngãi, nuôi hồn để bói toán, có thật nhưng thày không thể giải thích lý do, chỉ biết nó xảy ra khiến mọi người phải công nhận rằng con người chết đi không phải là hết; tức là còn có sự sống đời sau. Ông bà có câu, "Tin ma, ma bắt, tin cọp, cọp tha." Không hiểu có đúng hay không, nhưng khi thày đi chặt cây bán cho "nhà nước" làm nhà kinh tế mới và để ý sau mấy lần lỡ miệng. Đúng tám lần chuyện xảy ra làm thày ớn da gà. Không biết lý do, không tin cũng phải sợ, là nếu đi rừng chặt cây, bất cứ vì lý do nào đó, chỉ một người trong bọn đề nghị về, dù chỉ là giỡn chơi, mà cứ tiếp tục kiếm cây để chặt, không chuyện nọ cũng chuyện kia xảy tới cho người trong nhóm. Những người đi rừng có lẽ giải thích không đúng, nhưng họ tin là rừng rất thiêng.

Trước năm 1975, bên cạnh nhà thày có một anh chàng rất hoang đàng, không biết sợ trời sợ đất là gì, vô nghĩa trang, đứng tiểu trên một ngôi mộ rồi thách thức người đã chết. Đêm đó, anh ta bị vật như trời giáng, xùi bọt mép khi bước ra phía sau nhà để đi tiểu. Đến sáng, nghe kể lại chuyện hôm trước, mọi người đều cho rằng anh ta bị như thế vì dám hỗn với người đã chết; thế rồi từ đó anh ta chừa.

Những người đã chết mà họ còn thiêng, còn làm thế này, thế nọ vậy sao Chúa cứ như không? Đôi khi thày nghĩ rằng các cha hù con chiên vì không thế, lấy ai theo đạo. Không có người theo đạo, các cha chết đói. "Bà phước" cũng vậy, họ có phận sự nói như cái máy; họ nói những điều họ phải nói thôi, vì có Chúa thật chăng và Chúa có nghe cũng như có làm gì được cho họ chăng sao không xin Chúa tiền mà chi phí cho cuộc sống, khỏi phải làm gì. Bao nhiêu người chung quanh theo đạo Công Giáo, lại sùng đạo, thế mà khi những sự việc không đúng theo ý muốn của họ, có thể gọi là tai họa xảy ra, họ than trách Chúa. Thày nghĩ, thật nực cười! Chúa đâu làm được gì mà than trách; Chúa chỉ không có cái miệng để phản đối những lời than trách nên họ đổ vạ cho. Họ đâu dám đổ vạ cho hồn ma ông bà họ, cho người khác vì họ sợ bị vật chết; ai mà không sợ chết!

Khi còn nhỏ, nghe nhiều về đức tin bởi học giáo lý nơi nhà thờ, bởi mẹ thày bảo khi gặp chuyện gì khó khăn, hãy cầu xin Chúa soi sáng dẫn đường, rồi cũng cầu nhưng không thấy chi. Ông cha dậy giáo lý thêm sức định nghĩa một cách đơn giản: Cầu nguyện là nói chuyện với Chúa. Thày Lành hài lòng vì sự định nghĩa này. Làm sao có thể chấp nhận được sự giảng dạy của các cha già khi các ngài đứng nơi tòa giảng phán rằng phải biết kính sợ Chúa. Chúa đâu có làm gì được mà phải sợ; thày đâu có sợ! Đâu có bao giờ Chúa nghe thấy gì khi thày cầu, thày nói mà phải ngán! Nếu Chúa có nghe chăng thì đã có những chuyện cần thiết thày xin xảy ra. Ừ thì giả sử Chúa nghe được đi; nghe được mà chẳng làm chi được thì cũng như cuội, coi như không có!

Lớn dần, thày Lành theo đạo Công Giáo như một sự di truyền của hoàn cảnh, bởi những người chung quanh theo đạo nên phải theo cho giống với họ, bởi những sáng không dậy đi lễ, không kiếm được cớ ốm đau gì mà nằm lỳ là bị ăn roi. Ăn roi thì không thể ngủ thêm được lại bị giật mình khi cái roi quất đau điếng nơi người. Thày nghĩ, theo chi cái đạo khổ sở này! Thày chỉ dám nghĩ trong sự hậm hực vì phải đi lễ buổi sáng làm mất giấc ngủ. Thày đâu dám nói, nói ra là ăn đòn. Không có sự trừng phạt nào lớn lao hơn nếu nói vì bố mẹ thày sùng đạo lắm. Chúa của bố mẹ thày được bênh vực bằng những ngọn roi trong khi sự xúc phạm chỉ là lời nói. Đổi lời nói lấy những roi đòn, thày đâu có dại.

Thày Lành cảm thấy Chúa đã chẳng bổ ích gì dầu đã 28 tuổi. Già rồi, nếu như bạn bè thì đã vài con, đã đang mang trên vai gánh nặng gia đình. Sau khi Cộng Sản chiếm miền nam Việt Nam, thày có cơ hội về Sài Gòn ở nhờ nhà một người quen rồi buồn buồn theo dự khóa Thánh Linh. Thày dự có một khóa vì không thể có thì giờ theo tiếp khóa hai. Những sự kiện xảy ra nơi khóa học như rên la, ngất xỉu, làm chứng Chúa đến với những người theo học được thày coi như hiện trạng tâm lý vì quá tưởng tượng. Hai ông cha lên thú nhận rằng họ đã là linh mục mười mấy năm nhưng cũng nghi ngờ, không tin, giờ mới nhận biết. Có người kể rằng họ quăng cả ảnh tượng Chúa đi rồi được ơn trở lại; kẻ thế nọ, người thế kia. Ông cha diễn giảng khóa học thì dường như giả bộ đóng kịch theo sự nhận xét của thày. Đức tin gì mà kỳ thế; Chúa mà cầu dễ dàng như vậy à? Bao nhiêu năm rồi, thày cầu; thày lại đạo gốc nữa, đạo nằm ngửa từ khi mới chui từ bụng mẹ ra mà cầu đâu thấy gì! Chỉ thấy đủ mọi thứ; nào sợ bị đòn, sợ bị xuống hỏa ngục, sợ hình phạt tưởng tượng. Chúa ngày ấy đối với thày chỉ là những sự đe dọa bị khốn khổ đầy ải vì chấp nhận con người chết đi còn một sự gì nữa tiếp theo; cái đó như là những hồn ma.

Tuy nhiên, những sự kiện xảy ra nơi khóa học thánh linh cũng ảnh hưởng thày không ít khiến có ý thử. Thử thôi vì muốn biết thực sự thế nào bởi có gì xảy đến với thày trong suốt khóa đó đâu. Hơn nữa, thày đâu có yếu tim, đâu có dễ dàng bị lừa bởi một vài lời nói, bởi sự mê hoặc của kẻ khác. Chúa phải thực sự chứng minh cho thày biết mới thèm tin, không có sự chứng minh, không thể chấp nhận được. Tin một cách mù mờ như đã phải tin, đó là cuồng tín; đó là sợ bị phạt sau này; đó cũng là ảnh hưởng bởi những roi đòn, bởi thói quen đi dự lễ mỗi sáng, bởi đã bị tiêm nhiễm rằng chúng ta phải kính sợ Chúa, và bởi vì thày đã tưởng tượng Chúa như con hổ giấy đang nhăm nhe vồ phía sau. Chúa sao mà ghê gớm thế!

Sau ngày 30 tháng 4, 1975 thày Lành về một miền kinh tế mới sống với một người bạn cũng tu muộn nơi chủng viện Phú Quí, Sài Gòn. Thày thường tập hát cho ca đoàn gồm 32 người lớn nhỏ từ 14 dến 33 tuổi. Với tính chất lè phè, sống bạt mạng, ca đoàn và mọi người chung quanh dễ cảm thấy mến. Họ mến thày vì thấy tính chất lè phè, gần gũi với họ mặc dầu chẳng giúp ích gì ngoại trừ giúp đọc kinh mỗi sáng chủ nhật. Thử sự cầu nguyện với nhóm ca đoàn, lúc đó thày lại đứng vào vị thế của người khuyến khích đức tin nơi kẻ khác. Thày Lành đưa những chứng minh thật đơn giản trong cuộc sống hàng ngày một cách ngây ngô để nói cho họ biết rằng họ cũng chẳng tin gì, chỉ mù mờ như thày. Chẳng hạn khi thày hỏi họ có tin rằng Chúa nghe lời cầu của họ mà cho họ những gì họ xin không; mọi người đều nói rằng tin. Thày hỏi lại từng người để chính họ xác nhận rõ ràng điều tự họ vừa chấp nhận, thày nói tiếp:

-Nào, mọi người đều tin rằng chúng ta cầu; Chúa nghe; bây giờ chúng ta thử. Chẳng cần gì chuyện to tát, chúng ta xin ngay điều cần thiết. Mọi người biết chúng ta đang đói, không có gì để ăn ngoài khoai lang và bắp, lâu ngày thèm ăn thịt. Bây giờ, xin Chúa cho chúng ta một con nai chạy vào đây, đóng cửa lại, bắt nó làm thịt ăn. Mọi người có tin rằng Chúa cho hay không? Và chúng ta có chắc chắn có con nai ngay bây giờ không?

Tất cả im lặng! Họ vừa xác nhận cầu Chúa nghe, xin Chúa cho mà bây giờ xin son nai, ai cũng nghi ngờ. Mọi người giương mắt ếch nhìn nhau đầy vẻ ngỡ ngàng... Thày hỏi lại, không ai nói thêm được câu nào; tất cả đều ngậm tăm, bất động. Đến lượt một chú nhỏ, tốt lành nhưng cũng thuộc lại ngổ ngáo không thua gì thày; chú ta trả lời:

-Thưa thày, em thấy hơi nghi nghi!

-Đức tin chúng ta là thế đó. Hơi nghi nghi! Tất nhiên chúng ta luôn nghi ngờ.

Thày Lành nói thế nhưng lại biết chắc không bao giờ có chuyện có con nai chạy vào nhà bắt làm thịt. Chuyện phi lý, có gì để mà tin, mà cầu cách vớ vẩn. Tuy nhiên, từ đó thày dẫn họ đi sâu hơn vào Tân Ước, khởi đầu rằng Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 1 câu 18, và theo thứ tự giống như khóa thánh linh mà thày mới dự qua. Dĩ nhiên có những thêm nếm khác với khóa học vì khác thành phần tham dự. Nào thực tập cầu nguyện lớn tiếng trong khi một tay đặt trên vai người khác, một tay giơ lên trời. Thày phải tắt đèn, dùng ánh sáng lờ mờ của buổi tối để những người cầu nguyện đỡ cảm thấy ngại ngùng vì không quen cầu nguyện lớn tiếng trước mặt mọi người. Bắt đầu với sự nhận lỗi, xin Chúa thứ tha; cảm tạ Chúa vì Ngài đã đổ máu mình ra để chuộc tội cho mọi người; nhắc lại lời Chúa hứa ai làm gì, xin gì bởi danh Ngài, Ngài sẽ thực hiện; nhân danh Chúa Kitô xin cùng Chúa Cha điều cần thiết; và đoan hứa tin chắc rằng Chúa nghe rồi cảm tạ Ngài vì Ngài sẽ thực hiện lời cầu.

Thế rồi những sự việc xảy ra liên tiếp khiến thày Lành bàng hoàng và đặt rất nhiều nghi vấn. Trong thời gian đó, nơi miền thày ở mưa liên miên. Tại miền nam Việt Nam quanh vùng thày ở trước, chưa bao giờ thấy mưa như thế trong suốt hơn 10 năm kể từ ngày có trí khôn. Vùng kinh tế mới cũng gần nơi ở cũ, cỡ 20 cây số đường chim bay; thế mà mưa cả tuần lễ, dường như không dứt đến độ bắp, cây mì, khoai lang đỏ hết trong khi đất thuộc loại cát pha đất sét. Tối hôm trước mọi người cùng nhau hợp ý cầu xin cho ngưng mưa. Từ ngày hôm sau, trời mây và mây, che kín cả bầu trời, không một chút ánh nắng, nhưng không mưa dù chỉ một giọt trong suốt cả tuần lễ tiếp theo.

Khoai lang hư bởi mưa; bắp mới lên được sáu tuần lễ; mì chưa có củ; dân chúng không biết kiếm chi ăn. Gạo đào đâu ra trong khi tiền không có. Sống trong vùng kinh tế mới, xác xơ, lấy ai cho vay? Có một gia đình gồm hai vợ chồng trẻ, năm con; đứa con gái lớn nhất mới chín tuổi. Hôm ấy bất chợt thày ghé qua, gặp gia đình đang ăn. Chỉ một rổ lớn rau luộc, gồm có đọt cây mì, đọt dây lang, đọt cây hồng tiên, đọt cỏ hôi (người Bắc gọi cây cứt lợn) và một chén muối đâm với củ xả và ớt. Vợ chồng con cái bảy người ngồi quấn đọt cây luộc chấm với muối xả, ngoài ra không còn gì khác. Thày Lành cảm thấy thổn thức vì cảnh lầm than mà miếng ăn cũng không có. Ngồi xuống, cũng quấn đọt cây chấm muối với họ trong khi nói chuyện thăm hỏi; tối đến, thày nói với nhóm cầu nguyện:

- Mọi người đều biết hiện giờ không ai có thể kiếm gì ăn để mà sống, tiền lại không có, chỉ còn cách xin Chúa cứu đói; nếu không, dân làng sẽ chết hết.

Tất cả cùng nhau cầu nguyện như thường lệ, cầu lớn tiếng; sau đó mọi người ra về. Hai ngày sau, một xe trọng tải khoai lang tới bán chịu cho những gia đình đi chặt cây bán cho nhà nước; những người không đi chặt cây cũng có thể nhờ những người đi chặt cây mua chịu cho được một bao 50kg khoai lang ăn cầm cự lấy sức. Ngày hôm sau nữa cũng thế, thêm một xe trọng tải khoai lang về bán chịu. Nạn đói được giải quyết cấp thời; số khoai lang dân làng mua chịu để ăn vừa kịp cho những trái bắp non mới đơm sữa, có thể ăn cả cùi; củ mì đã lớn bằng ngón chân cái và dây lang kịp làm củ sau đó. Đường bắt đầu khô, xe mới có thể vô bốc cây; xe bốc cây dân mới có tiền. Tuy nhiên, thày biết, hai xe trọng tải khoai lang bán chịu cho dân chúng lại do hai chủ đề bô cây xuất vốn mua về...

Thày Lành vẫn cứ cho rằng những sự việc xảy ra chỉ là những trường hợp ngẫu nhiên trùng hợp; chẳng lẽ Chúa lại làm những cái vớ vẩn thế! Tối tiếp theo, một trong những người cầu nguyện bước ra giữa vòng tròn xin mọi người cầu cho bàn tay anh ta, nó đau cả tháng rồi không khỏi. Thày thầm nghĩ, sao mà khùng thế, tay đau rồi tự nó khỏi; vết thương đâu có làm chết người được mà xin với xỏ bởi có thể chết thì đã chết rồi. Có lẽ chúng mê tín hoặc cuồng tín quá đỗi nên cứ xin những chuyện vặt vãnh chẳng ra gì! Nhưng biết sao hơn, anh ta đã xin cầu nguyện; mọi người đặt một tay lên anh ta, tay kia giơ lên trời và nhân danh Chúa Kitô cầu lớn tiếng sau khi ăn năn tội như thường lệ. Thày Lành cũng đành đặt tay lên anh ta và giả đò cầu "lấy lệ" như mọi người nhưng cảm thấy bực bội lẫn ngại ngùng vì chính thày đã dạy nhóm người này cầu nguyện. Suốt thời gian còn lại của buổi tối, sau khi mọi người đã ra về, thày hậm hực với cái "ngu xuẩn cuồng tín" của anh chàng xin cầu nguyện.

Mới sáng hôm sau, khi thày Lành vừa ăn xong mấy củ khoai lang luộc to bằng mấy ngón chân cái và ngồi hút thuốc lào nơi một cửa sổ đang định đi lang thang, anh chàng xin cầu nguyện tối qua bước vô nhà và nói:

- Thầy, tay em khỏi rồi.

- Vậy em có tin không?

- Có chứ thầy. - Trong khi đưa bàn tay trái lên, nơi gò kim tinh dưới ngón cái ở lòng
bàn tay, chỉ vào đó và nói:

- Hơn một tháng rồi, một chiếc gai "ngành ngạnh" đâm vào đây khi em róc gai; em rút ra và nó cứ khỏi bên ngoài nhưng vẫn đau bên trong, được ít bữa rồi lại phá ra mâng mủ lại. Tối hôm qua, em không biết làm sao hơn, đành liều xin cầu nguyện để mặc Chúa chữa nó. Mới sáng nay dậy rửa mặt, em cảm thấy nó ngưa ngứa, lấy tay bóp một cái, một đoạn gai phọt ra, thế là không còn gì đau đớn nữa.

Thày Lành thầm nghĩ, thì tất nhiên cái dằm thoát ra được là tự nhiên khỏi, nào có chi đâu! Chúa với cha cái gì, vớ vẩn, nhưng không nói ra, lờ đi và hỏi hôm nay anh ta định làm gì, có đi câu không!

Chưa hết, những chuyện bình thường, lăng nhăng hằng ngày thiên hạ cũng cứ đưa ra xin cầu nguyện khiến thày khó chịu, nhưng chỉ nhăn nhó một mình. Thày đâu dám nói ra, nói ra làm nhụt đức tin họ thì sao! Mặc dầu thày dậy họ cầu nguyện nhưng sao mà họ ngụy tín đến thế! Thế nhưng, người đã xin cầu nguyện, cứ mới tối hôm trước, là hôm sau đã bước ra làm chứng rằng điều họ xin đã được như ý muốn. Nó mất chiếc bút máy Pilot, nó hỏi thày biết làm sao kiếm lại; mất chỗ đông người nữa, không ai nhận trông thấy; không ai vớ được; chiếc bút máy kỷ niệm quí giá! Cái gì cũng thầy, làm như thầy là ông thánh sống! Thày nghĩ, mình cũng phải ăn như mọi người, cầu nguyện nào thày có thèm tin đâu mà cứ thày với bà! Thày trả lời không thèm suy nghĩ:

- Vậy em không tin "Cha" em có thể kiếm lại cho em hay sao? Nói với Ngài, xin Ngài cho người đưa nó tới nhà cho em.

Cỡ bốn tiếng đồng hồ sau khi trả lời như thế, chủ nhân chiếc bút đã rối rít đến khoe và cảm ơn.

- Em cầu xin và Chúa cho người đưa tới nhà như thày nói.

 Thày trả lời với giọng chán nản vì sự cuồng tín của thiên hạ:

- Em tin thì em được chứ có mắc mớ gì tôi đâu! Tôi cũng như mọi người thôi!

Tuy thày Lành nói với người ấy nhưng thực ra là nói với chính mình vì có tin đâu! Vả lại, những chuyện cỏn con ấy nào có đáng gì để tin, để cầu nguyện với cầu xin; chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên.

Có một người bệnh đã hai tháng, bệnh gì không biết mà cứ nhổ nước bọt liên miên. Thày Lành ăn cơm ở gia đình đó vì không tiện nấu nướng. Ông thày bạn lại là y tá bất đắc dĩ của cái vùng khỉ ho cò gáy này; y tá đôi khi phải cho thêm tiền bệnh nhân để mua gạo nấu cháo vì ăn củ mì làm sao chữa bệnh được. Tiền thuốc không tính, tiền công không lấy, cho nên ai cũng chạy tới; hơn nữa chẳng còn ai khác. Bạn thày ra sức chạy chữa cho con bệnh nhưng chẳng thấm gì! Nào thuốc nọ thuốc kia, nước biển, nước suối, hết bình này đến bình khác, thứ này sang thứ nọ, con bệnh cứ mỗi ngày một gầy như que củi và tiếp tục nhổ nước miếng. Mặc dầu thày ăn cơm ở nhà ông bố con bệnh nhưng không ưa ông ta vì có lần ông nói xấc, hoạch họe thày trong khi vấn đề xảy ra không phải việc của thày vào một buổi tối văn nghệ giáng sinh 1976. Trước khi rời vùng kinh tế mới để về quê cũ, thày đề nghị mọi người trong nhóm cầu nguyện đến nhà đặt tay và cầu xin Chúa chữa bệnh anh ta. Tối đó mọi người đến, không thèm báo trước, mặc ai muốn nói gì thì nói; họ cứ cầu cho anh ta bởi thày biết rằng nói trước ông chủ nhà sẽ phản đối vì ông cũng không ưa thày, chỉ có thế!

Thày Lành kêu gọi mọi người trong nhà hợp ý cầu nguyện, và như thường lệ, nối tiếp đặt tay trên anh ta; người đứng sau đặt tay trên vai người đứng trước; ai nấy ăn năn tội, kêu nài lớn tiếng, rồi giơ tay lên tha thiết xin Chúa chữa con bệnh, xác tín lớn tiếng rằng Chúa sẽ làm, cảm ơn và về. Đúng là một cảnh xỗn độn, cầu nguyện gì mà mạnh ai nấy nói, tay giơ, đầu ngẩng, đầu cúi lộn xộn giống như một lũ điên kêu gào.

Sáng hôm sau, khi tới ăn sáng, thấy anh ta đang ngồi, nét mặt tươi tỉnh cầm ly nước nóng uống, thày hỏi:

- Sao, cảm thấy thế nào?

- Cảm ơn thầy, em khỏe rồi, hôm nay em ăn được hai chén cháo thấy ngon miệng.

- Còn mọi lần thì sao?

- Ăn đâu có được, như uống thuốc độc vậy!

- Còn nhổ nước miếng nữa không?

- Từ lúc thức dậy đến giờ thấy hết hẳn, chẳng biết sao nữa.

- Tin vững rằng Chúa chữa, khỏi cần lo lắng thì sẽ khỏi.

Bạn thày bảo rằng bệnh khỏi nhờ mới đổi hai chai nước biển; nó làm mát máu. Nhóm cầu nguyện thì như lũ quỉ ám. Thày cũng nghi ngờ, chỉ mình thày thôi; có lẽ nước suối chữa anh ta! Nhưng không sao, có quỉ ám thì thày cũng sắp rời đây rồi; họ nói gì thày đâu có phải nghe. Vấn đề cầu nguyện cũng chẳng đánh động gì lại chỉ làm thêm sợ vì có vài người đã nói rằng thày cầu nguyện Chúa mới nghe. Thày e ngại họ tin vào lời thày cầu chứ không phải tin vào Chúa trong khi thày cho là trùng hợp. Chúa làm sao lại cứ dính con người vào làm gì? Còn anh chàng bệnh, hiện đang ở vùng Houston, Texas, Hoa Kỳ (năm 1985).

Nơi vùng kinh tế mới cũng có một anh muốn tham gia nhóm cầu nguyện nhưng vì quá bận bịu với gia đình, anh ta không đến được tối cầu nguyện nào. Anh kể rằng khi anh ta còn là học sinh tại trường thánh Giuse Đà Nẵng, vào mùa hè, các thày dòng muốn làm hai sân bóng rổ nhưng đất cứng quá không thể làm gì được phải cần nhiều nước mà nước đâu cho thấu nên ra giải thưởng lớp nào cầu xin mưa được sẽ có một ngày nghỉ đi chơi. Mỗi lớp theo thứ tự cầu nguyện nhưng chẳng thấy gì. Đến lớp anh ta, thày dòng phụ trách cùng với cả lớp nhất trí cầu nguyện cho tới khi mưa mới thôi, chưa mưa, không ngưng cầu nguyện. Ba ngày sau, trời mưa một trận nên hồn. Đà Nẵng vào mùa hè, nóng gay gắt đến cháy da người, và có bao giờ mưa. Thế mà mưa! Lớp anh ta có một ngày du lịch trên một chuyến xe đò. Tới khi đầm sân cho phẳng và đổ xi măng, cần nhiều nước, lớp anh ta đã có kinh nghiệm lại thắng một keo nữa. Theo như anh ta kể, lớp anh ta cầu xin được mưa vì thày dòng phụ trách và cả lớp tin chắc rằng nhất định Chúa cho mưa bởi lời cầu của họ. Nghe những người trong nhóm kể về những điều họ xin được, anh ta đoan chắc rằng tại họ tin nên được. Thày Lành thầm đặt câu hỏi, tin là được ư? Thế thì đã bao lâu rồi, thực ra thày chẳng tin vững rằng Chúa nghe, tại vì nghi ngờ! Nhưng những việc đã xảy ra lại cứ như những sự trùng hợp ngẫu nhiên trong cuộc sống bình thường.

So sánh với những phép lạ, ơn xin được loan truyền đây đó thì những biến cố xảy ra đâu có trùng hợp như những trường hợp đã xảy ra trong nhóm cầu nguyện nơi thày ở. Thày Lành suy nghĩ nhiều về vấn đề này, đặt nhiều câu hỏi tại sao, thế nào. Thật khó có thể trả lời được, tất cả cứ như mây mù, mờ mờ ảo ảo. Mọi sự kiện theo ngày tháng dần chìm vào quên lãng đến nỗi thày không nghĩ gì về sự cầu nguyện hoặc Chúa nghe hay không nữa bởi sau thời gian đó thày thay đổi chỗ ở, trở về xứ nhà quê, chạy ăn từng bữa và vất vưởng với ngày tháng dần trôi trong khi lên giường ngủ vào buổi tối với một bụng nước lã, ngủ không được vì cơn đói hành hạ, lại thêm một bụng nước nữa và mong sao cho trời mau sáng để rồi thiếp dần vào giấc ngủ trong sự dằn vặt nơi cái bụng rỗng không. Khi trời sáng, lại mong sao cho mau tối vì cuộc sống kéo dài mang đến nơi thày cảm giác một chuỗi ngày tháng vô vị, và thày có cảm nghĩ rằng con người mình chỉ như con thú lần mò cho no cái dạ dày.

Tương lai mịt mù, thày Lành còn gì để tính chuyện tương lai, để dám mơ ước đến cái ngày nào đó. Hai bàn tay trắng có gì có thể làm vốn liếng kiếm tiền; dù chỉ một bữa ăn còn chưa đủ sao có thể tính toán nọ kia. Đôi khi thày nghĩ, hay là lấy vợ. Lấy vợ đối với trường hợp thày không khó chút nào nhưng lại tự cảm thấy lấy vợ là sẽ bị mang cái nhục suốt đời. Không tiền, không nghề nghiệp, không chi hết vẫn lấy được vợ nhưng sau đó sẽ ra sao? Dĩ nhiên phải nhờ vả vào gia đình vợ! Tiếng đời không bao giờ rửa sạch, và về sau sẽ bị vợ khinh vì phải nhờ vả vào gia đình nó... "ăn bám gấu quần vợ." Lúc êm ấm còn dễ chịu, nhưng khi bất hòa xảy đến, chỗ nào cho thày độn thổ? Niềm cay đắng và cảm nghĩ bó tay bó chân thường dồn đến nơi tâm tư mỗi khi thời giờ của bữa ăn một ngày hai lần tuần tự kéo tới. Sáng đã nhịn, trưa vớ vẩn gì cũng được hay chạy quanh kiếm chén cơm ở một nhà nào đó và tối đến, đa số là không có chi, nước lã và nước lã. Hôm nào may mắn lắm thì có tiền mua được miếng bánh mì kẹp vài lát thịt mỏng như tờ giấy, thế là hạnh phúc! Dầu anh em họ hàng đông nhưng họ còn phải lo cho họ; có vác miệng ăn rình thì cũng phải nghĩ đến cái nhục của một người đầy tự ái! Chỉ một cái nhìn vô tình, một thái độ bình thường, hoặc một câu nói quá quen thuộc của người trong gia đình với nhau cũng khơi dậy nơi thày Lành mặc cảm rằng họ sợ mình ghé tới nhờ vả hoặc trở thành gánh nặng cho gia đình họ vào cái thời buổi người khôn của khó ấy.

Một người bạn giới thiệu thày đến ở nhà mẹ vợ anh ta nơi vùng biển. Thày chỉ xoay đủ tiền để trả nửa tháng tiền cơm; rồi leo núi đốt than... không thể chịu nổi! Thày đành xin tiền một người bạn mới quen để về xe trở lại chốn quê nhà rình ăn từng bữa. Có một lần theo người bạn đi rọc lá chuối; gọi là rọc nhưng thực ra ăn cướp. Những cây chuối trong dẫy tư nhân sắp đến lúc trổ buồng hoặc đang có trái, có được tàu lá nào lành, cắt trộm, rọc lấy lá đem về bán. Lỡ một lần, sợ quá vì làm như thế còn chi buồng chuối, chắc chắn sẽ bị chột. Trong thời gian này, một nhận xét rõ ràng đến với tâm tư; thày không còn biết trông cậy vào đâu! Thôi thì chỉ còn có Chúa. Mỗi lần vô nhà thờ, để cho mặc cảm đắng cay dâng lên, và thầm thĩ rằng thày không còn hy vọng chút nào nữa; chỉ có Chúa mới giúp được. Hai tuần sau, có người nhắn ra đi làm ghe. Thày phải nói dối bà cô ruột để vay tiền đi xe! Đâu ai dám tin mình mà chẳng nói dối.

Mới được sáu tháng, chủ ghe tính chuyện vượt biên, có thày Lành trong đó canh chừng con anh ta. Chuyến đi bị lừa, chiếc "hai xanh" vừa bắt đầu vô bốc khách thì công an, du kích bắn xối xả. Một người chết; một người bị thương; ghe lên cạn. 11 giờ đêm, thày nhảy khỏi ghe lao mình xuống nước thoát trong đêm tối. Con nước dâng cao, thày bất kể sống chết nhoài, bơi, chuyền từ cụm cây nọ qua cụm cây kia, sao cho tránh xa nơi chiếc ghe mắc cạn. Sợ, đói, khát! Nước mênh mông mà thày khát bỏng cổ. Cố gắng tránh xa tiếng nói nơi chiếc ghe vọng tới; hồn vía tồn vào lời thầm thĩ cầu xin; chính lúc này thày mới biết thế nào là đặt hết niềm tin vào lời cầu. Còn gì để bám víu nữa đâu! Thày lại không thông thuộc đường lối rừng đước nên bài học đức tin xem ra hữu ích nhưng khá mắc mỏ.

Mờ sáng, hai chân thày nát bấy với những vết thương do gốc đước bị chặt vát ống dầu chìm sâu dưới nước như những tác phẩm còn sót lại của những người lấy củi cắt rách. Bùn, rác kẹt vào những vết rách nơi hai bàn chân trong khi nước ngập tới thắt lưng; dợm bước là phải rụt chân lại bởi đau thấu xương! Một chiếc xuồng máy với ba tên du kích võ trang súng ống trờ tới hỏi thày có phải là người vượt biên chạy lạc không thì họ rước. Thày chối phắt, nói là mới đi đánh xịch với một người bạn lần đầu; anh ta đẩy xịch đi đâu mất nên thày lạc luôn cả xịch vì tìm kiếm anh ta. Ba tên du kích nói nếu thày nhận vượt biên hụt, họ vớt, nhưng thày vẫn chối trong khi tim đập loạn lên! Chết! Vào tù, ai thăm nom. Thày nhất định không nhận; vả lại du kích cũng nhận ra rằng không còn đường nào cho thày thoát khỏi bàn tay họ; họ để mặc đó, lái xuồng đi chỗ khác kiếm mồi béo bở hơn và nói là sẽ trở lại bắt thày sau.

Phải thoát, không thoát được thì tù! Cảm giác đau đớn nơi hai bàn chân cũng không làm cho thày Lành chấp nhận vô tù được. Thày tiếp tục lần từng bước dọc theo dòng nước đang hạ dần. Một chiếc tam bản đi xịch chèo ngang qua; thày năn nỉ họ, hai anh em cỡ 16 đến 18 tuổi. Thày định giá trả 40 đồng. Tiền đâu, họ hỏi! Chỉ còn biết hứa về nhà trả và chỉ cần họ đưa thày tới khoảng lạch bên kia để tránh sự theo đuổi của du kích. Năn nỉ, cam đoan, cuối cùng họ nhận và đưa thày tới một bờ khác, cỡ mười phút chèo xuôi dòng nước. Thày Lành đành cởi áo ngoài hy vọng đánh lạc hướng ba tên du kích nếu chúng trở lại bắt và tìm lối xuyên trong các lùm cây đước rậm rạp để kiếm đường ra. Một con lạch khá lớn chận hướng đi tới quốc lộ 15; bùn lội tới đầu gối, chân đau, sợ, mất sức khát, và đói... sao thày có thể bơi! Bên kia, 7 tên du kích bắn ầm ầm và lục soát khắp nơi bắt người vượt biên. Bên này, thày nửa sống nửa chết nhưng vẫn phải mò từng rước một cách vô cùng mệt mỏi, đau đớn. Thày thầm thĩ: "Lạy Cha, thà rằng Ngài để con bị bắt ngay khi đêm, con còn đủ sức đi theo họ, chứ giờ này, nếu chúng bắt được, sao con có thể lết theo chúng!" Chẳng hiểu tại sao, bao nhiêu người, nào du kích, nào những người đi đãi hến bên kia bờ mà không ai để ý đến thày vật vờ bên này bìa rừng đước...

Trời gắt nắng, đôi khi thày Lành phải nhoài người trên bùn vì bước không nổi; bùn lại ngập tới thắt lưng; lầm lũi tới được con đê ngăn nước mặn thì cũng đã là giờ không ai nghĩ rằng còn có người vượt biên hụt nào còn sót lại. Bước qua bên kia con đê, thày lội xuống ruộng lúa vớt nước lên giặt quần áo, rửa mặt và ngồi nghỉ một lúc. Cơn khát lúc đó làm thày cảm thấy thoải mái với vài vốc nước lờ lợ của ruộng lúa nơi vùng nước mặn. Chẳng cần để ý đến quần áo khô hay không, thày lang thang dọc theo con đê tiến dần về phía bến ghe. Độ nửa tiếng sau, vừa bước chân xuống chiếc ghe "hai bạc", ông chủ ghe, người thày đã ở nhờ ít bữa, hỏi một câu lạ lùng:
- Sao, tôm tép phơi thế nào? Thuốc hút nơi phòng máy, lấy mà hút.

Không hiểu ất giáp gì, chỉ ậm ừ cho qua bởi quá mệt, mệt đến độ không muốn nói và tiến gần tới cửa phòng máy thì ông lấy chân đẩy mạnh thày vào. Thày kiếm một chỗ nằm để ngủ; mấy phút sau, ông chui vô nói:
-Thằng trưởng công an xã đang ngồi nhậu, thay quần áo đi! - Trong khi ông đưa cho thày bộ đồ của ông và một ít lòng heo sau khi sớt ra một nửa mang lên cho nhóm người đang nhậu.

Sau giấc ngủ, thày Lành ngô nghê dậy tát nước chiếc ghe đi làm còn đang cắm sào ở đó thì công an tới lấy. Mọi người nhìn thày dị kỳ; họ không nói nhưng ai cũng e sợ... Thày cố làm ra vẻ bình tĩnh chống ghe ra cho công an như một người vô tình giúp và sau đó leo lên phía sau chiếc xe đạp của một người quen vượt 7 cây số ngàn về chỗ ở. Không ai tin được thày không bị bắt; chỉ mình thày hiểu; tất cả như một cuộn phim xác thực, vạch rõ cho thấy từng chi tiết, những nguy hiểm kề sát và hiệu lực của lời cầu. Thày không thể nào chối cãi được, không còn có thể nghi ngờ về giá trị của lời cầu trong những lúc cấp bách dồn dập. Ba tên du kích, hai chàng đi xịch, du kích lùng bắt, công an ngồi tại ghe, thế mà thày về tới nơi ở anh bình. Dường như có một bàn tay ngăn chận tất cả và bịt mắt công an, du kích để không ai để ý đến thày trong khi ai mà không nghi ngờ rằng vượt biên là có vàng mang theo.

Từ dạo đó, càng ngày thày Lành càng nhận ra giá trị của lời cầu. Bất cứ trường hợp nào, khi cảm thấy không còn bám víu vào đâu được, tài năng, sức lực của mình không giải quyết nổi; thày kêu cầu tới Chúa, để mặc Ngài lo liệu và tin chắc rằng mọi sự sẽ qua. Kết quả thường làm thày lạ lùng. Đến nỗi thày cũng phải nhiều lần ngạc nhiên bởi chỉ vài lời thầm thĩ, phó thác cho Ngài mà có được những sự ngoài cả ý muốn. Sau này, kể lại cho một vài người, họ cũng khó có thể tin được như thế. Họ hồ nghi rằng thày nói dối hoặc phóng đại để tỏ ra mình quan trọng. Thày là gì mà Chúa nghe; vì họ cũng thế, cầu nhiều rồi mà có thấy Chúa làm gì đâu!

Những lần vượt biên sau, 4 ngày 4 đêm lênh đênh trên biển; người trên ghe đông nghẹt trở về giữa ban ngày; các ghe đánh lưới trên biển trông thấy mà rồi không ai bị bắt, cũng chỉ lời cầu. Rồi những chuyện nho nhỏ, thày chẳng biết làm thế nào, tiền đâu, giờ đâu, thày cũng chỉ còn biết để cho Ngài lo, và rồi được như ý muốn. Từ đó thày nghiệm ra rằng nếu bất cứ gì, ngoài khả năng, nếu nó là ý hướng tốt, xin Ngài thực hiện; tin chắc Ngài làm; cảm tạ Ngài; thế là xong, không cách nọ thì cách kia cũng xong; không những như ý mà còn tốt đẹp hơn điều mình mong muốn. Bất cứ gì còn có thể làm được, thày Lành cầu nhưng vì biết rằng mình còn nghi ngại, không gì xảy đến; chẳng những thế mà sự việc đôi khi còn trở nên tối tăm hơn; tối tăm chỉ vì nghi ngại!

Kinh nghiệm cho biết, không phải mọi sự khó là không có thể làm; vì còn có Chúa để trông cậy. Tin, Ngài làm; nghi ngờ, không chi xảy đến. Khi cầu nguyện, Chúa không trả lời đó là tại không tin đủ, không chắc Ngài làm. Chỉ một chút xíu nghi ngờ rằng chẳng biết Chúa có làm hay không là cầu cũng như cuội. Kêu cầu Chúa không nghe là tại không tin mà chớ; chỉ có nghi ngờ Ngài mới không làm. Tuy nhiên, tin vào Chúa không phải chỉ tin suông là đủ mà phải có sự cố gắng của chính mình, dùng khả năng Chúa đã ban cho để cùng Chúa thực hiện công việc nơi mình.

Mặc dầu tin khi cầu nguyện và những lời cầu đã được đáp ứng... nhưng thày Lành vẫn còn mặc cả: "Nếu Chúa muốn con trở thành linh mục, Chúa đưa con đi. Con chấp nhận bỏ ra 5 năm tìm đường vượt biên; tuy nhiên, ngày đầu tiên của năm thứ 6 là ngày hết 'giao kèo.' Ngày đó cũng là ngày con bắt đầu chấp nhận cuộc sống buồn tẻ bình thường cho qua năm tháng như mọi người chung quanh…..

… Hai năm rưỡi sau, thày Lành đặt chân trên đất Mỹ và sống với người anh ruột ở Roanoke, Virginia…

 3

Hello pha đơ, hau a giu! - Anh thày chào vị linh mục người Mỹ khi gặp ngài nơi cuối nhà thờ sáng chủ nhật thày cùng gia đình ông đi dự lễ.

- I'm fine, how are you?

Chỉ tay về phía thày Lành, người anh bập bẹ:

- dit idz mai bờ rá dơ, hi dớt căm lat oét đây.

- How are you doing? - Cha xứ ngó phớt qua thày Lành miệng xổ tiếng Mỹ như cái máy rồi vội vã bỏ đi, chắc có chuyện gì cần kíp. Thày Lành đớ ra, chẳng biết trả lời sao! Mình đang đi dự lễ; ông ấy hỏi mình làm gì; sao lạ kỳ! Động từ "to do" nghĩa là làm gì mà...!

- Cha ấy chào sao chú không trả lời!

- Ông ấy hỏi em làm gì sao em có thể nói!

- Vậy mà chú cũng không biết à?

Học tiếng Anh tại Việt Nam, do giáo sư anh văn người Việt dạy và chỉ đọc trên mặt chữ... thì chỉ có Chúa nghe dùm! Mấy tuần chờ đợi đi học Anh văn, lòng thày Lành cũng xốn xang không hiểu rồi sẽ ra sao... Lỡ học đòi làm người lớn ngay từ khi mới 12, 13 tuổi, phì phèo ngậm điếu thuốc lá cho oai; chẳng may nhà hết thuốc hút; thày Lành đi bộ ra tiệm tạp hóa gần nhà.

- Ai oăn to bai one boóx Sa Lem!

- Excuse me...

- Ai oăn to bai one boóc Sa Lem! - Thày Lành cảm thấy ngột ngạt...

- What!... I couldn't understand...

Thế là tay thày tự động vung lên chỉ vào những cột thuốc lẻ trên kệ:

- Sa Lem!

- What!

- Sha... Lem...

- This one? Người đàn bà Mỹ bán hàng to kềnh càng đưa bàn tay với những ngón "chuối mắn" đặt vào từng cột thuốc...

- Nô, Sha... Lem...

- This...

- Giét, giét.

- Oh! "Xế lầm!" How many?

Thày Lành mặt đỏ tía tai, có mỗi chữ "xế lầm" mà không biết, lại cứ sha lem... Người Mỹ nói ngọng hay mình nói ngọng!

- Oăn boóx!

- Do you mean a case, we don't have enough!

Cái gì mà nói nhiều thế! Mình muốn mua một cây thuốc Salem trong khi nó có mười mấy gói xếp chồng lên đó hơn một cây rồi; cái gì case...?

- Ai oăn oăn boóx.

- Tell me, how many packs like this? - Người đàn bà cầm một gói thuốc lên miệng xổ một tràng tiếng Mỹ.

- "ten"...

- Alright, you want a carton here you are.

À, thì người Mỹ gọi cây thuốc là cát tần. Cát tần là cây thuốc; cây thuốc Salem là "ơ cát tần óp xế lầm." Anh văn của 7 năm trung học cộng thêm hai năm Văn Khoa và hai năm nơi chủng viện chẳng giúp ích gì khi mua thuốc lá... Thày Lành lững thững trở về nhà, vừa đi vừa ngẫm nghĩ... Sống trên đất nước này, mình phải biết ngôn ngữ của họ... không còn cách nào hơn... vả lại cũng không thể trốn thoát...

Rồi ngày đi học tiếng Anh cũng đến...

- Chú đứng chờ ở đây đón chiếc xe bus số 10 tới trạm... chú xuống, rồi bắt xe bus đi về... và đổi xe lần chót ở trạm... - Ông anh dặn dò rồi lái xe đi làm.

Một lô tiếng Mỹ lòng thòng ông anh viết ra giấy cho thày Lành... Tên ngố giữa rừng người... thày thầm nghĩ... lần đầu tiên đi xe bus tại thành phố Mỹ... Xe ngừng mấy lần, chẳng thấy có bảng nào ghi tên trạm thì làm sao kiếm được những tên anh mình đã dặn... hơn nữa, nếu lỡ, mình sẽ bị xe đưa tới đâu... sao mà về...

- Giu tel mi... Thày Lành nhờ người đàn bà ngồi cạnh trong khi lấy ngón tay chỉ vào tên trạm xe bus đầu tiên..

- Ừ hứ! I will...

Và rồi trạm kế tiếp... chỉ còn 10 phút nữa tới giờ học; vả lại, thày Lành không biết sẽ còn bao lâu nữa mới đón được chuyến xe bus thứ 3 rồi còn lớp học... đành bắt đại một chiếc taxi. Nơi đồng đất nước người, thày lại e ngại lỡ ra bị bịp, nhất là mấy anh tắc xi, chúa chổm ma giáo, cứ để thiên hạ leo lên xe chẳng có đồng hồ tính tiền và chạy vòng vo tam quốc để đòi trả cho nhiều. Không chịu trả, hắn la toáng lên làm khách đi xe cảm thấy quê chịu không nổi đành trả phứt cho xong. Trong túi thày Lành lại chỉ vỏn vẹn có 8 dollars... lỡ bị tên tài xế taxi đánh lừa như ở Việt Nam, làm sao trở về nhà... Chiếc taxi rề rề ghé lại; người tài xế mở cửa, nhưng thày Lành đi vòng qua bên hông tài xế, đưa ra miếng giấy ghi tên trường...

- How much?

- Three "bấk".

Cái gì mà bấk? Nó đòi 3 chục? Thày nghĩ.

- What?

- Three dollars.

-" Ai đu nót hev mor!"

- Oke, I will get you three dollars only.


Những hành lang trường học nối tiếp nhau chia đi lung tung làm thày Lành phải dừng lại hỏi bởi chưa bao giờ biết về hệ thống đánh số phòng. Sao mà nhà trường này lắm phòng thế. Những ba trăm mấy chục phòng thì đi bao giờ mới hết!... Còn đang dồn bước cho kịp tới lớp ở mãi tận cuối hành lang, một hồi chuông reo như xé màng tang ngay trên đầu tường ngang chỗ thày đang đi. Đây đó vài cái chuông cũng ầm lên thi nhau vọng lại. Phiền quá, mới lớp học đầu tiên đã trễ! Thày Lành ít khi bị trễ lớp bởi rất sợ bị thày giáo xách tai hoặc chí những cái đau điếng nơi cánh tay mãi đến khi về nhà cởi áo ra coi vẫn còn vết thâm bầm... Hành lang trở thành trống trơn sau hồi chuông vì một số người Mỹ tụ tập nói chuyện ở gần cửa đã vội vã vô lớp... Còn lại mình thày Lành, nổi bật giữa hai dãy tường kèm theo tiếng vang rõ ràng của đế giầy trên mặt gạch vọng mãi tới những hành lang yên tĩnh xa lắc nối tiếp khác...

Vừa đến cửa lớp, người người đã ngồi chỉnh tề nơi vị trí của mình; mọi cặp mắt hướng về phía kẻ tới muộn... Kinh nghiệm nơi những lớp học thời ấu thơ gợi về khiến thày Lành cảm thấy mình như bị một áp lực nặng nề nào đó dồn tới làm cho khó thở... Đủ mọi thứ người, màu tóc, màu da khác nhau. Đây đó vài chiếc đầu đen ngồi gom lại nhưng hình như Đại Hàn hay Nhật; số còn lại toàn người Mỹ... Thày Lành cảm thấy hơi ngán...

- "Hai!"

Bà giáo ngồi nơi bàn riêng giữa đầu lớp học, ngưng viết ngước lên hướng qua thày Lành vừa chợt chùn chân nơi cửa. Miệng bà đỏ chói với lớp son buông lời ngắn gọn, lạ hoắc. Chưa bao giờ thày Lành gặp tiếng Mỹ ngắn và gọn như thế này. Cái gì mà "hai". Còn đang quê chết người bởi tới trễ, mọi cặp mắt dường như vẫn đang dính chặt trên mình; giờ lại đụng tiếng chi lạ kỳ: "hai." Bà giáo nói chi thế! giống như tiếng "Ê" người ta gọi bồi bàn. Chắc có lẽ tới trễ là cả một vấn đề quan trọng nơi đất nước văn minh này nên bà giáo dùng tiếng "Ê" nói lên phần nào rằng mình bất lịch sự vì trễ giờ... Thày Lành chợt cảm thấy sững sờ; mặt nóng bừng bừng bởi máu dồn lên; vội cúi đầu chào trong khi miệng câm như hến bước vô kiếm chỗ ngồi...


Thiên hạ nói chuyện như sáo với bà giáo khi được phát bản thi khả năng văn phạm Anh ngữ làm thày Lành sợ đến rét cả người. Họ nói nhanh như gió mà còn học lớp này trong khi thày chẳng hiểu gì thì làm sao có thể theo... Có lớp ESL (English as a Second Language) nào thày đã ghi danh hết, nào "reading," văn phạm, "composition,"... Lớp này là lớp văn phạm cho những người ngoại quốc thế sao những người Mỹ này giỏi như vậy mà còn phải học lớp này... Rồi "tiếng" mà bà giáo nói ngắn gọn lúc thày vừa tới cửa nghĩa là gì; bà giáo nghĩ gì... Tất cả cứ xoay quanh trí óc khi thày làm bản thi...


Mang tiếng học Anh văn mà cả giờ chỉ hí hoáy với một bản thi trong khi thiên hạ chỉ nửa giờ sau đã ra về hết... Khổ nỗi... thật là không may cho mình, đã học Anh văn đâu mà thi; thôi thì cứ "bói," a, b, c và khoanh bừa đi... Nhớ lại kỳ ở Việt Nam, thằng em kế về kể có thằng bạn đi thi; chẳng chịu học hành gì, bắt theo con kiến càng cho chạy trong cái hộp có 4 ô a, b, c, d rồi chấm theo cho môn vạn vật. Kết quả hắn lại trúng hết... Mình kiếm đâu ra kiến giờ này... Mấy câu hỏi lõm bõm chữ hiểu chữ không, đổi đại mấy động từ cho thành câu trả lời... đem nộp cho bà giáo, miệng lắp bắp "guốc bay" với tâm trạng ngượng ngùng không biết sao trả lời khi bà giáo nói: "See you next class."


Đang bước vội vàng nơi hành lang bởi chỉ còn 4 phút nữa là lớp "reading" bắt đầu, khi vừa ngang cửa phòng một lớp học, một ông Mỹ đang ngồi tại bàn giáo sư giơ tay chào miệng buông tiếng "hai" với một người Mỹ đang đi bên cạnh thày Lành có lẽ cũng là giáo sư đang đi tới lớp. Ông này vội giơ tay hướng về phía ông kia, miệng bật tiếng "hai." À thì ra "hai" là câu chào mà mình không biết. Rõ ngớ ngẩn, mình biết tiếng "hello," "good morning," "good afternoon," "good evening," mà tiếng "hai" không hiểu nghĩa là gì... Kinh nghiệm nào không phải trả giá....


Thày Lành thậm chí khổ sở trong sự cố gắng, hết sức vật lộn với cái ngôn ngữ quỉ quái viết một đàng đọc một nẻo này. Bà giáo dạy lớp "reading" lại còn bồi thêm: "You have to dream in English" khi nói chuyện với bà ta ngoài giờ học. Thật là bực mình, làm sao mà "dream in English!" Đến ngay nói ngọng trếu ngọng tráo mà còn rặn từng chữ như kẻ táo bón lâu ngày phải kèm theo những tác động vung chân múa tay quay suồng theo ngôn ngữ quốc tế mà thiên hạ vẫn sòn cứ "excuse," "pardon," "what" tới tới lui lui nữa là "dream in English"... Bà muốn bắt tôi phải biến thành Mỹ vàng ư? Tôi là người Việt Nam, dân bắc kỳ "dốn"... Thày Lành thầm bực bội...

Mình đã mặc cả với Chúa là trong năm năm nếu vượt biên được là ý Chúa muốn mình tiếp tục đi tu... Phải kiếm chủng viện theo học thế mà Anh ngữ chưa xong, biết sao bây giờ... Nhờ ông anh hỏi cha xứ về địa chỉ chủng viện, cha xứ nói cứ hãy học xong Anh văn đã. Những lớp học Anh văn thì chẳng thấy chữ nào về triết học và thần học cả... Học ba chữ buôn bán, chào hỏi thì vô chủng viện cũng chẳng hiểu chi... Ôi! Cái nhà trường Mỹ cũng giống như dân Mỹ, chữ mình muốn học không thấy, chỉ những chữ vớ vẩn đâu đâu lại đầy rẫy nào có khác chi nói một đàng viết một nẻo...

Thế rồi cũng mò mẫm biết được cha Huân ở Richmond, Virginia, thày Lành viết thư hỏi về chủng viện. Gần tháng sau, một bao thư cứng ngắc từ một phương trời xa lạ với địa chỉ chưa bao giờ nghe thấy gửi đến bao gồm một xấp hồ sơ mẫu cần được điền kín các chi tiết kèm theo là một lá thư cha Hùng nói là cha Huân chuyển thư của thày Lành cho ngài. Ngài dặn đây là hồ sơ nhập chủng viện và phải có 3 giấy giới thiệu trong đó bao gồm ít nhất giấy giới thiệu của một linh mục... Nghe đâu cha Thu là anh em họ xa cỡ vài trái đạn đại bác 220 ly đang làm việc tại Philadelphia, thày Lành gọi điện thoại nhờ người anh em hỏi cho được số phone của ngài... để xin giấy giới thiệu...

- Father Peter Thu...

- Xin chào cha, con là Lành, em anh Trung con ông Trần. Con cần giấy giới thiệu của một linh mục để nộp vào hồ sơ xin nhập chủng viện ở Iowa; xin cha giúp cho con...

- Tớ đâu biết cậu mà viết giấy giới thiệu...

Bà nội mình vẫn còn nhận họ với bố mẹ ngài; rồii mẹ mình cũng nói còn anh em, ngài là vai trên dầu xa nhưng mình phải gọi ngài là bác... Thế mà ngài trả lời "Tớ đâu biết cậu"... Vậy những lần gặp mặt anh em chủng sinh tại xứ cũ, rồi tập hát, rồi trình diễn văn nghệ... mình lại là đứa dám mặc chiếc mini sutan đầu tiên đi nhà thờ quì nơi gian cung thánh để rồi Nguyễn Hoàng Đắc nói mình bạo phổi... Thế mà ngài nói không biết... hoặc vì gọi điện thoại, ngài không thấy... nên không biết... Ông cha nào thuộc địa phận Nha Trang chạy loạn sang bên này... Sao mà kiếm!... Thày Lành cố moi trí nhớ xem có biết cha nào khác ngày xưa mình quen biết không, vừa chán nản, vừa bực mình... "Tớ đâu biết cậu... tớ đâu biết cậu..."

12 tuần của khóa học mùa thu thấm thoát rồi cũng qua. Thày Lành kiếm gặp giáo sư toán xin lấy "Test" Calculus 1 và 2 vì đã học năm MPC ở Việt Nam. Vào một buổi sáng, đang học ôn cho kịp ngày hẹn thi thì chuông điện thoại reo:

- Hello,

- Có anh Lành đó không, tôi là cha Hùng tại Iowa muốn gặp.

- Thưa cha, con đây.

- Sao, có định đi tu thật không đó mà chưa thấy giấy tờ gửi tới nhà trường chi hết?

- Con đang chờ giấy chứng nhận Rửa Tội và Thêm Sức từ Việt Nam; hơn nữa, con cũng chưa kiếm được linh mục cho giấy giới thiệu.

- Vậy có định đi tu thật không?

- Thưa cha, con năm nay 32 tuổi rồi có gì mà phải nói thật với không. Chẳng lẽ con muốn phí thêm thời gian vì không biết mình muốn gì nữa sao!

- 32 tuổi rồi cơ à! Khỏi cần giấy tờ vội, cứ mua vé phi cơ lên thẳng đây rồi giấy tờ tính sau. Lên đây, cha sẽ lo cho. Ngày khai học là 13 tháng 9; lo mua vé và sau đó gọi cho cha biết chuyến bay để cho người ra phi trường đón. Nhớ phi trường Epworth, Iowa.

- Thưa cha vâng, con sẽ nói anh con mua vé phi cơ ngày mai rồi gọi tới cha...

-    Được rồi,,, cứ như thế, đừng lo gì hết.

Gánh nặng ngàn cạn được trút khỏi, thày Lành lo sắp xếp quần áo vì chẳng còn mấy ngày…

4



-   Lấy hai cái 25 cent bỏ vào lỗ nhỏ này; rồi chọn loại nước muốn uống; ấn cái nút phía dưới thì lon nước sẽ rơi xuống chỗ này... Nhớ rằng chỉ loại "quarter" thôi, máy không nhận "dimes" hay "nickels"...
Anh nghĩ tôi ngu đến độ không biết mua lon nước ngọt hay sao mà phải rườm lời thế. Quân Mỹ tụi anh cứ tưởng chỉ các anh là biết hết mọi sự, còn các dân khác là ngu muội. Nơi phi trường, tôi đã thấy người ta mua rồi, cần gì phải nói. Tôi còn biết cách làm hay hơn anh nữa, chỉ cần ấn nút, đá mạnh vào máy là có lon nước chứ cần gì phải bỏ 2 cái quarters cho tốn phí!... Thày Lành ráng nhẫn nhục theo anh bạn Mỹ đầu tiên được phái tới đưa mình xuống phòng cơm ăn sáng và giới thiệu trường sở đồng thời chỉ dẫn những điều cần thiết muốn biết. Điều thày Lành muốn biết là lối đi lên xuống từ phòng ăn, tới nhà nguyện, lớp học và trở về phòng ngủ thì không thể xác định để nhớ hết được; anh bạn Mỹ hướng dẫn cứ chỉ những điều vớ vẩn không cần thiết...

- Cầm cái cơ như thế này, để tay trái như vầy, thục mạnh để "break" rồi chọn banh "strike" hay "solid," nhưng không được đánh trái số 8 đem ngòm kia vô lỗ trước khi đánh hết 7 trái của mình vào các lỗ. Nếu trái số 8 vô lỗ trong khi còn trái của mình trên bàn, tức là mình thua...

Cái mục bida lỗ này mà thú vị; sau sơm trưa, thày Lành lò dò xuống bàn bida, một mình bao luôn hai phe thục bida lỗ... Và rồi một tuần sau, người bạn Mỹ đã chỉ thày Lành cách để tay thế nào... đã không bao giờ còn có cơ hội thắng thày dù chỉ một bàn... Tôi muốn nói cho anh biết... Cái tên mà anh nghĩ là mọi rợ đến độ phải chỉ dẫn cách bỏ đồng 25 cent mua nước ngọt không dốt nát như các anh tưởng đâư!

- Lấy cây chống này kê mà đánh!

- Khỏi cần, thục bida một tay mới hay chứ dùng cây kê đó thì quá thường rồi...

- "Good shot!"

- Tôi sẽ đánh trái số 3 kia vô lỗ góc đó.

- Anh có khùng không?

- Yên chí đi, tôi đánh trái banh trắng nhảy qua hai trái số 5 và số 8 rồi mới đẩy trái số 3 vô lỗ...

- Anh đánh kiểu gì vậy, chưa thấy ai đánh như thế bao giờ!

- Mình phải sáng tạo mới hay chứ!
...


Bida lỗ chơi thì dễ; những tối "bar" của nhà trường mở cửa, uống bia nói tiếng Anh văng mạng thì dễ, nhưng Anh văn vẫn là mối trở ngại lớn lao dẫu thày Lành hay nói, dám nói, và muốn nói cho quen với cái tiếng Mỹ ngọng ngoẹo này. Thật cả một cực hình cho bộ óc lý luận phải nhớ nghĩa từng chữ, phải nhớ cả nói nhấn vào vần nào, và vần đó phải trẹo quai hàm phát âm ra sao. Hơn nữa, Anh văn giống như một thứ ma quỉ, càng cố gắng học lại càng thấy nhiều chữ không biết, càng cố gắng nói cho trúng giọng, lại càng nói trật... Bao giờ mới có thể nói tiếng Mỹ cho trôi chảy, bao giờ mới hiểu hết được những lời người Mỹ nói ra... Thày Lành nhiều lần muốn khùng lên vì cái tham vọng muốn nói và đọc sách tiếng Anh cho trôi chảy... Không đọc, không nói được tiếng Anh, sao có thể đi tu làm linh mục nơi đất nước này...

- "Please, open it up."

Một chị người Mỹ tay ôm chồng sách, tay kia xách chiếc xắc cũng chứa đầy sách đến trước cửa thư viện lúc ấy thày Lành cũng đang đứng xớ rớ nói chuyện với một người bạn... Cái gì là "open up"... Chị ta muốn mình nâng chồng sánh ở tay cao lên hay sao mà "up"... Nhưng sao lại "open"... Người bạn cũng chẳng hiểu gì nên giống như thày Lành; cả hai còn đang giương mắt ra nhìn không hiểu chị ta muốn gì... Thấy hai người nhìn mình không nói lại cứ đứng yên chằm chằm dòm, chị ta nổi cơn điên, giơ chân đạp cái bình vô cửa thư viện chỉ được khép bởi nhún tự động miệng buông tiếng thô cộc "Sh..." rồi giận dữ ngúng nguẩy bước vô. À thì ra "open it up" là mở cửa ra. "Open" là mở đủ rồi, mắc mớ gì lại thêm chữ "up"... Đòn đau nhớ đời! "Open it up" nghĩa là mở nó ra, có vậy thôi mà cũng không biết... Tiếng anh với tiếng em kỳ cục...

Sống tại nhà trường Mỹ, vấn đề ăn nói đã khổ; học với người Mỹ mà nghe tiếng Anh như vịt nghe sấm lại càng đau đớn hơn... Hỏi bạn cùng lớp thì quê, tự ái vặt cứ cao ngút ngàn; không hỏi chẳng biết lối nào mà rờ. Những bài phải đọc cho lớp "Bio-Ethics" với những danh từ chuyên biệt làm thày Lành nản chí. Câu nào cũng phải lật tự điển mà nào phải chỉ một chữ trong một câu, có khi tới 5 chữ không hiểu nghĩa. Dùng tự điển Anh Việt, dù có tra hết mọi chữ cũng không thể nào hiểu được ý của câu văn nói gì mà dùng tự điểm Mỹ thì cả tiếng đồng hồ hãy còn mù tịt. Lật được chữ này, thêm vài chữ mới nơi định nghĩa, rồi lại cứ tiếp tục những chữ lạ hoắc. Sao mà tiếng Anh lắm chữ thế?... Để rồi cuối cùng, không thể tra tự điển cho hiểu những bài đọc, thày Lành quyết định chấp nhận bỏ lớp Bio-Ethics.

Niềm cay đắng từ ngôn ngữ khiến thày Lành e sợ. Đọc mà không hiểu như thế này, nói lại như mắc họng mà nghe thì lõm bõm, cứ phải đoán mò... mò đến độ trật lất ý người nói thì sao mà có thể học thần học... Thôi thì đành chấp nhận mặc cả với Chúa lần nữa. Mình hết sức rồi mà vẫn cứ dậm chân tại chỗ... Suốt một tuần thày Lành chỉ một câu cầu nguyện: Lạy Chúa, con cố gắng học tiếng Anh mà không thấy khá hơn, chỉ càng ngày càng lắm chữ không biết... Nếu Chúa muốn con tiếp tục ơn gọi làm linh mục, xin mở tai con ra để nghe, mở miệng cho con nói, và mở trí óc cho con hiểu. Chúa không cho con phép lạ này, trách nhiệm về Chúa... Con mệt cùng đường rồi... cần phải nghỉ, nếu cứ tình trạng này, son sẽ bị khùng vì ngôn ngữ... Một năm rưỡi học Anh văn với 18 "credits" triết và tâm lý rồi cũng qua, thành Lành được gửi về nhà tập, tiếp đó vào thần học... Sau ngày chịu chức linh mục, nhớ lại hai cuộc "mặc cả" vượt biên và Anh văn, cha Lành vô nhà nguyện thầm thĩ: Bây giờ con mới biết, con được hai điều mặc cả với Chúa và Ngài đã thắng chính con... Từ đây, Chúa muốn dùng con làm gì…..”



5

Hai chiếc nhà di chuyển bằng bánh xe (trailler) được đặt đấu đầu vuông thước thợ nhưng cách nhau chừng 10 mét bởi hai cây oak già rợp róng mát lên mái cho đỡ nóng vào những ngày tháng hạ. Tàn cây vươn rộng che nắng luôn cả khoảnh sân nơi đó kê một chiếc bàn ọp ẹp như muốn khụyu xuống bởi muôn thứ dụng cụ; nào kìm búa, đinh, khăn lau, cả những bịch đồ ăn khô và nước ngọt. Dưới gầm bàn, đồ đạc bày biện như một kho chứa đồ cũ khiến người mới trông thấy tưởng rằng tiệm bán đồ lạp xoong. Một ông già ngồi nơi bàn trên chiếc ghế cũ kỹ không kém đang dùng muỗng ăn miếng bánh ngọt. Hai đứa nhỏ, một trai, một gái cỡ chừng 4 đến 5 tuổi, có lẽ hai anh em mặt mũi lem luốc đang vui vẻ rượt mấy con gà bu lại nhặt nhạnh những mẫu bánh rơi rụng... Mấy con gà kể cũng dạn người, chúng chỉ rướn lên nhảy ra xa vài bước khi đứa trẻ bước gần tới chụp... Con bé vồ hụt chú gà trống té lăn quay nhưng có lẽ dạn dày với những trò săn đuổi này nên không tỏ ra đau đớn gì, lồm cồm chống tay bò dậy phủi đất cát nơi đầu và cánh tay đoạn tiếp tục rón rén bước gần tới chị gà mái giang tay muốn vồ. Cô bé còn ngây thơ quá, vồ gà mà giang thẳng hai tay như chim bằng cánh thì sao mà chụp được nên may ra đụng phớt bộ lông đã lấy làm thích chí cười như nắc nẻ khi con gà nhảy cỡn lên chạy ra xa. Chú bé anh cô khôn hơn, không thèm chạy đuổi theo gà, đứng gần ông già; khi gà tới mổ những vụn bánh rơi xuống từ bàn mới cúi người, rón rén giơ hai tay về phía trước chụp cái đuôi. Con gà bị chụp giật mình kêu quang quác rồi nhảy dựng lên, bung hai cánh cố sức quạt kiếm cách thoát thân khiến chú nhỏ té nhủi vào chân bàn rồi lăn chổng kềnh trong tay vẫn còn nắm chặt hai chiếc lông đuôi trong khi anh gà cồ chạy thoát vài bước, ngơ ngác như vừa thoát nạn đoạn quay lại, chiếc đầu nghênh nghênh lắc qua bên nọ, liếc qua bên kia tỏ vẻ chiêm ngưỡng tác phẩm vượt thoát của mình...

- Chào cha...

Ông già vừa nhìn thấy cha Lành vội đứng dậy chào. Hai đứa trẻ cũng quên đuổi bắt gà, hướng về phía chiếc xe nơi cha Lành đang bước ra khỏi cửa, đưa tay vẫy vẫy miệng bi bô "chào cha" theo ông già.

- Chào ông cụ.

Ngài hướng qua hai đứa nhỏ...

- Chúng con bắt được con nào chưa?

- Chưa, chúng cứ chạy, - Nhỏ anh trả lời đoạn giơ hai chiếc lông đuôi gà tiếp tục bi bô - Nó khỏe lắm, nhảy lên cái vù và kéo con té kềnh ra, chỉ nắm được lông đuôi.

- Sao con không chụp cái đầu nó...

- Có chứ, lần trước con vồ được cái đầu thằng cồ kia, nó đá con lung tung rồi chạy mất.

- Nó đá đau không?

- Không đau mấy, đau vừa vừa thôi, nhưng cánh của nó đập vào đầu con rát lắm...

Quay qua bé gái, ngài hỏi:

- Con có chộp được con nào không?

- Nó nhanh lắm, con vồ hụt té cái đụi, lấm hết!

Con bé có vẻ tỉ mỉ hơn thằng anh; sau nét lem luốc là gương mặt bầu bĩnh vui tươi sáng sủa với cái miệng như muốn cười và cặp mắt biết nói.

- Khi nào con bắt được, kêu cha làm thịt nấu cháo nghen. Con thích ăn cái gì?

- Cái chân con gà mái kìa, nó chạy nhanh lắm...

- Con ăn cái chân thằng cồ, nó đá con lung tung... cả cái cánh nữa, nó đập và đầu con.

- Vậy còn mấy đứa choai choai kia...

- Chúng nhát thấy mồ - thằng anh nói - chưa tới gần chúng đã chạy... Nó cũng không dám mổ cherios ở tay nữa nên không nắm được cái đầu bao giờ.

- Đợi chúng lớn tí nữa, con sẽ nắm được cái đầu, thế rồi nó lại đá lung tung con có sợ không?

- Không, nắm đầu nó thích lắm, nó quạt cánh tối mù hà...

- Tụi con rượt gà tiếp đi để cha nấu cháo... - Cha Lành xoa đầu hai đứa nhỏ, hướng về phía ông cụ đang đứng đó mỉm cười nhìn hai đứa cháu líu lo.

- Bà cụ ở trong nhà?

- Thưa cha vâng; con đã nói với bà ấy là cha tới.

- Thôi, tôi cho bà cụ rước Mình Thánh.

- Thưa cha vâng.

Hai vợ chồng ông bà cụ kể cũng tội! Sống trong đất nước giầu có như thế này mà nghèo thật nghèo. Căn phòng hai ông bà cũng chứa đủ mọi thứ đồ cũ lỉnh kỉnh như một đống rác. Trời nóng như tạt vào mặt mà không có máy lạnh; chỉ một chiếc quạt vuông bám đầy bụi nơi khung sắt phần phật quay thổi hơi từ phía ngoài vô nơi cánh cửa sổ đầu giường. Cũng may, nhờ tàn cây oak không khí đỡ nóng được phần nào. Ông cụ người trung bình; còn bà cụ thì khá to lớn... Có mỗi mụn con trai lập gia đình được hai đứa con; khi đứa bé gái mới 1 tuổi, vợ chồng hục hoặc bỏ nhau rồi người nào đi đàng nấy để lại hai đứa trẻ một tuổi và hai tuổi cho ông bà già chăm sóc. Hơn nữa, nhà lại chẳng có phone nên lỡ có chuyện gì cũng thậm chí khổ... Tiền bạc hàng tháng chẳng được bao nhiêu bởi ngày xưa đi làm không đóng tiền an sinh xã hội... Cũng may, sống trên miếng đất cha mẹ vợ để lại nên không phải trả tiền thuê nhà; tất cả chi tiêu chỉ hạn hẹp đủ với số tiền già ít ỏi tạm cho qua ngày... Bà cụ mới bị mổ không đi nhà thờ được nên nhờ người nói cha đưa Mình Thánh... Dân Chúa thật thậm chí khổ, rồi khi có chuyện cần kíp biết tính sao đây... Cha Lành thầm nghĩ, khu đất lại tách biệt một nơi thưa thớt nhà cửa... Xin giúp họ tránh khỏi những chuyện cần kíp khó bề tránh thoát... Lòng ngài chùng xuống, ngậm ngùi nói lời chào, và đưa tay vẫy vẫy hai đứa bé lững thững bước ra xe tiếp tục mang Mình Thánh đến nhà khác.

Không những hàng rào sắt ọp ẹp nghiêng ngả mà chiếc cổng lại cứ như muốn đổ sập vô xe khi chạy ngang qua. Đường mương phía ngoài hàng rào sẵn sàng chờ đợi người lái vô ý đưa bánh xe xuống hố... Vài chiếc xe cũ kỹ không biết từ bao nhiêu đời ngự trị choán hết phần sân ngay cổng chỉ để chừa lại vừa đủ chỗ cho một chiếc xe đậu. Đám sân cỏ mọc cao lưng chừng đầu gối, chỗ xanh, chỗ héo úa giống miếng da beo như thể được con mắt thẩm mỹ cố tình sắp xếp cho hòa hợp với hàng rào nghiêng ngả, rỉ sét và những chiếc xe bong sơn loang lổ, e sợ được cắt xén sẽ làm cho mất bớt vẻ nghệ thuật.

Phía trước căn nhà được bọc lưới ngăn muỗi biến mái hiên thành một hành lang dài trong đó một chiếc bàn tròn ngổn ngang đủ mọi thứ chồng đống trên mặt. Có vài vật rơi cả xuống sàn gỗ ọp ẹp mà mỗi lần bước qua cứ rung lên khiến cho người ta có cái cảm giác sẽ bị rơi sập xuống bất cứ lúc nào. Bước qua cánh cửa trước, căn phòng khách tối om hiện rõ màn ảnh tivi luôn luôn ồn ào khiến vài chiếc nệm nâu thẫm nằm trong vùng tối lại càng như bị tối hơn, âm thầm chịu đựng cảnh cô độc không được ai đoái hoài. Ánh đèn néon 4 tấc nơi góc trần nhà mãi tận vách tường bên kia đối diện với chiếc tivi không đủ soi rõ bộ mặt bà cụ mập mạp đến độ đầy vẻ bệnh hoạn, suốt ngày ngồi đó hướng về những thay đổi trên màn ảnh giết thì giờ cho qua năm tháng chẳng biết làm gì.

Bước dọc theo phòng khách, cha Lành lên tiếng:

- Chào bà, bà khỏe không?

- Cũng thường vậy, thưa cha.

Mới gần tới chiếc bàn, một mùi hôi thối nồng nặc quất vô mũi khiến ngài muốn ngộp thở. Phản ứng tự nhiên chận chân dừng bước nhưng lý trí ra lệnh cha phải tiến tới. Chạy sâu về phía trái là khu vực bếp với cái thùng rác đen ngòm to tổ bố đặt kề ngay bên cửa ra phía sau; có lẽ mùi hôi thối bốc ra từ đó. Mặc dầu nơi vách tường bên tay phải ngài chiếc máy lạnh ồ ồ thổi vô nhưng mùi hôi thối vẫn nồng nặc đến nỗi khí lạnh cũng không thể nào làm giảm bớt. Bà cụ vẫn tỉnh như người tịt mũi bởi quá quen thuộc đến độ không còn cảm thấy mùi vị gì nữa, đưa tay đẩy vài thứ lặt vặt trên mặt bàn chờ đợi.

- Bà đã sẵn sàng chưa.

- Thưa cha rồi.

- Bà có cần xưng tội không?

- Thưa cha không, hôm ở nhà thương con đã xưng tội cách đây một tuần.

Sau khi cho bà cụ rước Mình Thánh, cha vừa quay lại bước trở ra thì một người đàn bà trẻ, có lẽ là con bà cụ, mở cửa tiến vô. Ngài bước vội tới chào và nói:

- Hình như chiếc thùng rác đã quá lâu rồi nên xông mùi khó chịu quá, từ lần sau, chị làm ơn bỏ thùng rác ra ngoài vào buổi sáng dùm...

Lần sau ngài đưa Mình Thánh tới, căn nhà được quét dọn tươm tất hơn nhưng mùi hôi thối vẫn còn; không hiểu vì lý do gì nhưng ngạt thở quá... Liếc nhìn sơ qua khoảng hở giữa tủ lạnh gần ngài xem có dự đoán được nguyên nhân gì chăng; vẫn không có được câu trả lời.

- Vài năm trước tôi đưa Mình Thánh cho bà ta cũng đã hôi thối như vậy. Không thể hiểu sao người ta có thể chịu được.

Cha tuyên úy nhà thương nói với cha Lành. Thật ngại ngùng khi phải bước vào đưa Mình Thánh cho bà cụ nhưng chẳng có cách nào từ chối... Nói với bà cụ ra phía trước nơi bộ sa lông, thì cũng chỉ được một lần, rồi bà cụ quên, vẫn ngồi yên chỗ cũ. Biết sao hơn! Có nhắc lại e phiền lòng, không nhắc phiền mình, cha Lành lẩm bẩm khi bước lên xe tới nhà một người   bị bệnh ung thư mà bác sĩ cho biết   chỉ còn có thể sống tối đa được hai tháng…


6

Về tới nhà xứ khi cây kim đồng hồ đeo tay chỉ vừa đúng 11 giờ trưa... "May mắn, không bị trễ..." ngài nghĩ, nhưng người hẹn vẫn chưa tới. Đi thẳng vô nhà bếp định lấy ly cà phê, bình cà phê không còn một giọt. Ngài lấy nước đổ vào máy...

- Cha để con pha cho... - Chị bếp vội vã...

- Không sao, tôi pha cũng được mà, chị lo nấu cơm đi.

Vừa bưng ly cà phê tới văn phòng đã có ai bấm chuông bên ngoài... thì ra hai mẹ con hẹn đến về vấn đề xin rửa tội đứa nhỏ.

- Mời vô, đi theo tôi...

- Con đến xin cha rửa tội cho cháu nhỏ mới sanh.

- Ở nhà gọi điện thoại cũng được đâu cần phải đến nhà xứ. Thế cháu nhỏ sanh được bao lâu rồi?

- Dạ 7 tuần.

-Vào mỗi tối ngày thứ 5 đầu tháng lúc 7 giờ có một tiếng học hỏi về bí tích Rửa Tội. Bà làm ơn nói cha mẹ đứa bé và cha mẹ đỡ đầu đến tham dự tại nhà xứ này.

- Sao mà đời bây giờ các cha khó thế, con theo đạo từ nhỏ tới lớn, rửa tội cho con cái ngay từ nhỏ, nào có bao giờ phải học hành gì đâu. Con không hiểu sao lại phải học, mà học cái gì cơ chứ?

- Vấn đề không phải là học; tôi không thích dùng tiếng học hỏi nhưng không biết chữ nào có thể dùng hợp lý hơn. Thật ra, tôi chỉ chiếu hai cuốn phim trên ti vi, một cuốn 15 phút và cuốn khác 25 phút mà thôi. Không có gì nặng nề cả. Có chăng chỉ là chữ dùng không đúng.

- Con không thể hiểu, nào có chi mà phải mất giờ...


Người ta theo đạo như thế đó! Theo đạo đâu phải chỉ đi nhà thờ và khi rời khỏi nhà thờ là hết, mạnh ai nấy sống. Đức tin đâu phải chỉ tơ lơ mơ nghĩ rằng có Chúa là xong. Chính bởi nghĩ như vậy đã có người hô lên: "Tin đạo chứ đừng tin người có đạo." Biết bao nhiêu người không Công Giáo ở chung khu vực với người Công Giáo đã không bao giờ thèm đặt vấn đề Công Giáo là gì. Theo đạo, không muốn học hỏi về đạo, không hiểu để sống đạo, áp dụng đạo vào trong cuộc đời mình thì cũng như theo đạo cho vui, cho ra vẻ có đạo hoặc a dua cho giống kẻ khác. Nhưng biết sao hơn, trình độ họ như thế, đành chấp nhận trước để rồi cố gắng may ra có giúp họ thêm được chăng... Cha Lành chậm rãi:

- Không sao đâu, tôi nghĩ có lợi chứ không mất giờ. Nếu có chi thắc mắc, sau đó tôi sẵn sàng trả lời bà. Vậy đứa nhỏ con của chị này phải không?

- Thưa cha vâng.

- Chị này tôi đã tới thăm tại nhà thương kỳ sanh cháu nhỏ. Chị có thường đi lễ ở đây không và có thuộc về xứ này không?

- Má con thuộc xứ này, con ở với má con nhưng ít khi đi lễ.


Cha Lành thường thăm những người bệnh thuộc về giáo xứ đang được chữa trị tại nhà thương vào những chiều thứ sáu hàng tuần. Vì xứ quá đông không thể nhớ tên hết tất sả mọi người, cha đành đi thăm tất cả các phòng mà bệnh nhân mang địa chỉ thuộc khu vực giáo xứ. Mấy tuần trước gặp chị Hoan lúc cháu nhỏ mới chào đời được một ngày; sau khi hỏi thăm sức khỏe của đứa bé, ngài hỏi thăm về cuộc sống gia đình và chị ta cho biết chưa lập gia đình; hai người chỉ yêu nhau, có con với nhau và anh ta không có đạo... Hơn nữa, chị ta đã gần ba năm không đi nhà thờ chi hết... Nhớ lại như thế, ngài dịu giọng nhắc nhở:

- Một trong những điều kiện minh chứng đứa nhỏ sau có được nuôi dưỡng trong đức tin Công Giáo không là sự sống đạo, tham dự thánh lễ ít nhất tuần một lần vào chủ nhật của cha mẹ. Nếu linh mục không nhận thấy có gì chứng minh về tương lai đức tin đứa nhỏ sẽ được nuôi dưỡng trong tinh thần và đức tin Công Giáo, ngài không có quyền rửa tội. Chị làm ơn đi lễ ít nhất 8 ngày chủ nhật liên tiếp được không?

- Con sẽ cố gắng...

- Thật ra tôi nói thế không phải cố làm khó chị đâu nhưng là người Công Giáo, chúng ta có bổn phận và trách nhiệm nuôi dưỡng đức tin của những đứa bé được rửa tội. Cảm ơn bà và chị đã ghé qua; nhớ tối thứ 5 đầu tháng lúc 7 giờ tới coi phim và tôi sẽ nói chuyện sau. Riêng chị, chị làm ơn dự lễ chủ nhật; nếu không, tôi chẳng biết cách nào hơn. À, chị có điều gì ngăn trở để chịu phép hôn phối không? Tôi sẵn sàng làm bất cứ gì có thể giúp chị về vấn đề này. Bây giờ hãy về đã, suy nghĩ ít hôm và nếu chị muốn, gọi điện thoại cho tôi.

- Thưa cha con muốn chịu phép hôn phối mà...


Yêu nhau đâu phải cứ cưới nhau là xong, bao nhiêu sự mới lạ chưa bao giờ người trẻ có cơ hội kinh nghiệm trong cuộc sống hôn nhân đang chờ, rắc rối cũng như hạnh phúc. Yêu nhau chỉ một người muốn cưới đâu được mà phải cả hai cùng muốn sống chung, sống cho nhau và vì nhau. Người này coi người kia là trên hết và người kia coi người này không ai hơn. Để được như thế, cần sự học hỏi sao cho biết chấp nhận lẫn nhau, điều hay cũng như điều dở. Hơn nữa, trước khi cưới, nhiều người cứ nghĩ rằng mình sẽ thay đổi được người khác theo ý mình hay làm họ tốt lành hơn theo câu "Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về." Chính mình có những điều muốn bỏ và cố gắng bỏ mà có khi cả đời vẫn không làm chi được thì sao có thể nói tới biến đổi người khác... Ngài nhẹ nhàng giải thích:

- Thế còn anh ấy. Chị hãy bàn với anh ấy đã rồi gọi cho tôi sau. Tôi không muốn chị cảm thấy bị ép buộc phải làm phép cưới. Lý do tôi nói chị gọi cho tôi sau chỉ là muốn biết chắc chắn hai người có thực sự muốn cưới nhau không thôi. Tôi sẽ gặp chị sau. Chào bà và chị.


Mới được hai tuần lễ, bà mẹ đã rối lên gọi cha xứ yêu cầu phải rửa tội cho cháu. Bà ta nói rằng không rửa tội cho cháu bà, bà sẽ đem đi nhà thờ khác rửa tội. Cha xứ vội vàng nói với cha Lành:

- Cha xem rửa tội cho đám ấy, nếu không lỡ họ gọi đức giám mục thì lại phiền cả đám.

- Cha coi, má đứa nhỏ không đi nhà thờ, không có hôn thú, không cưới hỏi, không chịu bí tích hôn nhân chi hết. Tôi đã phải năn nỉ họ đi nhà thờ ít nhất 8 tuần để rửa tội cho đứa nhỏ nhưng mới có hai tuần họ đã kêu rối lên; nào tôi biết làm sao bây giờ...

- Thôi thì cha đánh máy giấy hứa đi lễ chủ nhật, bảo cô ta ký vào đấy rồi rửa tội cho đứa nhỏ.

- May mắn, vậy mà tôi không biết. Linh mục này mới mẻ quá, nhiều chuyện chưa biết...


Cha Lành cảm thấy nhẹ hẳn cả người. Nó không chịu đi nhà thờ mà không rửa tội nó kêu đến giám mục cũng khổ. Nó hứa và ký giấy rồi không chịu làm theo, lỗi nơi nó, lại nhẹ mình... Bỗng ngài cảm thấy buồn buồn; con chiên bổn đạo không đi nhà thờ là lỗi nơi họ nhưng mình là linh mục; phải có lý do nào để họ không đi nhà thờ. Nếu nguyên nhân hoàn toàn nơi họ vì bất cứ lý do gì thì đó dĩ nhiên chuyện của họ; còn nếu bởi dù phần nhỏ nhặt nào nơi mình để họ không muốn đi nhà thờ, mình cũng bị lây trách nhiệm mặc dầu có nhiều trường hợp lạm dụng mượn cớ để chiều theo bản năng cá nhân hoặc vì ham vui mà bỏ bê thành thói quen. Linh mục đâu phải được truyền chức để làm quan theo kiểu ngoài đời, sống chết mặc bay, mà để thông cảm, khuyến khích và cùng họ sống đức tin, thể hiện đức tin trong cuộc đời. Dĩ nhiên, mình mới về xứ đạo hơn hai năm, chưa có chuyện gì để có thể gây nguyên nhân cho người bỏ đi lễ gần ba năm nhưng làm thế nào giúp họ trở lại cuộc sống đức tin phải được đặt ra. Các cha già ngày xưa nói linh mục là con chó nhà Đức Chúa Trời không hợp thời nữa rồi; bây giờ linh mục là kẻ ăn xin, năn nỉ thiên hạ sống đạo. Nói động đến họ, họ kêu lên giám mục; họ bỏ không đi nhà thờ. Không đi lễ nhà thờ này mà đi lễ nhà thờ khác là hãy còn phúc; đàng này họ bỏ luôn viện cớ tại ông cha. Cũng có thể nói, ngày xưa chó có quyền sủa, thời kỳ này chó câm; không câm cũng phải câm bởi năn nỉ còn khó hơn câm. Mà câm, tâm tư áy náy, thôi đành năn nỉ. Nào ai biết đấy là đâu; thiên hạ cứ tưởng làm cha oai lắm...


- Hello, tôi là cha Lành, làm ơn cho gặp chị Hoan.

- Thưa cha cháu Hoan không có ở nhà, con là má của Hoan đây.

- Chào bà, lâu nay bà mạnh giỏi?

- Cảm ơn cha, con cũng thường. Có chuyện chi gọi cháu Hoan đấy thưa cha?

- Vấn đề rửa tội cho cháu nhỏ ấy mà. Hai tuần nay chị Hoan có đi nhà thờ không?

- Dạ có đấy ạ, con nói với cháu và cháu cũng nói rằng cháu thấy cần phải đi nhà thờ trở lại.

- Hình như chị ấy gọi cho cha xứ thì phải...

- Con gọi cho cha xứ chứ không phải cháu Hoan. Từ hôm gặp cha về nhà tới giờ, cháu cứ muốn rửa tội cho đứa nhỏ ngay tức thì. Cháu định đưa đứa nhỏ tới nhà thờ khác...

- Thôi cũng được, vậy bà làm ơn khuyến khích chị ấy đi nhà thờ, và khi chị ta về, nói chị ta gọi cho tôi rồi ghé qua ký giấy hứa sẽ đi nhà thờ đồng thời đem giấy khai sinh của cháu nhỏ để tôi ghi vào sổ.

- Tại sao phải cần giấy khai sinh nữa cha?

-    Bởi chị ta không có hôn thú nên cần phải có giấy khai sinh ghi đúng tên họ theo đó bởi nếu trật sẽ gây phiền toái sau này.

-    Vâng vậy con sẽ nói cháu goi cha sau.

-    Cám ơn bà, chúc bà mạnh giỏi, xin chào.
7

- Nhà thờ Mân Côi.

- Chào cha, con là Hoan đây, cha gọi con có chuyện chi vậy?

- Tôi cần chị ký giấy hứa sẽ đi nhà thờ để rửa tội cho cháu nhỏ. Chị nhớ cầm theo giấy khai sinh để ghi tên tuổi cháu nhỏ vô sổ cho đúng.

- Thưa cha giấy khai sinh nhà thương chưa gửi về; khi nào có con sẽ đem vô.

- Vậy thì chị ghé qua ký giấy trước và khi nào có giấy khai sinh tôi sẽ rửa tội cho cháu nhỏ.

- Sao vậy cha?

- Bởi chị không có hôn thú, tên của em nhỏ phải ghi theo giấy khai sinh. Nếu ghi theo tên của ba em nhỏ theo lời nói bây giờ lỡ sau anh ta không nhận thì phiền phức lắm.

- Được rồi, con sẽ tới ký giấy. Thế tụi con muốn làm phép cưới thì phải làm sao bây giờ?

Câu hỏi của chị Hoan gợi lại nơi tâm trí ngài mối ưu tư về những người Việt sống lưu vong đang phải đối diện với sự xung khắc văn hóa hoành hành nơi tâm hồn dân tộc ở hải ngoại. Sống tại Việt Nam, nền luân lý cộng đồng ràng buộc con người theo khuôn khổ chung qua những ảnh hưởng của quan niệm, ý thức Khổng, Lão. Hơn nữa, vì Việt Nam vẫn sòn là nước nông nghiệp, kỹ nghệ chưa phát triển do đó dân chúng họp thành làng xã và ít khi thay đổi chỗ ở nên mọi người quen biết nhau. Liên hệ quen biết này tạo nên sự cổ võ cho danh dự gia đình và cá nhân do đó làm triển nở nơi con người ý thức luân lý hoặc sự chịu đựng và chấp nhận luân lý cộng đồng như một mẫu mực sống cho cuộc đời. Hôn nhân trong ảnh hưởng luân lý này cũng được bảo vệ nên bền vững hơn. Đàng này, sống ở Mỹ, khoảng cách khác biệt giữa hai quan niệm văn hóa Việt
- Mỹ, hoặc có những ảnh hưởng đối nghịch giữa hai văn hóa nên cần được chuẩn bị cho cuộc sống hôn nhân kỹ càng hơn mong đáp ứng lại đời sống tự lập hoàn toàn tùy thuộc ở hai người. Giáo dục hôn nhân do đó lại trở nên quan trọng. Tuy nhiên, giới trẻ ít ai hiểu do đó thường hay cảm thấy bị phiền hà vì sự chuẩn bị này... Thật ra nhận xét thực tế này khó cho người trẻ chấp nhận vì họ chưa có kinh nghiệm. Biết rằng thế nào cũng làm cho chị Hoan cảm thấy phiền, mà biết sao hơn; cha Lành đành cố dịu giọng nhẹ nhàng:

- Theo luật giáo phận, anh chị cần sáu tháng để chuẩn bị và học hỏi về hôn nhân cùng làm giấy tờ.

- Nhưng tụi con đã định ngày rồi.

- Ngày nào?

- Ngày 23 tháng 2.

- Từ nay đến hôm đó chỉ có 4 tháng. Đó không phải "big deal". Nếu có gì trở ngại sẽ có cách. Thế mấy giờ anh ấy đi làm về?

- Bốn rưỡi.

- Chị làm ơn nới với anh ấy tới gặp tôi đúng sáu giờ tối được không? Bốn rưỡi về, tắm rửa, ăn uống, nghỉ một chút rồi tới nhà xứ.

- Vâng.

- Nhớ đúng giờ, trễ 10 phút tôi đi khỏi.

- Tụi con tới đúng giờ...

... Đôi trẻ ra về sau khi làm bản trắc nghiệm. Cha Lành châm điếu thuốc, ngài cảm thấy vui hơn thường lệ. Được cả đàng nọ lại được cả đàng kia. Nhờ rửa tội cho đứa nhỏ nên hai người đã bàn đến chuyện hôn nhân... Thế nhưng câu chuyện nào có êm đềm xuôi chảy như ngài nghĩ. Bản trắc nghiệm tâm lý cho kết quả hai người cần đi gặp chuyên viên cố vấn tâm lý về hôn nhân. Thời gian này cộng thêm thời gian học hỏi chuẩn bị hôn nhân sẽ bị trễ hơn ngày tháng đã định...


- Hello!

- Tôi là cha Lành, làm ơn cho tôi nói chuyện với chị Hoan.

- Dạ thưa Hoan đây cha, có chuyện gì vậy?

- Tôi muốn gặp riêng anh ấy; chị làm ơn nói anh ấy vô gặp tôi lúc 6 giờ tối nay được không?

- Ảnh đang đây, cha nói với ảnh...

- Chị làm ơn

- Hi cha, có chuyện chi vậy cha?

- Tôi muốn gặp riêng anh tối nay lúc 6 giờ...

- Cha có thể nói trên điện thoại ngay bây giờ, con đang nghe mà...

Hôm trước cha xứ có nói, người đặc trách về việc giúp giáo lý hôn nhân gọi cho ngài cho biết theo kết quả bản trắc nghiệm của cặp này thì anh chàng bị áp lực cưới vợ. Theo sự dò hỏi, chính má chị Hoan hối thúc họ cưới nhau vì danh dự gia đình của bà. Tuổi trẻ yêu nhau, chỉ biết yêu lại không chịu tìm hiểu nên gây ra lắm rắc rối. Thật khó nghĩ nhưng cũng đành cố gắng; cha giải thích:

- Có một vấn đề hơi khó nói nên tôi muốn đối diện với anh cho minh bạch hơn...

- Vâng, con sẽ tới.



Nửa tiếng sau chàng thanh niên bước vô nhà xứ.

- Chào cha,

- Chào anh, hôm nay sao làm về sớm thế?

- Con mới đổi việc nên về sớm hơn.

- Cháu nhỏ khỏe không?

- Dạ, cháu vẫn bình thường.

- Công việc mới thế nào; có khá hơn không?

- Cũng thế nhưng dễ chịu vì giờ làm ban ngày lại không sợ bị đóng cửa hãng.

- Cũng may đó, dạo này đâu dễ kiếm việc...

- Cha muốn gặp con có chuyện chi đó cha?

- Theo như kết quả bản trắc nghiệm tâm lý cho biết, anh hình như bị áp lực nào đó để lập gia đình với Hoan... Anh nhận thấy thế nào?

- Đúng, kỳ làm bản trắc nghiệm con cảm thấy thế nhưng bây giờ thì không.

- Thật sự, đó trở thành cái phiền. Anh hiểu, người ta căn cứ trên kết quả bản trắc nghiệm... Như thế, chuyện xảy ra hơi phức tạp... và họ đề nghị anh chị gọi điện thoại cho tòa giám mục lấy hẹn với chuyên viên cố vấn về hôn nhân. Như anh hiểu, tôi muốn câu chuyện xảy ra êm đẹp và mau mắn cho anh chị nhưng không biết làm sao bây giờ ngoại trừ chính anh chị giải quyết. Đây là số điện thoại văn phòng cố vấn hôn nhân; anh chị gọi lấy hẹn, sau đó nói cho tôi biết. Anh chị không phải trả tiền đâu, cứ yên trí...

- Vâng, để con về tính xem...

Thương cho đôi trẻ gặp chuyện rắc rối ngoài ý muốn. Cuộc đời, ai cũng thế, - cha Lành châm điếu thuốc, ngả lưng trên dựa ghế trầm ngâm nhìn làn khói- đâu phải cứ muốn là được hoặc không muốn mà tránh thoát. Tuy những chuyện rắc rối nếu nhìn theo khía cạnh khác, được huyền nhiệm xảy đến cách vô tình để huấn luyện thêm cho con người trưởng thành hơn và đem lại lợi ích cho cuộc sống hơn sau này, nhưng mấy ai ý thức như thế. Nhớ lại thời kỳ lấy bản trắc nghiệm tâm lý tại Baton Rouge, thày Lành chỉ giỡn chơi sắp xếp mấy bức tranh thành một câu chuyện kết thúc cho có vẻ khác thường để rồi kết quả đưa lại: có tính chất hiếu chiến, hiếu thắng, và phải đi gặp chuyên viên tâm bệnh trị liệu. Dĩ nhiên, thày Lành ngày ấy lý luận mình sinh trưởng trong một nước nghèo, thiếu môi trường phát triển, ai nấy phải tự lo tranh sống. Rồi sau năm 1975 lại phải chiến đấu với sự sống còn của cuộc đời - sao che mắt công an, nào đi làm không dám lấy tiền công cho tiện bề đào thoát; rồi những lần đối diện giữa cái sống và cái chết, hoặc giữa tù tội hay cắn răng chịu những đau đớn thân xác để chạy thoát đã tạo nên nơi thày khả năng sinh tồn, tranh sống cao hơn người thường - thế mà thay vì được nhận ra năng lực ấy lại phải đi điều trị. Đời chi lắm cảnh trái ngang! Tuy nhiên, không gặp chuyên viên tâm bệnh trị liệu không được vì nhà trường đòi giấy chứng nhận thời gian tối thiểu 6 tháng, mỗi tuần gặp một lần. Trong cái rủi có cái may; 26 tuần chấp nhận chẳng đặng đừng ấy đã giúp cha Lành ngày nay nhận thức được tâm tình cảm thông, xoa dịu bớt những vết thương lòng đồng loại chẳng may vấp phải... "Không hiểu Chúa muốn gì cho đôi trẻ; chỉ xin Ngài giúp cho họ sự chịu đựng để vượt qua những rắc rối ngoài ý muốn này;" ngài thầm thì.

Mới sáng sớm, má chị Hoan đã gọi lại cầu cứu:

- Con Hoan nó nói không hiểu tại sao mỗi lần có chuyện cần đến Giáo Hội, Giáo Hội lại cứ đạp nó xuống bùn đen; nó muốn đổi đạo, không muốn là người Công Giáo nữa.

- Bà làm ơn nói chị Hoan gọi cho tôi được không?

- Vâng, nó đi đâu ấy từ sáng sớm, lúc nào cháu về, con nói cháu gọi cho cha. Ô, có tiếng xe, hình như cháu đã về; cha chờ chút... Đây thưa cha, cháu Hoan.

- Chào cha.

- Chào chị Hoan, khỏe không?

- Con bình thường, thưa cha con đang muốn khùng lên; ngày tháng lỡ cỡ, tiền bạc hao tốn chẳng được việc chi.

- Hôm qua anh ấy có nói chuyện chi với chị không?

- Cũng lý do ấy nên mới lỡ cỡ; chán, chán quá rồi cha ơi, con không biết sao nữa!

"Có ở trong chăn mới biết chăn có rận," có đối diện với thực tế rắc rối nơi tâm trạng không muốn chấp nhận thực tại mà chỉ muốn giải quyết theo ý mình mới thấy cảnh phiền hà tâm tư. Ai không một lần lâm vào cảnh trên đe dưới búa, lưỡi kẹp giữa hai hàm răng! Trong những trường hợp như thế, dù làm theo đe cũng bị đập choẹt mà làm theo búa cũng nát tan bởi đụng chạm. Thôi thì biết sao hơn, tốt nhất sao cho tránh khỏi bị kẹt giữa hai đối phương: người ra luật và kẻ dưới sự thống trị của luật. Nếu theo luật, 95 phần trăm chắc chắn đẩy người khác vào đường cùng sẽ sinh ra những bất mãn không thể ngờ. Không theo luật, mình sẽ bị "bố" chẳng sớm thì chày; do đó chỉ còn cách để chị Hoan nói chuyện với giám mục. Mà khổ nỗi, muốn gửi người gặp giám mục xin chuẩn không theo luật phải có lý do chính đáng. Đàng này, nếu không được học hỏi về hôn nhân kỹ càng, ai biết đâu tương lai của họ sẽ ra sao vì ít nhất 50 phần trăm những cặp hôn nhân trên đất Mỹ đã tan vỡ. Thôi thì đành liều để giám mục khuyên chị ta bởi có nói thêm chị ta cũng chẳng thèm nghe. Cha Lành cố lấy giọng nhẹ nhàng:

- Chuyện xảy ra nào ai muốn đâu! Chị biết, tôi muốn mọi sự đơn giản nhất nhưng kết quả ngoài tầm tay. Tôi đề nghị chị gọi cho đức giám mục để trình bày với ngài...

- Được, con sẽ gọi.

- Nhưng không được nói với ngài là tôi nói cho chị biết. Chị mà nói tôi nói là tàn đời cả cha lẫn con. Nhớ rằng khôn thì phải kín miệng. Tất cả tùy sự khôn khéo nơi chị mà thôi...

Từ ngày về làm phó xứ Mân Côi tới nay, qua những lần chiếu phim học hỏi về bí tích Rửa Tội cũng như rửa tội, cha Lành lần nào cũng gặp một số cha mẹ không có phép hôn phối. Đa số lý do chỉ vì cha xứ không chấp nhận làm phép cưới trước 6 tháng. Luật địa phận chuẩn bị, học hỏi hôn nhân 6 tháng dĩ nhiên nào phải tự trời rơi xuống nhưng được đặt ra vì lợi ích cho cuộc sống hôn nhân 40 năm, 50 năm, 60 năm hoặc may mắn thì hơn. Bỏ ra 6 tháng để chuẩn bị, học hỏi hiểu biết thêm để tránh bớt những điều đáng tiếc có thể xảy ra trong đời sống lứa đôi do sự thiếu hiểu biết hoặc kinh nghiệm nào có chi thiệt thòi mà lại mang nhiều lợi ích thiết thực. Dĩ nhiên, kinh nghiệm nào không phải trả bằng một giá mắc mỏ nhất là kinh nghiệm lứa đôi. Những kinh nghiệm trả giá mắc mỏ thật ra hãy còn chịu đựng được, trái lại có những kinh nghiệm trả giá cả một đời. Khi chuẩn bị cho những cặp hôn nhân đã sống chung với nhau lâu ngày vì lý do bất mãn hoặc cản trở nào đó không thể làm phép cưới từ thời mới sống với nhau, cha Lành khuyến khích họ coi 4 cuốn băng video về vấn đề hôn nhân; không có cặp nào là không nhận thấy đã bao lâu nay, những vấn đề thật nhỏ nhoi, đơn giản nhưng lại là nguồn gốc của những rắc rối lớn lao trong đời sống gia đình do sự chung đụng giữa vợ chồng và con cái... Đồng thời ngài cũng nhận ra, những kinh nghiệm ấy ngài không thể có được và dầu có muốn nói với họ, ngài cũng không thể giải thích hay hơn hoặc ít nhất là tương đương với những người đã có kinh nghiệm sống bậc vợ chồng.

Có những người nhận xét về thực tại lứa đôi thời nay đem so sánh với ngày xưa rồi kêu ca, chán nản vì hiện trạng đổ vỡ của gia đình. Cha Lành cảm thấy thương cho họ bởi những nhận xét nông cạn, nghĩ rằng thời nào cũng phải giống thời nào. Một nguyên nhân quan trọng đưa đến đổ vỡ nơi cuộc sống gia đình ngày nay có thể là hiện trạng tâm não bệnh hoạn. Bác sĩ, các nhà khoa học mới nhận ra qua thí nghiệm đưa đến kết quả rằng khi người mẹ có bầu mà uống rượu, đứa con trong bụng say gấp đôi đồng thời chính chất rượu tàn phá bộ óc của đứa bé. Bao nhiêu lâu rồi nào ai biết, và bao nhiêu lâu rồi những người mẹ có bầu đã uống bia, uống rượu; thế thì bao nhiêu người vừa thoạt sinh ra đã có những bộ óc bệnh hoạn bất thường nào ai có hay. Vì vậy những đổ vỡ nơi cuộc sống, nơi gia đình đâu phải người ta muốn thế; đâu phải tại họ muốn thay lòng đổi dạ mà chính từ nơi tâm não bệnh hoạn. Hơn nữa, nào có ai chấp nhận mình bệnh hoạn hay chỉ tìm bất cứ lý do nào đó để bào chữa, để kéo phần phải về mình. Thật ra, kiếm lý do để kéo phần phải về mình đã có thể là cá tính của người có tâm não bệnh hoạn vì người bình thường đúng nhận là đúng, sai nhận là sai. Đời người nào không nhiều sai lầm; kinh nghiệm nào không phải trả giá hoặc không đụng vô lửa sao biết lửa nóng.

Làm thế nào để dung hòa giữa sự thiếu nhận thức được giá trị của thời gian 6 tháng chuẩn bị hôn nhân và đồng thời giúp cho họ chấp nhận học hỏi thêm những điều lợi ích cho tương lai lứa đôi vẫn luôn luôn là mối ưu tư nơi tâm trí cha Lành. Ngài không thể chấp nhận kiểu trả lời vắn tắt điều kiện 6 tháng hoặc lôi luật ra bắt người khác tự động tuân theo không cần giải thích. Hai phần ba những cha mẹ có con rửa tội từ ngày cha về làm phó xứ đã không cưới hỏi theo luật Công Giáo bởi không thể nuốt trôi sự chờ đợi của 6 tháng tha thiết mới mẻ cách xa này. Dĩ nhiên, họ quen nhau cả năm trước hoặc hơn - như thế nên ngầm hiểu họ tưởng đã biết đủ mọi sự về nhau; - tuổi thanh niên nơi đất nước tự do hiểu sai nghĩa mà - thế thì đâu cần chi 6 tháng tìm hiểu. Ai khi đang rối lên vì yêu với thương không nghĩ là 6 tháng thừa thãi! Một ngày không gọi điện thoại cho nhau đã như cả năm cách biệt phương chi những 6 tháng đối với con mèo đói nhìn cục mỡ liếm môi nuốt nước bọt. Thật ra họ đâu biết 6 tháng này không phải tìm hiểu về nhau mà tìm hiểu chính mình có khả năng hoặc trưởng thành đủ để quyết định bước vào cuộc sống hôn nhân chưa, hoặc cá tính mình ra sao. Rồi trên thực tế, sống chung đâu luôn luôn tuyệt vời như mới quen nhau hoặc như thời gian hẹn hò, mới cưới. Họ đâu đã biết chi đến những rắc rối sẽ xảy ra có thể chỉ vì ngủ ngáy lớn quá người phối ngẫu chịu không nổi hoặc chỉ vì những thói quen vô tình trở thành nguyên nhân giết chết tình yêu đôi lứa...

Nỗi thống khổ của thực tại dân Chúa đè nặng trên tâm trí người linh mục trẻ. Kiếm cách nào, bám víu vào đâu, làm sao... làm sao... Những câu hỏi mang theo hai tiếng "làm sao" không có câu trả lời rõ ràng. Lắm lúc có dò hỏi một vài người thì lại thường gặp những bộ óc quyết đoán quá non nớt, thiếu cái nhìn sâu rộng để cho rằng chỉ có ý kiến hay quan niệm của mình là tuyệt vời, toàn hảo. "Không thể hiểu được," đôi khi ngài lẩm bẩm, "chính mình đã không toàn hảo thì không có điều gì mình nghĩ có thể toàn hảo, hoặc cuộc đời mình đã sai lầm nhiều thì có thể điều mình đang cho là đúng cũng có thể sai lầm. Chúa ơi! Người có vợ có chồng không cần lo lắng trong khi kẻ độc thân cứ rối lên vì lo cho họ, nhưng biết sao hơn!..."

Nỗi đau khổ của những người sống trong hôn nhân nhưng thiếu hiểu biết về những điều cần thiết trong cách cư xử giữa vợ chồng cũng làm ngài ưu phiền không kém. Bao nhiêu người đã gọi điện thoại để than phiền về chồng, về con hoặc về vợ. Có đề nghị họ đi gặp những nhà chuyên môn thì ai cũng nghĩ mình có thể giải quyết được tất cả hoặc ráng chấp nhận cho qua... Kết quả của những cuộc hôn nhân gượng ép vì vui lòng cha mẹ, hoặc vì bất cứ lý do gì là cả một địa ngục cuộc đời. Thà rằng họ không bằng lòng bấy giờ nhưng sau đó yêu nhau, chấp nhận nhau thì không sao. Đàng này, ngày này qua ngày khác những đè nén chấp nhận chồng chất. Làm sao mà dám mở miệng khuyên kẻ khốn khổ vui vẻ lên sống hạnh phúc với cái hỏa ngục của họ! Làm sao có thể tự lừa dối mình mà nói vì Chúa thôi ráng chấp nhận... Dĩ nhiên mình không bị sống trong cảnh đau khổ gượng ép ấy mình đâu có bị sự thực phũ phàng xâu xé. Tuy nhiên, mới chỉ nghe những lời than thở đã muốn nát bấy tâm can thì người sống trong thực trạng ấy phải chấp nhận ghê gớm thế nào. Mở miệng nói không được, lờ đi không xong để rồi tâm trạng bị đay nghiến vì những đau khổ dân Chúa phải chịu do sự thiếu hiểu biết mà tan nát lòng. Thế mà vẫn phải đóng bộ mặt vui tươi với kẻ vui rồi lại cũng "vui" với kẻ buồn mới cả là một sự trái ngược.

Đôi khi cha Lành hậm hực với chính mình vì đã lỡ hiểu biết. Ngài thầm nghĩ, "Thà mình ngu quách cho đỡ cảm thấy đau thương... Chúa có thấu chăng, bao nhiêu tội lỗi đã sinh ra bởi sự thiếu học hỏi!..." Nghĩ mà bực, bực đến khùng được. Có nói ra, người ta cứ nghĩ rằng họ biết hết mọi sự. Ôi! chỉ có dốt nát mới có thể tin rằng mình biết hết mọi sự, không cần tìm hiểu thêm.

Cũng chính vì không chịu tìm hiểu thêm để chỉ nghĩ mình là đúng với những quan niệm, kinh nghiệm có được từ thời xa xưa, biết bao nhiêu những điều đáng tiếc đã và đang xảy ra không những cho chính mình mà còn cho cả thế hệ sắp tới. Thường thì các bậc cha mẹ chỉ biết than lên con cái khó dạy, chạy đua theo xã hội mới mà không hề bao giờ đặt vấn đề phải làm sao và như thế nào để nói cho con nghe. Có người hô ầm lên nào là tuổi trẻ mất gốc, tuổi trẻ chạy theo thời. Nào có lạ gì, mỗi ngày 6 tiếng nơi trường Mỹ, hấp thụ văn hóa Mỹ, được đào tạo nơi môi trường Mỹ thì sao có thế sống theo tâm tình và tâm lý người Việt chưa bao giờ được dạy bảo. Hơn nữa, sống nơi xã hội tạp chủng này, luân lý cộng đồng kể như bị mất hẳn mà người ta cứ nói về những đặc tính cá biệt thay vì những mẫu mực luân lý căn bản chung! Sự giáo dục con cái lại càng cần nhiều cố gắng tìm hiểu của cha mẹ mà nào được mấy ai đặt vấn đề như thế; ấy là chưa nói đến sự thực hành những vấn đề được suy nghĩ để giáo dục, giúp con cái hiểu biết thâm về dân tộc với luân ly… Chỉ than với thở, không hiểu than thở giúp ích gì cho giới trẻ..?
 8

Một hôm nhân dịp tới thăm một gia đình người quen, đang nói chuyện với cặp vợ chồng, một em bé gái cỡ 13, 14 tuổi vừa mở cửa bước vô, người mẹ đã vội lên tiếng:

- Huyền ơi, con có mái tóc đẹp quá; giống như đứa chết trôi! - Bà mẹ gọi con gái cố ý để cha Lành nhìn thấy.
Con bé phụng phịu quay ngoắt đi... Thấy thế cha Lành mỉm cười bênh vực:

- Có sao đâu, đó chỉ là kiểu tóc thời trang...

- Nhưng trông ngứa mắt quá...

- Trông ngứa mắt bởi nó không để tóc giống mình hay mình không dám chải tóc dựng đứng như đứa chết trôi?...

Bà mẹ bắt đầu than thở!

- Tóc tai, quần áo, tụi trẻ ăn mặc không giống ai hết; chán quá, con với cái...

- Vấn đề đầu tóc và quần áo không lạ gì. Ai cũng thế, tâm lý chung muốn được người khác chấp nhận hoặc muốn thuộc về một nhóm hay giới nào đó. Tụi trẻ đi học tại nhà trường; bạn bè chúng đều như thế; nếu khác với những người chung quanh sẽ bị cô lập hoặc không được chấp nhận và sinh ra mặc cảm không giống ai. Cũng như, dù muốn dù không, mình sống trong xã hội sẽ bị ảnh hưởng xã hội.

- Chúng không còn biết gì về giúp đỡ gia đình, tối ngày ăn xong đi chơi...

- Thế anh chị có chia cắt rõ ràng bổn phận của từng đứa cho chúng không? Có giải thích sao cho chúng nhận biết thế nào và phải làm sao không?

- Cha xem, có nói, chúng đâu có thèm nghe; thật là con chưa lớn đã kể như mất...

Cha Lành ngắt lời:

- Chắc chắn rằng mất nếu không tìm cách nào để khuyến khích chúng sống có trách nhiệm hơn. Có điều e rằng mình nói chúng không hiểu rồi cứ tưởng chúng hiểu mà không làm hoặc mình chỉ ra lệnh mà không giải thích cho chúng hiểu thế nào hoặc thực tập cho chúng làm, hoặc thế nào là hay, là dở, nên hoặc không nên...

- Chúng có thèm nghe mình đâu cha?

- Chúng nó không nghe mình hay mình không nói kiểu chúng có thể hiểu và hợp với chúng mà lại chỉ nói bóng nói gió, móc máy như vừa rồi... Hơn nữa, cứ cái lối "ngày xưa tao thế nọ, ngày xưa tao thế kia..." thì có lẽ ông nội chúng cũng không thèm nghe chứ chưa nói gì đến chúng!

- Biết làm sao bây giờ. Tụi con thì bận công ăn việc làm tối mặt tối mày; về đến nhà, ngập ngụa bày hàn đủ mọi nơi mọi xó. Cha coi, chồng thì vớ lấy lon bia ngồi coi tivi; còn mình nào như đánh đô vật, thu dọn, nấu ăn mệt thở không ra hơi còn giờ nào mà nói với tìm hiểu. Hò chúng rát cả miệng, bỏng cả cổ; thôi thì làm quách cho xong... Thương con, con đâu có biết lại phiền cả lòng... Đành ráng cho qua ngày tháng rồi tới đâu thì tới; đời cua cua máy đời cáy cáy đào chứ biết sao hơn!...

- Chính vì thế mới cần nhiều cố gắng. Thà chấp nhận bỏ ra vài lần, mỗi lần nửa tiếng để từ từ chỉ dẫn cho con cái và rồi từ đó tự chúng làm những chuyện lặt vặt có phải hơn là ngày nào mình cũng ráng cho qua...

- Cha bảo làm thế nào bây giờ?

- Thì đi làm về vài ngày đầu, chấp nhận ăn cơm trễ thêm nửa tiếng; gọi hết tụi nhỏ về, nhẹ nhàng từ từ chỉ dẫn chúng sắp xếp lại nhà cửa, sách vở, đồ chơi, quần áo, phòng ốc của đứa nào phải thu dọn sạch sẽ cho đứa đó. Chén bát dơ chúng ăn bày ngập ra, chỉ cho những đứa lớn rửa chén thế nào cho sạch... nhẹ nhàng, nhã nhặn dạy chúng làm. Rồi quần áo dơ bỏ vào máy giặt, cho xà bông vô, vặn nút thì dù đứa 6, 7 tuổi cũng biết, cần gì phải lớn hơn. Đã bao giờ chỉ chúng làm chưa hay cứ rối lên "Ngày xưa tao 10 tuổi đã phải nấu cơm." Tự nhiên 10 tuổi mà biết nấu cơm à? Có ai vừa sinh ra đã biết hết mọi sự... Thương con không đúng cách là giết con từ từ... Cứ trách chúng hư mà chẳng bao giờ chỉ cho chúng những điều tốt lành là ăn gian nói láo...

Nãy giờ được cha Lành bênh, Huyền cứ tủm tỉm cười; vô tình bị mẹ bắt gặp nên lại bị lôi vào tấn công tiếp:

- Kìa cha coi, con bé người đã ốm tong ốm teo mà cái ống quần ôm sát... giống như đôi đũa...

- Ăn thua gì, đó chỉ là mốt thời trang. Thời trang nay còn mai mất. Vấn đề căn bản là sự giáo dục bằng cách thực hành lối sống ngay trong gia đình. Vớ vẩn, cứ mở miệng ra là chê bai, hò hét; con cái chúng sẽ cố tránh gặp mình thì làm sao dạy chúng, làm sao còn có cơ hội mà nói cho chúng nghe. Anh chị gặp ai luôn luôn chê trách mình, anh chị có muốn đến gần hoặc nói chuyện với họ nữa không? Thế ai cho tiền nó mua cái quần ống túm và cái áo rộng thùng thình ấy?

- Tiền đâu mà cho; cha coi, áo của con nó lấy mặc; còn quần thì chả biết nó may hay mượn ai may túm lại...
Cha Lành hướng sang phía cô bé:

- Huyền, quần con mua hay may vậy?

- Thưa cha con may hai cái ống lại...

- Con giỏi đó, thế mà má con cứ chê riết thôi...

Quay lại cặp vợ chồng ngài tiếp:

- Chị thấy không, tụi nó thích gì là làm cho bằng được. Chị đã bao giờ tìm hiểu chúng nó có thích cái nhà này không hoặc có thích cái gia đình này không? Nếu chúng nó không thích thì tại sao, chị đã được nghe chưa? Dạy con cái mà không tìm hiểu tâm lý chúng thì cũng như cuội; có ráng đến muôn đời thì mất chúng vẫn hoàn mất...

Vấn đề giáo dục không những cần thiết cho giới trẻ mà ngay cả cho những người đang sống trong bậc vợ chồng. Cũng chỉ vì thiếu hiểu biết hoặc không chịu học hỏi thêm nên những thái độ vô tình đã gây nên những mầm mống đổ vỡ. Đôi khi hoặc vì sống với nhau qua thời gian dài mình nghĩ rằng người bạn đời thông cảm hết cho mình nên sinh ra vô ý hoặc những buồn bực đâu đâu đã ảnh hưởng thái độ của mình vô tình làm phiền lòng người phối ngẫu dễ dàng đưa đến tan nát...

Ngày...tháng...năm...


Kính cha,
Cha có biết, cứ mỗi lần con cầm bút để viết thư cho cha là đang buồn, chán nản đến tột cùng, cha có hiểu vì sao không? Con cũng chẳng muốn kể lể bởi những lời nói, những ý nghĩ trong lúc buồn thì không thật, không vui, hoặc quá thật mà con chẳng nói ra được trong lúc vui cha ạ!
Cha có biết, đây là lần đầu nếu con nhớ không sai, con kể ra cho cha nghe, con không có ý định sống hết cuộc đời của con với ông chồng này, con đã có ý định bỏ đi từ lâu, nhưng vì con nghĩ tới lũ nhóc, con không đành tâm để chúng không có ba, con chấp nhận những sự nhục nhã, con đã quyết nhịn và hy sinh bản thân cho 5 đứa con hay ít ra có 6 người được vui, nhưng cha Lành à! Con đã nghĩ rất kỹ nếu con tiếp tục sống chung với anh ấy chưa chắc đã giúp ích gì cho lũ nhóc, bởi chúng cũng bất mãn ba chúng nhiều điều ngay cả con Hà cũng vậy. Theo con hiểu thì nó cũng có ý định bỏ đi bởi nó nói với con, "Tại sao những việc ba làm ba thấy đúng, mà mẹ làm thì ba cho là sai" (cùng một sự việc) con cũng chẳng biết nói sao; Anh Huỳnh mỗi lần đánh con thường đánh trước mặt mấy đứa nhỏ chẳng nể nang, hoặc chửi con những lời quá đáng. Có ai chửi vợ mình bằng những lời nói như: "Ông đập vào mặt bây giờ... không ưa ngọt chỉ ưa nặng" hoặc "Không lo làm việc chỉ lo đú đỡn với nhân viên" hoặc "Cái thứ lì lợm, ương ngạnh, hỗn láo như ông già cô vậy" hoặc "Đi với đĩ còn sướng hơn... v.v..."
Cha có biết, ngày rời khỏi nơi đó con đã nghĩ con phải cố gắng bằng hết sức con để làm lại từ đầu; con đã bỏ lại sau lưng quá khứ, con đã chỉ ôm theo những kỷ niệm đẹp đẽ nhất, con mong mỏi những kỷ niệm đẹp sẽ làm hành trang và niềm an ủi khi chung sống những lúc không được vui, những khi buồn phiền. Nhưng cha hiểu không? Sự nhịn nhục cũng chỉ có giới hạn, những lời nói của anh ấy con chỉ để ngoài tai được vài lần, con không thể nào vui vẻ khi mỗi ngày phải nghe anh ấy chửi, anh ấy xỉ nhục và điều tệ hại nhất con không thể nào không ghê tởm mỗi khi phải ngủ chung với anh ấy... Cha Lành, cha có hiểu không?
Cha kính, có lẽ giữa hai con đường mà con phải chọn, con nghĩ con nên chọn con đường nào ít tủi nhục, ít nước mắt, có nghĩa là con phải bỏ đi, con nghĩ với cuộc sống không có anh ấy, con cũng chẳng muốn người nào khác nữa, bởi theo con, con lấy anh ấy từ lúc còn là con gái, không vướng bận với một tấm lòng thành thật cộng với sự thương yêu kính trọng, cái thuở ban đầu đẹp đẽ ấy đã chẳng giúp cho con có hạnh phúc với chồng, thì bây giờ có người đàn ông nào dám cưu mang 5 đứa nhóc, và rộng lượng bỏ qua cho con với cái án "bỏ chồng hay bị chồng bỏ," điều này con dám hứa với cha dù không có anh ấy trong cuộc sống, cũng chẳng có người đàn ông nào xen vào cuộc sống của con sau này, và con cũng đã nghĩ tới cuộc sống của con sau này rất chật vật vì phải vật lộn với công việc để mà nuôi con cái, nuôi thân.
Hiện giờ con cũng có nhiều dự tính nhưng chẳng biết có thành công hay không. Cha hãy cầu nguyện cho con nhiều nha! Dầu sao thì cha cũng là người mà con coi trọng nhất, cha cũng đừng khuyên con bỏ ý định ra đi, bởi con đã nghĩ kỹ và đã làm hết sức mình những điều gì mà con làm được. Ở đây con buồn lắm vì chẳng có bạn, chẳng có người để tâm sự nên nỗi buồn mỗi ngày một chồng chất. Trước đây, mỗi khi giận anh ấy con thường nói chuyện với cha hoặc anh Hạnh, hoặc nói chuyện vui với Khả, Tùng, Nhàn, Hân cũng giúp con khuây khỏa mà vui sống.
Tới đây con ngừng bút hãy cầu nguyện cho con mỗi ngày, con cũng cầu chúc cha sống vui và khỏe mạnh.
Tạm biệt cha,
Nguyễn thị Lan.

Thật ngỡ ngàng! Cha Lành lững thững vô nhà bếp pha ly cà phê với tâm tư chùng xuống. Một nỗi buồn thấm thía phủ lấp ngài. Đôi vợ chồng tốt lành, dễ thương thế mà không ngờ... Bao lâu nay đâu ai có thể nghĩ chuyện có thể xảy đến như thế; xét theo bề ngoài thì cho rằng vợ chồng họ hạnh phúc lắm vậy mà những âm ỉ nội tâm bởi thái độ vô tình không để ý đã tạo nên những đau khổ không thể chịu đựng nổi đưa tới quyết định sống riêng, cắt đứt tình nghĩa... Như thế, đâu phải chỉ một gia đình này, mà còn bao nhiêu gia đình khác không ai hay biết...

Cha Lành bưng ly cà phê trở lại bàn viết, đốt điếu thuốc và ngả lưng vô dựa ghế để tâm tư bông lung hoang dã... Sao dân Chúa gặp lắm cảnh đau khổ thế! Đau khổ vì đức tin hay đau khổ vì cuộc đời. Những cảnh đau khổ này bởi đâu mà có? Bởi rơi vào hoàn cảnh không thể tránh thoát hay bởi sự thiếu hiểu biết về cuộc đời? Làm sao có thể khuyến khích họ biết thêm về chính họ để giúp cuộc sống hôn nhân hạnh phúc hơn, phá tan những hiểu lầm bởi sự vô ý thức, son đẻ của sự thiếu hiểu biết đáng tiếc...


- Hello...

- Làm ơn cho tôi gặp chị Lan.

- Dạ con đây! Cha khỏe không?

- Cũng thường thôi, vừa đọc xong thơ chị, buồn quá! Phỏng có cách nào giải quyết khá hơn không?...

- Không còn cách nào hơn cha ạ; con đã suy nghĩ kỹ rồi...

- Chị định trở lại đây hả?

….- Không đâu, về lại đó con của con hư mất. Con sẽ đi nơi khác... Cha xem, nơi ấy tụi con nít chỉ tranh đua nhau theo chúng theo bạn mà không chịu học hành. Rồi nào băng đảng nọ kia, ăn cướp, cần sa ma túy làm sao con có thể dạy con cái được...

- Chị có muốn tôi nói chuyện với anh ấy không?

- Không, cha nói chỉ thêm rắc rối, con càng bị phiền hơn! Thứ người vô tâm mà!

- Tôi nghĩ đó không phải là vô tâm mà là không hiểu. Chị cũng thế, anh ấy cũng vậy và bao nhiêu người khác nữa bởi có dành thì giờ để học hỏi về ảnh hưởng của những chuyện nhỏ nhặt đó nơi đời sống vợ chồng đâu mà để ý. Lúc chuẩn bị thành hôn có nói đến học hỏi là cứ rối lên lâu với mất giờ, còn lo chưa kịp yêu thì già sớm mà; đến giờ mới vãi tội ra! Tôi đề nghị, chị nên dành riêng giờ nào đó tới một nơi thanh vắng cầu nguyện, suy nghĩ và đặt vấn đề lại nơi chính chị, những gì mình có thể chấp nhận, những gì không thể và tự đặt vấn đề mình là người có cá tính như thế nào v.v... Hy vọng chị có thể tìm ra lối giải quyết đơn giản và thực tế hơn. Thế chị tính chừng nào sẽ đi?

- Chưa đâu cha, có sớm cũng phải ít tháng nữa xem sao.

- Nếu anh ấy biết để thay đổi...

- Thay đổi sao được, bao nhiêu năm rồi, xưa nay vẫn thế!

- Chị đã nói chuyện với anh ấy chưa?

- Nói làm gì, nào có thay đổi chi được mà nói.

- Chị chưa nói sao đã biết là thay với không!

- Khốn chưa nói anh ấy đã quát lên con nhịn sao được.

- Không bạ lúc nào nói lúc ấy được; chị nên đề nghị vào thời gian xác định rõ ràng sao cho thuận tiện, và nói rõ không có mục la lối; đây là chuyện quan trọng; đồng thời khi người này nói người kia phải im lặng... La lối chỉ chứa đựng một sự che dấu, lấp liếm nào đó thôi.

- Được rồi, để con thử xem... Cha có biết nhà con đang ở vùng đấy không?

- Không, có chuyện gì vậy?

- Con để "message" lại trong máy cha không nghe à? Nhà con cũng chưa gọi cho cha sao?

- Chưa, anh ấy đang ở nhà ai?

- Nhà anh Hạnh.

- Để tôi gọi anh ấy. Thôi chào chị, cứ từ từ, không nên nóng nảy chỉ sinh thêm phiền. "Bye then."

- Vâng, bye cha.

Sáng sớm vừa trở lại văn phòng sau khi dâng lễ điện thoại đã reo vang...

- Nhà xứ Mân Côi...

- Chào cha, cha đang làm gì thế? Cha dâng lễ chưa?

- Ai đó, sao gọi sớm vậy?

- Cha quên rồi à! Con là Huỳnh, mới tới tối qua; mời cha đi uống cà phê.

- Ở đâu vậy? Tôi muốn gặp riêng anh cỡ 15 phút.

- Con đang pha cà phê ở nhà anh Hạnh. Cha tới ngay được không? Sau khi uống cà phê, cha chở con tới nhà anh Nhàn và cha con mình nói chuyện với nhau trên xe vì hôm nay con có nhiều chuyện phải lo cho xong để chiều lên phi cơ...

- Được, tôi tới ngay.

Đoạn đường thường đi sao hôm nay trở nên ngắn thế!... Cha Lành chưa biết phải mở đầu câu chuyện thế nào với Huỳnh! Vấn đề được đặt ra phải thật tế nhị nếu không sẽ chạm tự ái của Huỳnh, và như thế đã chẳng giúp ích gì lại sinh lắm rắc rối cho vợ chồng anh ta. Mãi bận suy tư xuýt chút nữa ngài vượt đèn đỏ gây tai nạn nếu tài xế chiếc xe đâm ngang với quyền ưu tiên không nhấn còi...

Mới xa cách ít lâu mà Huỳnh trông khác hẳn, có lẽ công việc kỳ này bận rộn hơn mặc dầu khấm khá hơn; anh chàng có vẻ mệt mỏi, kém hoạt bát hơn ngày nào. Trên đường về nhà Nhàn, Huỳnh trầm ngâm...

- Dạo này anh chị làm ăn khá không?

- Được lắm cha nhưng hơi mệt và cô đơn. Con cảm thấy như thiếu cái gì ấy. Ở đấy con không có người nói chuyện; cha biết, con khó kiếm người nói chuyện nên lẻ loi kinh khủng. Kỳ ở đây may mắn còn có cha, giờ dọn về đó con thấy thiếu hẳn...

- Gia đình anh bây giờ thế nào...?

- Cũng thường thôi, đôi khi cũng có những rắc rối nho nhỏ xảy ra như cha đã thường biết...

- Sao bảo qua đèo từ khuya rồi mà...

- Cứ qua được cái đèo này thì lại gặp cái đèo khác; cuộc đời mà cha; kinh nghiệm dẫu chỉ qua một lần nhưng lại quá nhiều kinh nghiệm.

- Hình như kỳ này anh gặp chuyện gì khó xử hoặc có những chuyện gì cần sự cố gắng quá mức chịu đựng của anh làm anh có những thái độ khác thường...

- Có sao đâu cha, chỉ hơi mệt...

- Ngày xưa anh hoạt bát, lanh lợi; dạo này anh ít nói, có vẻ trầm ngâm... Hình như có chuyện gì ưu tư hay lo lắng đang ảnh hưởng rất nhiều tới anh...

- Cũng có thể con nhận không ra...

- Nếu tôi không lầm thì có lẽ có chuyện rắc rối nơi gia đình mà anh không để ý hoặc đang cố tránh nghĩ tới...

- Dĩ nhiên là có nhưng cha hiểu con là người thế nào; hơn nữa, con vẫn thường nói với nhà con là công việc buôn bán của tụi con đang lên nên phải cố giữ cho nó hơn hoặc bằng...

- Vậy còn vấn đề gia đình thì sao? Anh chắc còn nhớ tôi vẫn thường quan niệm công việc buôn bán làm ăn nên hay không tùy thuộc vào gia đình. Nếu gia đình thuận hòa, buôn bán mới phát triển được...

- Cha biết tính nết và quan niệm con từ lâu rồi, bao giờ gia đình mình chả phải là hơn hết...

Biết Huỳnh không muốn nhắc đến chuyện đang xào xáo trong gia đình có thể vì ngại nói, nhưng cha Lành cũng cố gắng khơi nguồn; biết đâu Huỳnh có cơ hội thố lộ tâm tư...

- Tôi biết chứ, thứ người như anh, có cho lên ghế điện thì cũng không bao giờ có thể có ý nghĩ lìa bỏ gia đình, nhưng anh khác; người khác đâu thể giống anh. Chị ấy cũng thế, đâu giống anh...

- Đúng, nhà con ương, lại thích cãi gàn, thích làm theo ý mình...

- Có thể rằng khi mình nói người khác ương, chỉ làm theo ý riêng thì mình đã ương, đã không chấp nhận nghe hoặc để ý đến ý kiến của người khác trước; nói như thế có nghĩa mình ương trước...

- Cha nói cũng có lý.

- Anh thấy rõ điều này, anh có thể xếp đặt chương trình làm chuyện lớn nhưng nếu không có chị ấy thực hiện, chương trình của anh không sao tiến hành nổi. Tuy nhiên, tính toán trên lý thuyết là một chuyện mà áp dụng vào thực tế lại là điều cần nhiều mánh khóe nhỏ nhặt. Người xếp đặt chuyện lớn không thể làm những chuyện nhỏ nhoi, lặt vặt không tên vì nếu làm thế sẽ phá vỡ chuyện lớn. Anh không có chị ấy, mọi chuyện sẽ hỏng to và tôi dám nói thật với anh, anh không phải là thứ người lo những chuyện lặt vặt...

- Những chuyện nhỏ nhoi có ăn thua gì đâu cha...

- Không những ăn thua mà còn ăn thua đậm...

- Nếu để ý những chuyện nhỏ sao tính được chuyện lớn...

- Thí dụ, khi anh gặp những chuyện bực bội làm tâm tư phiền não, thái độ anh sẽ một phần nào đó khác thường; anh sẽ không để ý được lời nói lúc đó; tuy nhiên nó gây rất nhiều ảnh hưởng tai hại đến chuyện lớn... Anh cũng nhận thấy đôi khi người khác nói những câu vô tình làm phiền lòng mình thì khi đó mình cũng như thế, vô tình mình làm phiền lòng người khác. Anh là con người sống chết với một quan niệm và khó có thể bị lung lạc nên nghĩ người khác cũng thế. Anh không nghĩ tới chuyện thái độ hoặc lời nói nhỏ nhặt ảnh hưởng gia đình nhưng có thể chính vì thế đã sinh ra chuyện gì rắc rối nơi gia đình làm anh mất vui như xưa...

- Cha nói có lý...

Thấy Huỳnh vẫn cố tình muốn dấu chuyện xáo trộn trong gia đình bằng câu trả lời yếu ớt vả lại Lan không muốn ngài nói cho Huỳnh biết rằng mình đã hiểu chuyện nên ngài đành phải nhờ đến 4 cuốn video để khuyến khích Huỳnh có cơ hội tìm hiểu thêm những cách giải quyết đa số rắc rối trong gia đình.

- Tôi đề nghị anh, nếu có thể, đặt lại vấn đề thái độ của mình kỳ này thế nào... Dành ra ít phút nhìn lại chính mình có lẽ sẽ giúp gia đình anh hạnh phúc hơn. Có 4 cuốn video về vấn đề hôn nhân của tòa giám mục tôi mượn về chiếu cho những cặp hôn nhân đã sống với nhau nhiều năm xem; ai cũng thấy rất lợi ích. Đại khái bốn cuốn này nói về những vấn đề nhỏ nhặt thường ngày cần để ý có thể là nguyên nhân của những rắc rối xảy ra giữa vợ chồng do sự không nhận ra giá trị cá nhân mình do đó người ta trở nên khắt khe hoặc mặc cảm, hoặc thái độ mình ảnh hưởng tới con cái hay làm suy sụp tình yêu đôi lứa; cũng như làm thế nào để bảo vệ và phát triển tình yêu vợ chồng. Tôi sẽ sang băng cho anh một bộ nhưng không nên cho ai mượn bởi như thế không hợp pháp. Anh nhớ không nên cho ai mượn, tôi sẽ gửi cho anh...

- Được, cha yên trí, con chỉ một lời; cha copy cho con; con không cho ai mượn đâu.

Ba tuần sau khi Huỳnh về, cha Lành nhận lá thư khác từ Lan:

Ngày... tháng... năm
Kính cha,
Sau khi nói chuyện với cha qua điện thoại con đã mất hết mấy ngày để suy nghĩ. Cha bảo "Hãy cho anh ấy cơ hội". Theo con, có lẽ không phải cơ hội được dành cho anh ấy mà là cho con; con mới cần có cơ hội để xét lại chính mình, phải chăng cuộc sống là một bi trường kịch cho mỗi người, và con người là những kịch sĩ đa dạng, nên vở tuồng dù là hay hoặc là dở thì diễn viên vẫn phải hoàn thành nhiệm vụ của mình! Đôi lúc con thấy mình quá nhỏ nhoi, quá ích kỷ. Con luôn nghĩ cho bản thân mình, con quên con còn cha mẹ, còn anh chị em, còn họ hàng, và bạn bè chung quanh. Con có cần phải nghĩ đến họ không? Mỗi khi cơn giận tràn qua che mờ cả lý trí con chẳng còn nghĩ đến ai, bây giờ trong lúc bình tâm, cơn giận đã qua, con mới biết mình đã nghĩ sai.
Cha Lành, cha có biết con đang tự trách con? Phải chi con được sanh ra cách đây 50 năm về trước; phải chi con được lớn lên và được giáo dục cùng sống trong khuôn mẫu "tam tòng, tứ đức" có lẽ con sẽ an phận mà sống. Tiếc thay con hoặc anh Huỳnh đã được sinh ra ở thế hệ này, nhất là văn hóa Mỹ đang đồng hóa mình nên những tư tưởng bảo thủ trong con đang dần thoái hóa. Cha có biết cách đây 5 năm thôi, tư tưởng của con về đời sống ngoài xã hội và trong gia đình rất khác với bây giờ, bất cứ việc gì xảy ra, ngay cả những lời nói, những cử chỉ, hành động của ông chồng đều được con làm ngơ, con đã dùng nhiều thì giờ vào việc dạy dỗ lũ nhóc như đọc kinh mỗi tối, học tiếng Việt và đã sưu tầm nhiều mẫu truyện để kể cho chúng nghe nhằm mục đích hướng dẫn chúng, dậy chúng những bài học về cách làm người, cách sống ở đời... Cho đến bây giờ hầu như con đã xao lãng và bỏ bê mọi sự, con chỉ mong làm tiền và tiền, động một chút buồn phiền bực tức là nghĩ tới sống tự do, cuộc sống không có sự áp bức ràng ruộc nào cả, và ý tưởng của sự bỏ đi những năm trước là một điều cấm kỵ, là một lỗi nặng thì bây giờ con cảm thấy bình thường như là thay đổi chỗ ở hay đổi một chiếc xe. Con thật đáng trách cha nhỉ!
Cha Lành, cha có biết bây giờ đang ngồi đây viết thư, con cảm nhận mình thật sự là người của 10 năm về trước. Con mong sao cho có được sự can đảm, sự nhịn nhục để vượt qua những thử thách mà cuộc sống đã dành sẵn cho con.
Tới đây con ngừng bút bởi chẳng biết phải viết gì thêm. Kính chúc cha vui khỏe.
Kính chào cha,
Nguyễn thị Lan.



Đọc xong lá thơ, cha Lành cảm thấy vui vui vì nghĩ khi Lan đặt vấn đề lại, may ra nàng đổi ý định tách riêng chăng. Nhưng sau những lời giải thích và so sánh thực tại với tâm tình con người trong cảnh giao thời văn xóa, quan niệm của nàng, ngài lại cảm thấy Lan không đơn giản như những gì được viết nơi thư. Phải chăng niềm mơ ước có được tâm tình của 50 năm về trước là những gì đã mất nơi Lan bởi người ta chỉ mơ ước điều mình không có hay không còn nữa. Giải thích về văn hóa, tâm tình người Việt khi nói chuyện với người Mỹ, cha Lành hay dùng câu mà những người Mỹ trên 60 tuổi thi thoảng hay nói: "We lost our good old days" để chứng minh cho họ dễ hiểu.

Trong nhận xét về lối sống, tâm tình người Việt, cha Lành thấy dân Việt tỵ nạn mang tâm tình giống như người Mỹ khoảng thập niên 1930 trở về trước. Trải qua 60 năm, thế hệ bây giờ của người Mỹ đã mất hẳn tâm tình này trong khi người Việt lại đang sống chung đụng với họ phỏng chỉ còn được mấy năm người mình sẽ đã hoàn toàn bị đồng hóa.

Cuộc sống ảnh hưởng tâm tình và cách cư xử của con người. Văn minh vật chất cung cấp thêm tiện nghi, thời giờ suy tư, đồng thời lại cắt bớt thời giờ nói chuyện hay sống chung của những người trong gia đình bởi công việc khác nhau đòi hỏi giờ giấc khác nhau. Thêm nữa, khi có giờ rảnh một mình người ta thường coi ti vi cho đỡ chán mà ti vi lại chỉ đưa lên những vấn đề ít khi xảy ra, lâu dần ảnh hưởng thành quan niệm chung... Ai cũng chỉ nghĩ đến cá nhân mình nhiều hơn do đó cá nhân trở nên khó chấp nhận người khác hơn nếu không được học hỏi, hiểu biết.

Hơn nữa, sự chấp nhận, cảm thông nơi một người không thể giải quyết được chi hết mà ngược lại có thể chỉ là đầu mối cho sự cách biệt. Một người chịu chấp nhận nhưng không thấy gì thay đổi trong cuộc sống chung giữa vợ chồng để rồi những khó chịu, bất mãn do thái độ vô tình, thói quen đến độ trở thành cố tật chồng chất lâu ngày nơi người bạn đời tạo nên sự không thể chịu đựng nơi mình giống như trái bóng càng ngày càng được bơm căng quá độ, chỉ cần một mũi kim xích mích nhỏ bé cũng khiến nó tan tành.

Mối ưu tư về tương lai gia đình người Việt tỵ nạn sẽ đi về đâu trong cuộc sống chung đụng văn hóa nơi mảnh đất xô bồ này càng đè nặng tâm hồn người linh mục trẻ... "Thời Chúa xuống thế làm người được mấy ai chấp nhận; nếu mọi người chấp nhận đâu Ngài bị đóng đinh trên thập tự. Chúa bị đóng đinh, chết đi, sống lại rồi lên trời; dân mình không những đang bị đóng đinh, bị chết mà còn bị đồng hóa dần. Trời đâu để mà về nơi sự ảnh hưởng văn hóa qua khác biệt này đang tàn phá tâm tư nếu không có được sự học hỏi thêm…” Cha Lành lặng lẽ suy tư… Cây thập tự hình như lay động nơi bóng mờ do ánh nến chập chờn… Cây thập tự trong cuộc sống hôn nhân…
 9
- Con khổ quá cha ơi...

 Người đàn bà nấc lên, hai tay ôm mặt nước mắt dàn dụa. Cha Lành đẩy hộp "tissue" tới gần chỗ chị ta... Nén tiếng thở dài, người đàn bà cố nín tiếng khóc có lẽ vì sợ vọng tới phòng thơ ký bên cạnh. Nhìn tấm thân mảnh mai đến độ tưởng như chỉ một cơn gió nhẹ thổi chị sẽ có thể biến thành chiếc diều bay phất phới, một ý nghĩ đến với cha Lành; không hiểu sao với thân xác như thế này, chị ta có thể chịu đựng được những đau khổ chồng chất... Thế rồi, ngài cảm thấy miệng ngọng lại, khó thở; một tâm trạng bối rối xót xa do chưa biết chuyện gì đã xảy tới. Tiếng nấc của người đàn bà như những nhát vồ đập mạnh vô ngực mình... Đôi vai chị ta rung theo tiếng nấc rồi gục xuống bàn... Âm thanh đứt quãng như bị ép nghẹt bởi nỗi khổ đau cuộc đời dồn nén đè nặng khiến thân hình uốn cong...

 Cha Lành sợ nhất là tiếng khóc của người đàn bà. Ngồi dựa vô thành ghế, cảm giác tê tái phát xuất nơi lồng ngực lan dần toàn bộ châu thân... Ngài ngồi lặng đó, bất động, đôi mắt xót xa nhìn cánh vai tiếp tục rung... nơi trí óc ngài tiếng gào thét nào đó đang vang lên: Đừng khóc nữa, đừng khóc nữa... Chị khóc làm tôi cuống lên rồi... Tim tôi sắp nổ tung... Chúa ơi! Nói chị ta đừng khóc nữa, nói đi, con sợ quá... sợ người ta khóc... Sao mà cuộc đời độc ác thế... Sao... làm chị ta khổ như thế này... Tôi van chị, tiếng thét âm thầm vút cao chói lói... Tôi van chị!

 Thế mà ngài vẫn phải ngồi đó; nói đúng ra người cứng ngắc không dám cử động; nếu cử động có thể ngài sẽ khóc theo hoặc không để cơ hội cho chị ta khóc. Chỉ còn mỗi đôi mắt; đôi mắt chết lặng của tâm hồn đau xót hằn lên... Đôi mắt biết nói, nó bảo cho người đối diện rằng ngài cũng đang đau khổ cực cùng; ngài cũng đang là kẻ chiến bại dưới sức mạnh vũ bão độc ác, khắt khe của cuộc đời... Ngài cảm thấy bất lực, chẳng còn hơi sức nào mà vươn lên nữa trong áp lực của những khốn khổ cuộc đời được phát ra bằng những tiếng nấc tắc nghẹn này.

 Một lúc sau, người đàn bà ngẩng lên, rút liên tiếp mấy miếng tissue lau mặt; nhìn thấy cha Lành đang trong trạng thái bất động, cặp mắt đầy vẻ khổ ải nhìn mình, chị bật thành tiếng:

 - Cha...

 Chợt bừng tỉnh, cha Lành buông nhẹ hơi thở:

 - Tôi xin lỗi; tôi biết chị đau khổ lắm nhưng chẳng biết nói sao...

 Người đàn bà chừng như cảm thông nỗi khó xử của ngài:

 - Con làm phiền cha quá... nhưng...

 Chị hơi cúi xuống che dấu nét bối rối.

 - Ít nhất chị đã cảm thấy dễ chịu hơn...

 - Con không muốn khóc... nhưng chịu không nổi...

 - Không sao, khóc được làm cho mình nhẹ nỗi đau thương; đó là điều nên... Thế chuyện gì đã xảy ra?

 Vài giây yên lặng trôi qua, người đàn bà đặt cả hai cánh tay lên bàn, ngón trỏ phải di di trên mặt kiếng... Đoạn thở dài não nuột, mắt theo dõi ngón tay di động vô định hướng:

 - Chúng con vừa cãi nhau một trận khủng khiếp... Bao nhiêu đồ quý trong nhà anh ấy đập vỡ sạch. Nguyên do cũng chỉ vì sự đòi hỏi của xác thịt bẩn thỉu. Đôi khi con muốn được chết đi cho khỏi bị dằn vặt...

 - Chuyện gì dằn vặt chị?

 - Con nghe lời cha mẹ lấy chồng đã 8 năm và có hai đứa con nhưng cho đến nay con vẫn không thể thương anh ấy được... Nhiều lần con ao ước anh ấy đi ngoại tình để con kiếm cớ ly dị... Con không thể chấp nhận cuộc sống vợ chồng như thế!

 - Như thế nghĩa là thế nào?

 - Cha nói như thế cái gì?

 - Thì cuộc sống vợ chồng của chị!

 - Con không thương được anh ấy.

 - Đã hai đứa con rồi mà không thương nghĩa là thế nào?

 - Nói con ngại...

 - Một điều tôi muốn nói rõ cho chị biết, những gì chị nói ra nơi đây sẽ được giữ lại nơi phòng này ngoại trừ chị nói với những người khác.

 - Con nói chuyện vợ chồng khó nói...

 - Thì dùng chữ "ăn ở" nếu chị không muốn dùng chữ khác.

 - Vâng. Mặc dầu tụi con ăn ở với nhau nhưng con cứ cảm thấy là chuyện ép buộc, con phải chấp nhận điều con không muốn, điều con ghê tởm... Con... con chỉ là thứ dụng cụ bị chấp nhận để cho anh ấy thỏa mãn...

 Rồi chị ta cúi xuống, tiếng nấc tức tưởi bị dồn ép bởi hai bàn tay bịt chặt lấy miệng vẫn bung ra, hai cánh tay dường như cố gắng kẹp chặt lấy ngực không cho lấy hơi vô e sợ tạo thành tiếng khóc...

 Cha Lành nín thở, có gì đặc nghẹt nơi cổ họng trong khi tay chân cứng đơ thừa thãi không biết giấu bỏ đi đâu. Chúa ơi! Khi trên Thánh Giá Chúa có phải cố gắng nín hơi không dám khóc không? Con chiên Chúa đó, đau khổ cùng cực mà cũng không dám khóc; muốn khóc nhưng vẫn phải cắn răng chặn lại; mà càng chặn lại càng cảm thấy khốn khổ... Người đàn bà nín lặng, xụt xịt lấy tissue lần nữa lau nước mắt... Chờ chị ta lau xong, cha Lành chậm rãi:

 - Chị có cho rằng chuyện ăn ở giữa vợ chồng là điều tội lỗi không?

 - Không, nhưng con bị bắt buộc và cảm thấy ghê tởm làm chuyện ấy. Con... con luôn luôn cảm thấy mình bị ức hiếp như một con vật bị hành hạ cho chết dần chết mòn dầu mình không muốn.

 - Chị ghê tởm anh ấy?

 - Con ghê tởm hành động khi phải ăn ở với anh ấy thì đúng hơn.

 - Nhưng chị đã lấy anh ấy mà!

 - Vì con sợ bố mẹ con buồn; con không muốn mang tiếng bất hiếu không nghe lời cha mẹ!... Nên giờ khốn khổ... Con phải làm sao bây giờ? Cha nói đi, con muốn khùng lên rồi...

 Dường như bao nhiêu sự chịu đựng bấy lâu nay được bầy tỏ nơi ánh mắt van lơn của người đàn bà muốn tìm một giải đáp. Cha Lành thấy lòng quặn lại! Biết nói sao đây Chúa ơi! Cuộc đời sao lại có những cảnh huống thống khổ như thế này. Những giọt nước mắt lại tiếp tục lăn trên gò má chị ta.

 Cha Lành cố lấy giọng nhẹ nhàng:

 - Chị có bao giờ nghe đến "Marriage Encounter" chưa? Tôi nghe những người đi dự về nói rằng rất lợi ích cho đời sống hôn nhân của họ.

 - Có nói về gì thì nói, chẳng hy vọng đâu cha bởi người ta thương nhau; còn con, con có thương được anh ấy đâu!

 - Nhưng ít ra nó cũng giúp chị biết thêm những gì cần nơi sự liên hệ giữa vợ chồng trong đời sống hôn nhân của chị.

 - Thưa cha, còn gì nữa đâu mà liên với hệ!

 - Thế chị có nghĩ rằng tình nghĩa vợ chồng trong bấy nhiêu năm chung sống làm chị khó có quyết định rõ ràng không?

 - Con chỉ thương anh ấy, không, thương hại thì đúng hơn chứ con không yêu được anh ấy. Cha hiểu con muốn nói gì không?

 - Tôi hiểu; vậy chị có thể nghĩ rằng hãy còn cách nào đó có thể giúp chị sống hòa hợp và chấp nhận anh ấy một cách thân thiết hơn không?

 - Chẳng còn gì để hy vọng. Con đã suy nghĩ kỹ rồi. Con cố ép buộc mình chịu đựng để chu toàn bổn phận của một người vợ, nhưng con không thể gò ép tình cảm của con.

 - Chị nói tình cảm nghĩa là thế nào?

 - Con không thể yêu được anh ấy thế nên con không cảm thấy chút gì hạnh phúc về chuyện vợ chồng ăn ở với nhau mà trái lại...

 - Chị nghĩ thế nào về tình yêu?

 - Con chỉ có thể cho tất cả với người yêu thôi...

 - Chị đã bao giờ đặt vấn đề về mẫu người mà chị yêu phải thế nào không?

 - Con không đặt vấn đề nhưng...

 - Chị có người yêu!

 Đôi mắt người đàn bà chớp lẹ hơn và bừng sáng lên nhưng lại ngồi im bất động như có một mãnh lực nào đó bao trùm khiến toàn bộ thể xác lẫn tâm hồn bị định hướng về một khung trời nào đó...

 - Con yêu anh ta, con sẵn sàng chấp nhận tất cả.

 - Hai người có bao giờ gặp nhau không hay chị chỉ yêu một chiều?

 - Chúng con gặp nhau nhiều lần trước khi con nghe cha mẹ lập gia đình. Tụi con...

 - Anh ấy thế nào?

 - Anh ấy có vợ và hai đứa con...

 Cha Lành im lặng chờ...

 - Tụi con... yêu nhau, con không thể dùng bất cứ gì để so sánh được.

 - Chị nói yêu nhau nghĩa là sao?

 - Tụi con làm chuyện ăn ở... Khi chấp nhận lấy chồng, con nghĩ rồi nó cũng qua và con nghĩ mình có thể chấp nhận được...

 Người đàn bà buông câu đứt quãng và ngồi im như cố đè nén sự phũ phàng đang dấy động.

 - Chị có thể so sánh chuyện ăn ở ấy với chuyện giữa vợ chồng không?

 - Có thể nói một đàng là hạnh phúc tuyệt vời, đàng khác là cảnh đày ải khốn nạn, ép buộc...

 - Thế nếu cuộc sống hôn nhân tiếp tục kéo dài vì hai đứa con, chị có cách nào để giải quyết tình cảm của mình đối với chồng chị không?

 - Con chẳng biết sao nữa... Con suy nghĩ quá nhiều rồi mà không biết phải làm gì.

 - Vậy chị có thể bỏ ra một số thời gian nói chuyện với người chuyên môn có thể giúp chị không?

 - Cha nói người chuyên môn như thế nào?

 - Chị đang mang một tình cảm bị gò ép trái ngược; nghĩa là một phần nào đó chuyện ăn ở với anh ấy ảnh hưởng nặng nề nơi tâm trí và có thể nói đã gây nên một tâm bệnh. Tôi nghĩ chị cần được giải tỏa nỗi đau khổ tâm tư này.

 - Đâu ai có thể hiểu được!

 - Ít nhất tôi cũng hiểu được phần nào, nhưng tôi không phải là nhà chuyên môn về tâm bệnh...

 - Cha muốn nói bác sĩ tâm bệnh học?

 Thái độ chị ta đầy vẻ thất vọng và giận dữ vì thấy mình bị cho là mang tâm bệnh...

 Biết sao đây! Được nuôi dưỡng, lớn lên nơi một môi trường nghèo khổ phải tranh sống với tất cả khả năng của mình. Kinh nghiệm thực tế này làm mình tưởng không ai có thể giúp mình giải quyết chuyện tâm tư... Hơn nữa, bởi chịu đựng lâu dần thành quen nên tự mình cũng không dám làm gì để đi đến một quyết định rõ ràng mà cứ gò ép bản thân chấp nhận để rồi khi nào quá sức chịu đựng mới kiếm người than thở... thế nhưng, đâu vẫn hoàn đấy...

 Nỗi thống khổ dồn lên nghẹn cổ cha Lành; áp lực nào đó khiến ngài cảm thấy khó thở, cố đẩy hơi... buông tiếng thở dài... đâu phải một mình chị! Bao nhiêu người rồi mà tôi nào có dám nói ra. Tôi là linh mục, tôi không dám nói sự thật khốn khổ này! Tôi học Giáo Luật, tôi biết rằng bất cứ cuộc hôn nhân nào mà bị ép buộc hoặc lấy nhau ngoài ý muốn của mình mà vì cha mẹ, vì tiền bạc, hoặc vì đã lỡ chuyện nọ chuyện kia đều không thành ngoại trừ sau này hai người thực sự thương nhau, chấp nhận sống cho nhau và vì nhau, dâng hiến cho nhau. Còn ngoài ra... Nhưng khổ nỗi, người Việt mình không dám sống cho chính mình mà còn bị ảnh hưởng bởi danh dự gia đình, giòng họ, còn tiếng đời đàm tiếu... Cho nên chấp nhận thì không thể chấp nhận được, thương yêu cũng không, mà trái lại ghê tởm; ghê tởm nhưng cứ phải cắn răng chịu những điều mình không muốn vì tiếng tăm, danh dự gia đình, thứ giết người cả xác lẫn hồn để rồi... Đêm nào cũng chấp nhận... bị chồng hiếp... khốn nạn quá... Thật cái văn hóa cứng ngắc giết người lần mòn từ thể xác đến tâm hồn mà đâu nhận ra rằng người Việt mình bị ảnh hưởng giáo điều của Khổng học một cách máy móc; cứ cho rằng nhất Tàu nhì ta mà; để rồi vâng lời không cần biết phải hay trái, nên hay không nên và tưởng rằng đó là hiếu thảo; không làm theo ngay cả những điều sai lầm của cha mẹ thì lại bị nói rằng bất hiếu... Chúa ơi, dân Việt tỵ nạn chúng con mang thánh giá bùn, vác không được, bỏ không xong. Chúng con là nạn nhân của hai nền văn hóa không có điểm nối tiếp mà tương phản. Chúng con hoan hỉ theo Chúa với tâm hồn mở rộng bình đẳng giữa con người với con người trước mặt Chúa trong khi mang cả một nền giáo dục in sâu vào tâm não những luật lệ giáo điều cổ xưa không bình đẳng cũng chẳng bình quyền. Chúng con đang mang một thân xác với nền văn hóa cũ, ý thức cũ trong khi sống nơi một xã hội mới, ngập đầy ý thức mới. Chúng con như những chiếc bình cũ đang được đổ vào bằng những thứ rượu mới của đất văn xóa tạp chủng này... Thà rằng cứ ở Việt Nam, cứ tin tưởng một cách mê muội rằng nhất Tàu nhì ta để nghĩ chỉ có một đường duy nhất là cắn răng chấp nhận sự đày đọa và đổ lỗi là Chúa phạt để lê lết những ngày khốn khổ cho qua kiếp người thì dễ chịu đựng hơn... Sự hiểu biết thêm có phải cũng là tội lỗi trước mặt Chúa hay sự mê muội không biết để sống trong cảnh đày đọa làm vui lòng Chúa hơn?... Con biết nói sao đây với chị ta! Chúa có biết rằng con đang muốn hét lên: "Bí tích hôn nhân của chị không thành" bởi chị lấy anh ấy vì cha mẹ chứ không phải vì chính anh ấy và chị. Chị nói đúng, chị không thương yêu anh ấy nên chị ghê tởm chuyện ăn ở với anh ấy. Tôi hiểu, tôi biết tâm lý đàn bà mà. Chị đã thương ai thì ăn ở với người đó là một hồng ân, một hạnh phúc tuyệt vời, mà chị không thương ai thì chuyện ăn ở là điều ghê tởm. Người đàn bà đã thương ai thì họ hiến dâng tất cả tâm hồn lẫn thể xác, họ hy sinh tất cả cho người ấy, có băm nát họ ra, họ cũng lấy làm vui sướng; mà đã không thương ai thì đừng hòng xớ rớ dù chỉ chút lông chân họ. Vậy mà... chị phải chấp nhận để chuyện chị ghê tởm xảy ra hằng đêm chỉ vì cha mẹ, vì cái gọi là hiếu, vì cái gọi là danh dự... Tôi hỏi chị, hiếu hay là giết lần mòn con mình theo ý mình thích; hiếu hay là mặc cảm bị chồng hiếp luôn luôn đè nặng tâm trí. Còn danh dự, danh dự gia đình hay nấm mồ khắc nghiệt chôn sống con người không cho lên tiếng nói lại bắt phải vui cười trong khi tâm hồn ngập đầy hãi sợ khổ não. Danh dự gia đình hay tội lỗi bởi sự thiếu hiểu biết mà ra? Dùng cái gọi là danh dự gia đình, cái văn hóa loài người đặt ra để giết chết một tâm hồn, chẳng có tội lỗi nào đáng ghê tởm hơn, nhờm gớm hơn!... Cha Lành, cha nói sao đây? Nói ra sự thực, cha sẽ bị kết án rằng xui người ta phá phép bí tích hôn nhân mặc dầu cha biết phép bí tích không thành. Người ta sẽ nói cha cấp tiến, rối đạo bởi không để cho họ chôn sống từ từ chị này. Không nói ra, cha đánh lừa dân Chúa; cha ậm ừ cho qua, cha đã vào phe với những kẻ giết người lần mòn bằng sự nhân danh danh dự, nhân danh văn hóa, nhân danh luân lý dân tộc và còn nhân danh chính Chúa bởi sự hiểu biết một cách mù mờ về Phúc Âm, bởi ngây ngô nhai lại "Những gì Thiên Chúa đã trói buộc, loài người không được phân ly" không thèm suy nghĩ, quên rằng Chúa ban cho con người tự do mà chính Ngài cũng tôn trọng... Chị ta đâu có tự do hoàn toàn để chấp nhận lập gia đình mà vì sợ cha mẹ buồn... Cha Lành... cha đang phải đối đầu với sự thực phũ phàng! Cha đứng giữa Giáo Luật và văn hóa, Giáo Luật và danh dự, Giáo Luật và sự thiếu hiểu biết... Đừng trốn chạy... Cha không được phép trốn chạy! Chúa Giêsu nói lên sự thực, quân Pharisiêu giết Ngài. Cha nói lên sự thực theo Chúa, dân tộc cha sẽ giết cha, mọi người, bạn bè, cha mẹ, anh em họ hàng, toàn bộ những người quen biết sẽ kết án cha; cha sẽ bị khổ hơn là bị bằm nát... Chọn Chúa hay chọn sự kính trọng mê muội của người khác? Cha theo Chúa hay cha vào hùa với sự tàn ác bởi thiếu hiểu biết? Đàng nào cha cũng khốn khổ. Nói ra cha giết chính cha; không nói ra, cha vào hùa với mọi người giết lần mòn chị này như đã bao nhiêu năm... Lương tâm cha đâu? Cha có dám chấp nhận mình bị kết án vì dám nói sự thật không? Cha không nói lên sự thật, Chúa lên án cha; cha nói lên sự thật, mọi người kết tội cha... Cha theo đàng nào?

 Thấy cha Lành ngồi chết lặng hồi lâu... Người đàn bà cúi thấp đầu như thể chấp nhận mình đã phạm phải lỗi lầm quá nặng để cha không muốn nói lời tha thứ... Nhưng không, ngài đã chẳng trách móc gì, lại dịu dàng hỏi:

 - Hai cháu bao nhiêu tuổi rồi?

 - Một đứa 6, một đứa 4 tuổi.

 - Thế giờ chị tính sao?

 - Con cũng chẳng biết tính sao nữa. Nếu mà không vướng hai đứa con, con đã bỏ anh ấy từ lâu vì mấy năm nay con không chấp nhận chuyện ấy nữa... Đàng khác con không muốn cho hai đứa con của con không có bố; con không muốn sự ra đi của con ảnh hưởng hai đứa nhỏ.

 - Thế tính tình anh ấy...

 - Anh ấy thương con và hai đứa nhỏ, ít khi la mắng hay phiền trách con, nhưng con không thể thương yêu được anh ấy... nên...

 - Tôi không biết phải nói thế nào vì tôi biết rõ dù nói cách nào cũng bị lên án... Tôi nghĩ, điều tốt nhất, tôi đưa chị mượn cuốn sách Giáo Luật, đem về đọc những luật tôi đã ghi số vào một tờ giấy rồi hãy quyết định chị phải hay nên làm gì. Thực ra, tôi tin rằng chị mới nói cho tôi biết may ra chưa được 1/5 nguyên do hay những chuyện xảy ra. Hơn nữa, tôi chỉ có thể nghe chị nói, rồi tóm tắt những chuyện xảy ra theo lời nói của chị để chị có cái nhìn rõ hơn và quyết định cho chính mình. Tôi không đề nghị được gì đâu vì tôi không hiểu rõ vấn đề và sự liên hệ hay tâm tình của chị bằng chính chị trong những hoàn cảnh đã xảy ra... Đây là cuốn Giáo Luật, chị nhớ về đọc kỹ; nếu có gì khúc mắc, gọi điện thoại cho tôi. Bây giờ chị nên ghé vô nhà ai quen rủ người bạn gái về nhà với chị chắc anh ấy phải ngưng đập phá. Nhớ lẹ lên kẻo anh ấy phá hết đồ đạc lại tốn tiền mua sắm.

 - Cảm ơn cha, con về; con sẽ đem trả lại cha sau. Chào cha...

 - Chào chị.

 Cha Lành tiễn người đàn bà ra cửa... Quay trở lại bàn viết, ngài thở ra một hơi dài.. Xin Chúa giúp chị ta tìm thánh ý Chúa qua Giáo luật và sự tử tế của chồng,,, sự yêu thong vào hai đứa nhỏ….. Còn con, nào biết nói chi! Ngài lẩm bẩm.


10

Hôm chia tay với Huỳnh, trên đường về, cha Lành tiện thể ghé thăm một người giáo dân bịnh mới vô nhà thương. Mỗi lần thăm bệnh viện, câu chuyện thực tập ngành tuyên úy bệnh viện lại như cuốn phim diễn qua tâm trí ngài. Kỳ hè sau năm thứ hai thần học ngài tham dự khóa CPE (clinical pastoral education) tại nhà thương Southern Baptist Hospital, New Orleans, LA. Đêm ấy ngài trực phải ngủ lại nơi phòng dành riêng cho tuyên úy. Chẳng may số bệnh nhân tăng lên quá đông làm những phòng chưa được thăm viếng do các tuyên úy khác để lại hơi nhiều, hơn 20 phòng. Sau cơm tối, ngài phải đi thăm cho hết nên về tới phòng ngủ đã hơn 10 giờ khuya. Tắm rửa, thay đồ, đọc kinh, viết "verbatim", chuẩn bị lên giường thì đã nửa đêm tự lúc nào. Bốc điện thoại gọi cho "operator" yêu cầu liên lạc với ngài bằng điện thoại nếu có chuyện cần kíp xảy ra thay vì phát làn sóng đặc biệt tới chiếc "bipper" bởi chiếc bipper đôi khi bắt trùng làn sóng khác đã làm ngài mất ngủ lần trực trước.

Ai đã trực mà không sợ chiếc bipper. Mỗi khi nó kêu lên là tim muốn nhảy khỏi lồng ngực nhất là bipper tuyên úy... Hơn nữa, khí giới độc nhất của tuyên úy chỉ là sự hiện diện của mình và cái miệng mà đa số thì trong những lúc cần kíp, khi mọi sự rối um lên, cái miệng cũng bị líu lưỡi không chịu làm việc hoặc có muốn làm việc cũng không được để rồi tuyên úy chỉ biết đứng đực ra đấy, chơ vơ như câm giữa những người khóc lóc có khi gào thét vì quá thương xót người thân gặp chuyện cấp cứu. Điều làm cho thày Lành ngày ấy khó đối xử là sự khác biệt văn hóa; lại nữa đôi khi đành phải bắt chước gượng gạo kiểu cách diễn xuất cảm thông; - gặp lúc người ta đang đau khổ, khóc lóc, đâu thèm nghe chi; hơn nữa, những người lớn khóc cũng khó nên sự khóc trở thành những tiếng nấc nghẹn dễ đem đến phản ứng nguy hiểm cho cơ thể của những người áp huyết cao hay yếu tim v.v... - thế nên động tác cảm thông không còn phải là cái miệng mà theo như thói quen người Mỹ, ôm họ, vỗ nhè nhẹ nơi vai đấu dịu. Được lớn lên trong nền phong hóa Việt Nam khiến thày Lành cảm thấy ngại ngùng khi phải đụng chạm đến đàn bà con gái, nhưng trong thế đứng tuyên úy ấy, thày đành chấp nhận gượng gạo làm theo... Đúng là chuyện cảm thông cười ra nước mắt và ngây ngô vì khác lối diễn xuất... Không học theo thì đứng đực ra đấy như trời trồng, ngơ ngơ ngáo ngáo chẳng khác gì mới rớt từ hành tinh khác xuống, mà học theo lại càng ngây ngô hơn, giống cái robot thi hành động tác...

Tắt chiếc bipper đoạn trèo lên giường kéo tấm trải mỏng đắp tới ngực định tận hưởng vài phút mát lạnh của hệ thống điều hòa không khí trước khi rơi vào giấc ngủ, điện thoại bỗng reo vang làm thày Lành giật nảy người, choàng choáng chồm dậy chụp ống nghe...

- Tuyên úy trực!

- Bà già nơi phòng số 423 đang khóc không ai có thể khuyên giải được; tuyên úy đến ngay cho...

- Vâng, tôi tới ngay.

Bận quần áo, thắt cà vạt trong những lúc vội cứ rối cuống lên như "bố vợ bị đấm". Nào là chưa bỏ áo trong quần đã thắt dây lưng đành phải tháo ra thắt lại hoặc nhét chỗ nọ, nhét chỗ kia cho áo gọn theo nề nếp; nào là mặc áo trái; nào chưa mang vớ đã vội xỏ chân vô giày hoặc đôi khi còn tệ hơn, giày vớ đóng bộ đầy đủ đến lúc cầm đến chiếc áo khoác mới chưng hửng vì chưa mặc quần dài. Cà vạt nếu lười một chút, lúc tháo ra chỉ kéo rộng cổ chui qua treo lên mắc thì còn đỡ nhưng nếu vì xót xa lỡ nó bị nhăn mà lúc vội quấn qua quấn lại xỏ tới xỏ lui cứ lộn tùng phèo như rợ vô rừng là chuyện bình thường. Quần áo đã thế, đầu tóc thường thì quên chải; vội mà, lúc đã rối lên thì còn tâm trí đâu mà nhớ phải chăm sóc "sắc đẹp" trước gương nơi phòng tắm; thế là đang đi trên đường mới sực nhớ để rồi hai tay vuốt lấy vuốt để. Hôm nào may mắn chịu khó chờ tóc khô hẳn trước khi nằm dài ra ngủ còn đỡ; tắm xong, lau sơ bộ tóc rồi vội trèo lên giường khiến tóc trở thành những hàng chông quen nếp nổi loạn thì có vuốt mấy cũng trở thành bơ phờ... "quái thai tuyên úy".

Những hành lang thinh lặng dật dờ; đây đó các trạm y tá đầy vẻ hiền lành nhân ái của tình người dễ thương - nhưng không kém phần chuẩn bị cho những cơn sôi động bất ngờ trong trường hợp khẩn cấp- trên đường tới phòng 423 như thông cảm phần nào nỗi lòng xao xuyến của người tuyên úy trẻ thực tập nơi nhà thương. Biết nói sao bây giờ! Thái độ phải thế nào đối với bà già đang khóc! Xưa nay, nay xưa, thày Lành rất sợ người nào khóc. Những thăng trầm nơi cuộc sống đã qua tạo nơi tâm hồn thày "sinh chất" chai đá, chịu đựng trong những trường hợp nguy hiểm cần điềm tĩnh, vững tâm. Thế nhưng tính chất chai đá sân si này luôn luôn gục ngã trước bậc thềm nức nở. Gặp ai khóc, thày cảm thấy cuống lên, dù chỉ là mấy đứa trẻ. Nhiều lần thày tự hỏi không hiểu sao các bậc cha mẹ có thể điềm tĩnh, thản nhiên khi con cái họ chành chọe chọc nhau rồi lăn đùng ra la hét. Thày cảm thấy thán phục họ; phục họ vì giữa cảnh hỗn độn rối loạn của những tiếng la hét như muốn đứt hơi phát ra từ những buồng phổi tí hon xuyên qua cửa miệng ngọt ngào nơi nét mặt thơ ngây ấy đã như cấu nát, xé tan cõi lòng vậy mà họ có thể thản nhiên giải quyết... Nhiều lần cảm thấy thương mẹ quá đỗi, thương muốn khóc mà khóc không được, nói thương mẹ cũng không nổi trong cái phong hóa người Việt thời gian ấy, thày Lành chỉ biết ngậm tăm cố đè nén tâm tư sôi động. Mỗi khi mẹ gặp chuyện gì ưu phiền, những tiếng thở dài hoặc đôi lời tâm sự của mẹ đã khiến thày Lành tan nát cõi lòng... không biết tính sao... Thế mà giờ đây phải đối diện với bà già đang khóc...

Kinh nghiệm nơi ngành tuyên úy dạy rằng những dự đoán về tâm trạng và vị thế bệnh nhân chỉ được nhận xét tổng quát nơi mấy giây đầu tiên khi người tuyên úy vừa bước vào cửa phòng bệnh. Mặc dầu nhà thương có khi lên tới vài trăm giường, nhưng không phòng nào giống phòng nào vì không bệnh nhân nào giống bệnh nhân nào và cũng không nên dự đoán bất cứ gì trước khi bước vào phòng bệnh. Thái độ, nét mặt của người tuyên úy cũng phải được kịp thời phù hợp tùy theo sự nhận xét nơi mấy giây đầu tiên ấy. Hơn nữa, vấn đề quan trọng nhất lại là mấy câu mở đầu, giọng nói, âm thanh sao cho hòa hợp với thái độ của mình đồng thời tỏ ra hiểu biết và thông cảm được tâm trạng bệnh nhân... Đó là những bệnh nhân trong trường hợp bình thường.

Đàng này, thày Lành không thăm viếng người bệnh mà là người khóc. Chỉ Chúa biết được bà ta khóc vì lý do gì; điều gì đã là nguyên nhân khiến cho một bà già khóc. Tủi thân vì không ai thăm viếng, vì cô độc chẳng thân nhân, vì đau đớn thân xác, hoặc vì nghèo túng gặp cơn hoạn nạn không nơi nương tựa... lý do... lý do... không ai hiểu được! Y tá đã quen việc mà không sao có thể giúp bà ta ngưng khóc; bác sĩ chuyên môn bó tay thì với cái lưỡi cứng đơ trong cái miệng ngọng ngoẹo tiếng Mỹ nào có thể hy vọng gì! Muốn mở miệng còn chưa nổi nói gì tới làm sao có thể khuyên giải bà ngưng khóc.

Chân tay thày Lành trở nên nặng nề không muốn bước; tâm tư bấn loạn vì không biết tính sao. Lòng thày chùng xuống, chùng xuống khiến đôi vai bị kéo theo và cái đầu nặng nề đè cong cần cổ cúi gầm lầm lũi cầu mong sao đi hoài không tới. Số phòng tăng dần dọc theo hành lang tới cầu thang rồi những nấc thang nối tiếp chồng lên cao... lầu hai, lầu ba, chưa chi đã tới lầu bốn. Trạm y tá chình ình trước mặt khi thày vừa bước qua cửa cầu thang; nó cũng mang không khí thinh lặng, thinh lặng đến nặng nề. Hai y tá trực trầm ngâm trước dãy màn ảnh ti vi thay đổi hình ảnh quan sát từng phòng.


- Chào quí vị, có phải lầu bốn gọi tuyên úy trực cho phòng 423?

- Vâng. Có một bà già khóc hoài không ai biết cách nào giúp bà ta...

- Quí vị có biết tại sao bà ta khóc không?

- Bà ta không chịu nói với bất cứ ai, chỉ xụt xùi khóc. Ai hỏi cũng không trả lời.

- Bà cỡ bao nhiêu tuổi?

- Chừng gần tám chục...

- Có ai ở đó với bà ta không?

- Chồng bà bị mổ để thay pin trợ tim; bà tới giúp ông ta.

- Xin cảm ơn...

"Chúa ơi! Mọi người Mỹ chấp nhận thua cuộc mà con chỉ có thể nói tiếng Mỹ ngọng trếu ngọng tráo lại khác tâm lý, phong hóa; họ đã không thể hiểu thì con càng mù tịt!" Thày Lành thầm nghĩ! Chưa là linh mục đã gặp cảnh trớ trêu như thế này thì khi làm linh mục có muốn trốn thoát cũng không được! Thôi cũng không sao, cứ tới cho qua, mọi người chịu thua thì mình không làm chi được cũng chẳng có gì lạ... Không trốn thoát nổi đành chấp nhận đối diện chứ biết sao hơn... Thày Lành tự kiếm lý do an ủi chính mình để rồi thầm thĩ cầu nguyện vớt vát: "Chúa ơi, mở dùm cái miệng ngọng này ra nói trếu tráo vài câu xin hai chữ an bình sớm sớm còn đi ngủ..."

Vừa được vài bước đã tới phòng 423; bỗng chân thày Lành chùn lại không muốn bước tới gần ngưỡng cửa bởi sợ phải phỏng đoán trong khi đầu óc xáo trộn do bận rộn e ngại. Thế nhưng ngừng cũng chẳng được nữa; hai nàng y tá đang theo dõi người tuyên úy non choẹt miệng ngọng này... và rồi sững sờ ập tới...

Căn phòng trống trơn không một bình hoa hay cánh thiệp. Sát khung cửa kiếng chạy dài bên kia, hai chiếc ghế salon đâu lại. Một mớ mền gối xếp ngay ngắn nói lên chứng tích có người phụ giúp nghỉ đêm. Trên giường bệnh, một cụ già lớn con nằm thiêm thiếp miệng mũi bịt đồ dẫn dưỡng khí giúp cụ thở. Bên cánh phải sát cửa phòng vệ sinh ngay lối vào, bà cụ già tóc trắng xóa vừa xụt xùi vừa cầm bình thủy nước nóng đổ vào ly pha trà...

- Chào bà...

Không có tiếng trả lời trong khi bà cụ vẫn xụt xùi và tiếp tục rót nước, không quay lại, coi như không nghe và không biết có sự hiệu hữu của người ngọng mới tới... Thế là thày Lành đớ ra, đứng ngơ ngơ không biết ăn nói sao cho phải. Tiến thoái lưỡng nan, người ta đã không thèm nói thì dĩ nhiên mình đớ ra bởi ngọng miệng không còn biết nói gì... Cỡ 30 giây sau, 30 giây đằng đẵng nặng nề nghẹt thở, thày mới đánh bạo gợi chuyện:

- Ông cụ đỡ chưa và có cảm thấy khỏe hơn không?...

- Ông ấy không nói được vì dụng cụ bơm dưỡng khí nhưng cũng đỡ hơn nhiều.

Mừng hết lớn, thày Lành cảm thấy thế vì cóc đã mở miệng. Nhưng nói sao và nói gì đây! Mới "sửng" vì không được trả lời giờ lại bị sửng vì cóc đã mở miệng. Từ từ, thày Lành nghĩ, chầm chậm rà rà để tìm lý do; thử nói những chuyện trời mưa trời nắng; con chuột có đuôi dài hơn con mèo... ngớ ngẩn xem sao...

- Bà cụ nghỉ đêm tại đây giúp ông cụ.

Hỏi mà thày Lành phát ngượng cho chính mình. Biết rõ rằng bà cụ ngủ đây giúp ông cụ mà còn hỏi; thật là giả đò dấm dớ, cứ làm ngang như tán em khó tính. Trật người rồi thày Lành ơi, thày thầm nghĩ, đào này thiên hạ chịu thua cả nút rồi đó, y tá, bác sĩ nào phải những tay mơ mà còn tán không được phương chi Mít ngọng tán theo giọng bài hát nào của Phạm Duy: "Trên một cành cao có một tổ kiến, có con đi ra lại có con đi vào, ngày hôm nay nắng yêu em biết bao." Tổ kiến lúc nào chả có con đi ra đi vô mà cũng phải nói lên; trời không nắng thì mưa có gì đâu phải nói lên nắng nên yêu em; vậy mưa thì sao? Thày Lành muốn phì cười với sự so sánh thoáng qua trong óc mình.

- Vâng, cuộc đời nhiều lúc có những cảnh khó thể mang.

Đúng là thánh nhân đãi kẻ khù khờ hoặc không thánh đãi thì cũng may mắn như chó ngáp phải thịt quay! Bà cụ đã chịu nói mà lại nói đúng gút mắc của câu chuyện. Đèn xanh đã bật, thày giả đò vô tình:

- Bà cụ chắc có chuyện gì phiền muộn...

Không hiểu có phải bà cụ càng có tuổi càng thính tai hơn hay cái miệng thày Lành đột nhiên được Thánh Thần cho phép nói tiếng lạ làm bà cụ hiểu rõ ràng để rồi như bị gãi đúng chỗ ngứa xổ một tràng lẫn lộn với tiếng xụt xịt:

- Mấy cái con y tá trẻ chúng nó cứ làm như chúng tôi già rồi không biết gì hết; chúng nghĩ rằng chúng tôi không biết phải lo cho chính mình những chuyện cần thiết mà cứ ra lệnh thế nọ, thế kia... làm cái này, làm cái nọ và phải làm kiểu này chứ không được làm khác ý chúng nó... Chúng nó có nuôi con mới biết lòng cha mẹ khổ cực dường nào và phải vất vả chật vật thế nào mới nuôi được con cái thế mà cứ cho chúng tôi là dốt nát...

À thì ra bà cụ buồn vì mấy chị y tá ăn nói vô tình làm chạm tự ái tuổi già... Nào có lạ gì, quí cụ đã có nhiều thói quen, nhiều kiểu làm riêng của mình có khi từ ba bốn mươi năm trước lại thường cho rằng chỉ có cách ấy mới đúng, mới được, ngoài cách đó ra chẳng còn cách nào hay hơn, tốt hơn. Quí cụ đâu có để ý có nhiều cách khác quí cụ chưa bao giờ thử và cũng không muốn thử dẫu cho những cách đó giản tiện và chẳng những hợp lý, hợp tình mà lại còn kết quả và hợp vệ sinh hơn. Gì chứ điều này thì thày Lành rành sáu câu quá rồi; cần gì phải nói đâu xa, chính ngay bố mẹ thày vẫn thường câu chấp như thế. Ai đời thuở nào đun bếp điện mà má thày nhờ cậy người ta mua cho bằng được cái nồi đất rồi cứ thế đem kho cá và cho rằng kho cá phải bằng nồi đất mới ngon mà lại kho khô nữa mới xót chứ. Có nói ra thì "Tao còn đẻ ra mày" để rồi thày cứ xót dạ vì tiền điện ông bà phải trả trong khi má thày lại cứ than rằng không dám chạy máy lạnh mà tiền điện vẫn tốn nhiều. Có khi thày nói mát: "Cá kho phải đun bằng rơm mới có chất thơm của mùi lúa chín... để rồi má thày ca một câu: "Cha tiên sư bố mày..." Thày còn nhớ câu chuyện do một người bạn kể: "Anh ta hay đến thăm một cặp vợ chồng quen thân, chị ấy nấu thịt kho tộ tuyệt vời, ăn hoài không thấy chán, nhưng có một điều lạ là khi bỏ thịt vào nồi để nấu, mặc dầu chiếc nồi lớn, chị ấy không thèm để nguyên miếng thịt to như thế hoặc cắt thành từng miếng vừa vừa hay nhỏ mà chỉ cắt đôi. Hỏi tại sao cắt đôi thì chị nói má chị ta kho như vậy và cắt đôi thì thịt kho mới ngon. Thắc mắc vì câu trả lời không hợp lý, bạn thày Lành một hôm có dịp gặp má chị ta hỏi lý do tại sao miếng thịt cắt đôi kho tộ mới ngon thì bà trả lời rằng sở dĩ bà cắt đôi miếng thịt vì ngày xưa cái nồi kho tộ của bà hơi nhỏ không để nguyên miếng thịt vào được..." Chắc bà cụ này lại chỉ dùng nồi đất kho cá hoặc cứ chỉ cắt đôi miếng thịt để kho tộ do đó y tá giải thích nên phiền lòng đây mà... Thôi thì chiều lòng để Chúa thử thông cảm với bà xem sao...


- Thưa bà, Chúa ban cho bà thọ như thế chắc bà thừa hiểu; trong cuộc đời, nhiều khi mình cũng giống như Chúa chịu đóng đinh trên cây thập giá, không thể chia xẻ cùng ai và cũng không ai có thể chia xẻ được với mình. Nhưng tôi tin rằng Chúa đã có kinh nghiệm cô đơn ấy Ngài hiểu thấu được lòng bà. Thế nên, tôi nghĩ đây là cơ hội Chúa đang mời gọi bà chia xẻ với Ngài nỗi cô đơn thập tự. Chỉ Ngài hiểu và chỉ Ngài mới có thể cảm thông được tâm tình đơn độc đau khổ này. Do đó, nếu mình dâng lên Chúa nỗi thống khổ tâm tư; tôi nghĩ có ích lợi hơn là cảm thấy phiền hà mấy người trẻ vô tình...
Bà cụ như được nở khúc ruột đang quặn thắt vì gút mắc. Còn gì thơ thới hơn khi được người khác hiểu tâm trạng đau khổ tủi thân của mình (dầu chỉ là cho qua với đôi lời đò đưa). Không để thày Lành có cơ hội cố gắng rặn ra những điều lải nhải, bà cụ hớt ngang:

- Anh nói đúng, chỉ Chúa mới hiểu nổi cảnh đau lòng của tuổi già chúng tôi. Cảm ơn anh đã nói cho tôi biết. Chúa thực sự ở cùng anh vì lời anh nói ra làm tôi thấy mát cả ruột gan...

Không biết bà cụ có thực sự hiểu thày Lành nói gì không chỉ thấy nước mắt bà đổ ra hơi nhiều. Lúc trước, bà chỉ xụt xùi với cặp mắt ráo hoảnh thế mà giờ bà cụ lại khóc thật làm thày cuống lên vừa cảm thấy mình vô tình gặp may mắn, vừa nhớ lại câu chuyện một người bạn kể kỳ học năm thứ nhất nhân tiện khi hai người bàn thảo về lớp thực tập giảng trước công chúng:

Có cha ngoại quốc kia làm phó nơi một xứ Mỹ, sau lễ, một bà cụ đến nói với ngài:

- Thưa cha, cha nói đúng quá. Những lời cha giảng hãy còn văng vẳng bên tai con.

Ngài cảm thấy hãnh diện phần nào vì ít nhất hãy còn có một bà cụ am hiểu những điều ngài nói nên hỏi theo:

- Có lẽ bà cụ cũng đã gặp nhiều kinh nghiệm như thế...?

Ngài chưa kịp nói xong, bà cụ đã cao giọng hơn chút:

- Thưa cha, xin cha nói lớn hơn vì con bị nặng tai.
Bao niềm hãnh diện mới chợt ló dạng đã vội tan theo mây khói nhưng ngài cũng đành phải đổi vội câu hỏi nói tránh sang chuyện khác...

Còn đang cảm thấy cảnh ngộ nghĩnh so sánh trường hợp mình với câu chuyện oái oăm kia thì bà cụ đã ôm chầm lấy thày Lành, ngậm ngùi nức nở vì được xoa dịu tâm tư... Trong khi thày lại càng đớ ra hơn, ngơ ngơ ngáo ngáo chẳng biết làm sao; tay chân luống cuống để đâu cũng khổ đành vỗ nhè nhẹ lên hai vai bà cụ... Thở hắt ra một hơi dài để hoàn hồn khi bà cụ buông thày ra, mừng thầm vì may mắn bà cụ tin vào Chúa, nếu không, có lẽ hỏng to. Thôi thì cũng nên cảm ơn Chúa vì bà cụ tin vào Ngài và chuyện cũng đã xong. Chào bà cụ, thày Lành vội trở lại phòng tuyên úy, hy vọng tìm được giấc ngủ ngon và cầu mong một đêm yean lặng đến với mình.
 11

Reng... reng..., tiếng điện thoại như xoáy vào óc khiến thày Lành chồm dậy nửa tỉnh nửa mê nhấc ống nghe đặt vô tai.

- Tuyên úy trực.

Tiếng nói quá nhỏ làm thày cố gắng nghe nên tỉnh hơn chút... Ồ, vội quá do đó đặt ngược ống nghe. Liếc qua chiếc đồng hồ đeo tay trên bàn ngủ, mới 2 giờ sáng! Thời giờ của sự mê mệt thống trị mọi người ngoại trừ họ hàng nhà chuột... Mới ngủ được một tiếng mấy phút... cái đầu nặng chình chịch, và cặp mi cứ muốn dính liền lại với nhau... Xoay lại ống nghe:

- Tôi chưa nghe rõ, làm ơn nói lại được không!

- Có người muốn nói chuyện với tuyên úy; để tôi nối điện thoại...

- Vâng bà làm ơn!

- Đây bà ấy...

- Hello! Tuyên úy trực.

- Tôi muốn nói chuyện với tuyên úy Linda; tuyên úy có biết số phone của bà ta không?

- Không đâu, bà ta ở mãi tận Gulfport, MS, làm ơn gọi lại ngày mai vì bà ta sẽ làm việc tại đây...

- Xin cảm ơn.

- Không có chi.

Bực mình vì chuyện không đâu phá giấc ngủ, hơn nữa nếu những câu hỏi vớ vẩn từ ngoài nhà thương cứ xảy ra như thế này để rồi thức cả đêm lỡ khi cần kíp sao có thể làm việc được. Thành Lành vội gọi lại operator của nhà thương:

- Operator

- Tôi là tuyên úy trực, bà làm ơn từ nay trở đi bất cứ người ngoài nào hỏi về tuyên úy trực ban đêm, xin nói gọi lại ngày mai vì tôi không có bổn phận trực cho họ ban đêm. Tôi chỉ có bổn phận với những bệnh nhân tại nhà thương này mà thôi, xin nhớ cho...

- Vâng, tuyên úy, tôi sẽ ghi note tại bàn operator.

- Cảm ơn nhiều...

Cú điện thoại hỏi vớ vẩn đã làm thày Lành thức mãi tới hơn bốn giờ sáng. Cố dỗ giấc ngủ trở lại nhưng vô ích. Nằm ngửa, xuôi hai tay, hai chân, thở từ từ... rồi nằm nghiêng bên này, nghiêng bên kia cái ngủ vẫn đi đâu chẳng đến... rồi đếm chầm chậm theo nhịp thở, vẫn cứ tỉnh queo tới 4 giờ hai mắt vẫn còn thao láo... và rồi 5 giờ sáng điện thoại reo thêm một lần nữa. Một người đàn ông bị kích ngất, bầu đàn thê tử cháu chắt mười mấy người làm loạn cả lên không để chuyên viên nhà thương cho điện giật cứu tỉnh...

Thày Lành như một cái máy robot, hai tay quờ quạng, chân trần tìm lối vào phòng tắm. Đầu đau như búa bổ bởi thiếu ngủ và cặp mắt không nhướng lên nổi; mắt không nhướng lên nổi nhưng tay chân vẫn phải bò dậy làm việc... Vốc nước lạnh đắp lên mặt mà người thày cứ muốn gục xuống bồn rửa mặt... Nín thở... nín thở cho tỉnh, thày nghĩ, trong khi một tay chận nước hớp vô miệng và tay kia rờ rờ lấy miếng xà bông. 7 phút trôi qua, thày ngất ngây bước ra khỏi cửa như một chiếc máy; mắt vẫn cứ nửa nhắm nửa mở, chỉ nhìn khi cần thiết để khỏi bước chao vô tường hành lang, và chân nam đá chân xiêu xuyên bên nọ xọ bên kia trên đường tới phòng cấp cứu...


Hai tiếng của buổi sáng học thêm về lý thuyết thực nghiệm tâm lý bệnh nhân trôi qua trong vòng mờ ảo; thày Lành không biết mình ngủ lúc nào, thức lúc nào dầu đã dồn vô bụng hai ly cối cà phê hy vọng chất đắng ngắt ấy thúc đẩy cặp mắt gượng gạo mở lớn hơn. Thế là dù có lý thuyết thực nghiệm thì đối với thày Lành sáng ấy, lời nói của giảng viên cũng chỉ như mây trôi nước chảy, chẳng có thể đọng lại dù chỉ một chút cấn bụi... Hai tiếng tiếp theo thăm bệnh nhân, thày chỉ có nước ngất ngưởng cố gợi chuyện cho bệnh nhân nói, nghe cho qua... và rồi cơm trưa... rồi I.P.R.

Bảy học viên tuyên úy thực tập thêm tuyên úy trưởng là tám ngồi quanh chiếc bàn tròn khá rộng nơi phòng họp gọn gàng khang trang trên lầu hai bệnh viện được đặt trong khu vực điều hành tuyên úy. Có nước đá, có cà phê, bánh ngọt, sữa, kem... Thày Lành lại đóng thêm một ly cối cà phê to tổ bố. Giờ họp sau cơm trưa cả là một cực hình đối với thày vì thói quen ngủ trưa. Đó là những ngày thường; còn hôm nay, bởi đêm ngủ quá ít, người thày nóng như lửa; đây đó cứ như có hàng loạt kim châm trên da thịt khó chịu cùng cực lôi cuốn thày vào giấc ngủ bất cứ lúc nào. Chẳng bù lại đêm vừa rồi... bây giờ, cứ hai phút không cử động là có thể đã thăng thiên...

Để mở đầu cho I.P.R, tuyên úy trưởng luôn luôn mời một trong những tuyên úy thực tập dẫn nhập bằng lời cầu nguyện thay cho cả nhóm... sau đó ông nói tiếp với những chuyện cần phải làm cho xong trong buổi chiều, những ghi chú hay tin tức mới từ văn phòng tuyên Ọy nhà thương...

- Hôm nay quí vị cảm thấy thế nào? Có vấn đề gì muốn chia xẻ hay đem ra bàn luận không?

Thày Lành hậm hực từ đêm tới giờ, nửa quê, nửa bực. Quê vì cứ ngủ gà ngủ gật làm giảm phong thái của con người tập tành mực thước từ xưa tới nay; bực vì trong người khó chịu bởi thiếu ngủ và không học thêm được gì suốt hai giờ buổi sáng... nên chụp cơ hội phân trần:

- Hôm nay tôi mệt quá sức, không học, không làm gì được hết...

- Khoan, tôi xin cắt lời tuyên úy một chút; - tuyên úy trưởng chen vô - phòng 423 tuyên úy ghé thăm nửa đêm vừa qua và phòng 218 tuyên úy ghé thăm sáng nay gửi hai miếng giấy tới văn phòng tuyên úy cảm ơn vì sự thăm viếng của tuyên úy. Cả hai miếng giấy đều có lời nhận xét rằng Chúa thực sự ở cùng tuyên úy để giúp họ.

Phòng 423 thày Lành nghe từ tối qua nơi cửa miệng bà cụ khóc vì tủi thân với mấy y tá. Phòng 218 thì nào thày có nói gì đâu. Con bệnh quá đa quá độ, thày vừa bước vô chào nó đã vớ lấy chửi nhắng lên, chửi tối tăm mặt mày nhưng vì buồn ngủ không thèm tức, thày đứng tựa vô tường đầu óc tơ lơ mơ để cho nó chửi. Sau một hồi hình như đã cái miệng, con bệnh mới giật mình:

- Tôi nói thế mà ông không tức à?

- Hình như bà có chuyện gì phiền lòng lắm thì phải?

Thế là con bệnh òa lên khóc, kể lể vì thằng chồng "khốn nạn" đã bỏ rơi nên buồn rầu sinh bệnh cả năm mà không có cơ hội nói ra với ai bởi đâu có ai thèm nghe. Dầu đầu óc lơ tơ mơ thày Lành vẫn phải lờ đờ tiến tới, tay ôm vai, tay đập nhè nhẹ trên vai kia dụ cho con bệnh khóc tiếp. Khóc chán, con bệnh cảm ơn, vui vẻ trở lại, xin lỗi, ký tấm check cho năm mươi đồng trả công nghe chửi. Thày nhận bỏ túi và đi thăm phòng khác. Nào có chi đâu mà Chúa với cha...


- Xin cảm ơn tuyên úy trưởng đã nhắc nhở tới. Hôm nay tôi mệt vì cả đêm rồi chỉ ngủ được gần hai tiếng đồng hồ. Tôi yêu cầu tuyên úy trưởng nói cho văn phòng operator của bệnh viện ghi rõ ràng nơi bàn điện thoại rằng không được đánh thức tuyên úy trực ban đêm khi khách hàng bên ngoài nhà thương gọi tới...

Một học viên tuyên úy thực tập cướp lời:

- Tôi quan niệm mình là đại diện của Đức Kitô, mình phải sẵn sàng giúp tất cả mọi người bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu...

Thày Lành tỉnh hẳn:

- Anh nói cho chính anh thôi vì chỉ anh mới có thể giúp tất cả mọi người bất cứ lúc nào và nơi nào. Riêng tôi, tôi chỉ là một con người, tôi không thể giúp tất cả mọi người bất cứ lúc nào bởi tôi phải giúp tôi trước. Nếu tôi không bình thường, theo tôi nghĩ, tôi chỉ làm hại người ta thay vì giúp. Hơn nữa, ban đêm tôi chỉ có bổn phận đối với các bệnh nhân nơi nhà thương này mà thôi; tôi không có bổn phận với bất cứ ai ở ngoài nhà thương. Lý do tôi nhận thấy không thể giúp người ngoài nhà thương vì mình phải để dành sức lực lỡ khi có chuyện khẩn cấp xảy ra ở đây. Đêm qua, hơn 12 giờ khuya tôi phải đi thăm một bà cụ khóc, hai giờ sáng một người ngoài gọi điện thoại hỏi số phone của tuyên úy Linda; operator đã đánh thức tôi khiến hơn 4 giờ sáng tôi mới có thể ngủ lại được. Thế rồi 5 giờ sáng một vụ kích ngất cấp cứu xảy ra; tôi đã không còn năng lực đủ để trấn an thân nhân bệnh nhân mười mấy người cho phòng cấp cứu giật điện cứu tỉnh bệnh nhân. Hai giờ lý thuyết thực nghiệm sáng nay tôi đã chẳng học được gì; phòng số 218 chửi tôi như tát nước nhưng vì mệt quá lại nửa thức nửa tỉnh tôi đứng im đó cho bà ta chửi, và bây giờ, tôi rã rời, không thể làm được chuyện gì nữa...

Đến đây, tuyên úy trưởng mới chen vô:

- Tuyên úy Lành nói đúng. Chúng ta không thể giúp mọi người bất cứ lúc nào mà chỉ có thể giúp họ trong trách nhiệm và bổn phận của chúng ta được giới hạn nơi lãnh vực và thời điểm nào đó. Hơn nữa, mỗi sự việc cần một khả năng chuyên môn, và không ai có thể biết hết mọi sự. Do đó chúng ta cần ý thức rõ lại khả năng của chúng ta chuyên môn ở điểm nào và có thể giúp người khác trong lãnh vực nào; nếu không thế, chúng ta chỉ làm hại người khác và coi chừng, quí vị làm cả đời cũng không thể trả đủ cho những sự kiện tụng vì giúp người khác một cách thiếu ý thức ngoài khả năng chuyên môn... Nếu có gì, gửi họ tới những nhà chuyên môn gần nơi họ ở...


Thăm bệnh nhân hoặc giúp người cần ý kiến khuyên giải cả là một vấn đề không dễ chi. Người ta có những đau khổ khó được thông cảm mà mình nói thế nào để họ cảm thấy được thông cảm, được chia sớt nỗi lòng hoặc chia bớt nỗi thống khổ đang đè nặng tâm tư. Đồng ý rằng sự thăm hỏi phần nào giúp người bệnh hoặc những người trong cơn bối rối cảm thấy ấm lòng hơn, được tăng sức chịu đựng hơn nhưng thăm hỏi mục vụ không đơn giản như thăm hỏi bạn bè.

Hai tuần trước khi mãn khóa thực tập tuyên úy bệnh viện, tuyên úy trưởng mang ra ba bài "verbatim" của các tuyên úy thực tập cho mọi người nhận xét... Sau khi phân tích những lời đối đáp của bệnh nhân với các tuyên úy thực tập, tuyên úy trưởng khen:

- Chúng ta thấy, nói chung, những câu đối đáp thăm hỏi mang đầy đủ khía cạnh tâm lý, chia xẻ tâm tình, cảm thông, và khuyến khích người khác nhận diện và chấp nhận thực tại để đi đến quyết định cá nhân giúp con bệnh phấn khởi hơn... Có một điều... thường thì chúng ta hay quên... Trong cả ba bài verbatim của quí vị mà tôi vô tình lấy ra không có ý lựa chọn, không thấy Chúa ở đâu hết!

Mọi người ngỡ ngàng; tuyên úy trưởng đã đưa ra vấn đề then chốt mà không ai để ý từ bao lâu nay... Thày Lành buột miệng:

- Tuyên úy trưởng đưa ra vấn đề trọng yếu không ngờ, nhưng tại sao không nói cho chúng tôi biết ngay từ đầu khóa học. Đến bây giờ, chỉ còn hai tuần nữa là hết; có phải chúng tôi đã lỡ biết bao cơ hội rồi không!

- Nếu tôi có nói ngay từ đầu khóa thì quí vị cũng không thể nhận ra vì chưa có kinh nghiệm. Còn hai tuần nữa để thực tập với sự nhận thức đầy đủ rõ ràng mang lại quá đủ ích lợi cho quí vị. Hơn nữa, đây là thời gian chúng ta thực tập học hỏi mà thôi; quí vị còn cả một cuộc đời để giúp người khác mà. Đừng tiếc xót 9 tuần mà làm ơn nhớ lại giây phút này để mang lại lợi ích nhiều hơn cho dân Chúa sau này. Quí vị nhớ cho, chỉ có Chúa mới có thể đem lại niềm hy vọng cho người ta và chỉ tin vào Chúa người ta mới có thể có thêm năng lực và hy vọng để chịu đựng...

Học là thế nhưng kinh nghiệm đâu đơn giản như thế. Bao nhiêu lần cha Lành đã chẳng biết nói sao với bệnh nhân, với những người mang nỗi thống khổ cần gặp ngài. Gặp những người chấp nhận cuộc đời, chấp nhận sự việc xảy đến ngoài ý mình thì nào cần nói chi. Có những người không muốn hoặc không thể chấp nhận mà than trách Chúa, than trách cuộc đời, lại còn rủa chính mình… coi như mình bị Chúa phạt….. Nào biết nói ra sao!


12

- Chào cụ, cụ cảm thấy thế nào? Có đỡ hơn không?

- Thưa cha, chẳng thấy gì mà ngày nào nó cũng lấy một xi lanh máu, con sợ quá.

- Có lẽ họ chưa kiếm ra nguyên nhân của bệnh nên cần thử máu; cụ năm nay Chúa ban cho thọ bao nhiêu rồi?

- Con 73 tháng 6 vừa qua.

- Cụ được tất cả mấy người con và có ai ở với cụ không?

- Cảm ơn cha, con được ba cháu mà không có ai ở đây hết!

- Thế cụ có người quen họ hàng ở gần đây không?

- Không cha ơi, cuộc đời con khổ và cô đơn quá; chẳng hiểu Chúa phạt con về tội lỗi gì.

- Không có đâu, nói Chúa phạt có lẽ oan cho Ngài. Cụ có con cái may ra cụ sẽ cảm thấy dễ hơn tôi về tình thương của cha mẹ đối với con cái. Như thế, giả sử Chúa thương mình chỉ bằng một phần tư mình thương con, không thể nào gọi là Chúa phạt được! Chả lẽ Chúa không thương mình bằng mình thương con?

- Chứ thế sao đời con cực khổ quá, giờ này già rồi lại còn cô độc!

- Thật ra, cuộc đời khi vui khi buồn; cũng có lúc vui sướng, hạnh phúc, cũng có lúc khổ cực. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận rằng những đau khổ xảy đến trong cuộc đời mình là cơ hội giúp mình sống tốt lành hơn thì có lẽ nên cảm tạ Chúa nữa. Nói rằng Chúa phạt chỉ là thói quen vì không biết sự khó xảy đến do nguyên nhân nào hoặc mình không để ý tìm hiểu nguyên nhân thôi; chứ thực ra, dùng tiếng Chúa phạt chỉ là một phần nào nói lên sự nhận ra mình là con người yếu hèn, lắm lỗi lầm, đành chấp nhận những đau khổ để đền bù những lỗi lầm của mình. Chúa không khó khăn như mình nghĩ; do đó mình đã chấp nhận chịu những đau khổ xảy đến thì dâng những đau khổ này lên Chúa sẽ làm đẹp lòng Chúa hơn...

- Vâng, vâng, cha nói đúng.

Ông cụ trở mình, ngượng ngạo và nhăn nhó...

- Bác sĩ chưa cho biết chút gì về bịnh tình của cụ sao?

- Con nghe loáng thoáng đâu bị ung thư... Lạy Chúa tôi...

Nỗi đau đớn gây ra bởi chuyển động thân mình hiện rõ trên nét mặt thống khổ cố gắng chịu đựng phát ra tiếng than! Lòng cha Lành chùng xuống... cái bệnh không đường chữa trị này... Con biết nói sao đây với ông cụ để xoa dịu nỗi thống khổ con người... Chúa muốn con nói gì đây! Ngôn từ nào có thể dùng dù chỉ giúp được ông cụ an tâm rằng không phải là Chúa phạt, rằng mình chia xẻ sự thương khó với Chúa. Ngôn từ nào có thể nói lên đây là Thánh Giá ông cụ đang mang hầu đẹp lòng Chúa hơn! Sao những chứng bệnh bất trị này cứ tồn tại nơi thế giới loài người; mà nào có ai muốn chúng đâu! Chúa quyền năng mà, sao không ngưng những loại ung thư lại... Cha Lành cảm thấy mình bất lực; người như không còn sinh khí. Miệng ngọng, tay chân thừa thãi, đứng nhìn ông cụ mà lòng xót thương. Chúa ơi, con phải nói gì? Đức tin không cho phép đổ lỗi Chúa mang đến sự khó này vì Chúa đâu muốn mang sự khó đến cho ai! Con phải nói sao cho ông cụ thêm sự tin tưởng, hy vọng vào Chúa để chấp nhận con bệnh chết người không ai muốn này. Con câm rồi, có miệng cũng như câm vì chẳng biết nói sao. Con bất lực trước ngưỡng cửa bệnh tật. Sự chết đang gần kề ông cụ; con phải nói sao? Con phải nói sao!
 13
       Nào có phải chỉ khi đối diện với những tai ương, bệnh hoạn không đường chữa trị mới không biết nói gì mà còn nhiều trường hợp khác cha Lành cũng không biết ăn nói thế nào trong khi lòng trào dâng niềm đau xót xa cho thân phận con người trong cảnh khó khăn cuộc đời không phương tránh thoát.


- Xin cha cầu nguyện cho gia đình con...

Người đàn bà, thân hình khắc khổ trong bộ đồ lam lũ hòa nhịp với nước da rám nắng khiến người đối diện nhận ra ngay nét già trước tuổi, moi mãi nơi túi đưa cho cha Lành 5 tờ giấy một đồng được xếp lại vội vàng chưa kịp gọn gàng ngay ngắn...

- Cầu nguyện về chuyện gì?

- Cho tụi con kiếm được công ăn việc làm nuôi con cái. Nhà con nhờ người ta đứng tên tầu để rồi bây giờ gần trả xong nợ nhà băng, nó đem bán luôn lấy tiền. Con còn nợ hơn năm mươi ngàn tiền mặt mượn anh em bà con mà tàu mất, kiếm việc làm không được, chẳng biết sao sinh sống. Nhà lại con đàn con đúm 8 đứa chưa đứa nào đi làm phụ thêm cho cha mẹ được chuyện gì; lo miếng ăn cũng chưa đủ, thật khổ quá cha ơi!

- Thôi cất tiền đi, đem về đong gạo cho các cháu. Tôi sẽ cầu nguyện cho ông bà và gia đình..
Người đàn bà vẫn cố nhét tiền vào tay cha trong khi ông chồng đang chọn mấy loại chỉ vá lưới nói chen vô:

- Cha phải lấy tiền chứ nếu không...

- Ơ, cái ông bà này kỳ cục; vậy cứ không lấy tiền thì cầu nguyện không thiêng à! Được rồi, tôi nhận, nhưng phải đem tiền này về đong gạo cho các cháu ăn.

Cha Lành cầm lấy tiền, vuốt thẳng lại và gấp đôi, quay qua nhét vào túi áo sơ mi người chồng khiến anh ta phải đứng im, nghệt mặt ra tỏ vẻ rưng rưng cảm động. Không hiểu anh cảm động vì cha thông cảm cho hoàn cảnh gia đình anh hay vì nghĩ đến hoàn cảnh gia đình đang gặp lúc túng quẩn lại gặp cảnh khó khăn tai họa này. Sự cảm động của người đàn ông do mấy lời nói nửa diễu nửa an ủi và cử điệu thân tình đối với cặp vợ chồng lâm cảnh khốn khổ khơi dậy nơi lòng cha Lành những hình ảnh và tâm tư ngày cũ, 11 năm về trước...


- Anh Tam bảo chú Lành tối hôm nay sau khi ăn cơm xong qua gặp anh ấy.
Kèm theo lời nói là 4 con mắt của hai người, mẹ và chị Tam, đang nhìn thày Lành tỏ vẻ thương hại, ủi an...

Thày Lành ngày ấy, sau 3 năm vất vưởng sống lang thang rày đây mai đó cho qua ngày đã kiếm được chỗ đi làm ghe te đánh tép nơi vùng Chu Hải gần Bà Rịa nằm trên quốc lộ 15 nối liền từ quốc lộ I dẫn từ Sài Gòn ra tới Vũng Tàu với hy vọng sẽ có ngày vượt biên. Trong những ngày sống tại quê cũ, sáng sáng thày giúp cha xứ cho giáo dân rước lễ bởi chỉ có mình ngài coi gần 8000 người. Một buổi sáng, hai cha con đang uống cà phê tâm tình, cha xứ dịu dàng bày tỏ:

- Nếu thày là con thiêng liêng tôi, tôi đề nghị với thày chọn một trong hai con đường: hoặc là lập gia đình hay là kiếm đường vượt biên.

Cảm nghĩ bất lực chợt hiện rõ nơi tâm tư; đã bao lâu nay nó âm ỉ gậm nhấm nơi lòng thày chờ dịp phát xuất. Cuộc đời kể như tứ cố vô thân, anh em họ hàng ai cũng là người túng quẩn trong lúc này mà mình là người khốn khổ nhất nên mang mặc cảm người ta sợ mình bám víu khiến thày như lịm chết trong thân xác thiếu phần sinh động. Chẳng lẽ chỉ có hai con đường thôi ư! Thày Lành cố mơ hồ bám víu. Mà đường nào có thể là con đường thứ ba với năng lực tự mình thực hiện được?

Cha xứ nói xong, nhìn thày Lành ngồi âm thầm chết lặng dường như để tâm trí bay tận cõi xa xôi nào đó bỏ rơi thực tại hiện hữu. Câu nói của ngài đến tai thày có sức mạnh của một cây kim hỏa đập mạnh vào hạt nổ viên đạn thầm kín làm đầu đạn bị đẩy bay đi kéo theo nỗi lòng người trẻ khiến thày lộ nét ưu tư. Tay thày nhè nhẹ xoay chiếc ly thủy tinh ngắn rộng miệng chứa đựng một nửa chất cà phê đậm màu cánh gián sóng sánh theo cử động. Ngài thinh lặng nhìn người trẻ tuổi, dịu cặp mắt con ngươi hai tròng dõi theo mấy ngón tay không chủ đích biểu lộ một tâm hồn giao động đang phải đối đầu với quyết định hoặc suy nghĩ gay cấn bất ngờ. Mấy tháng nay, qua những lần nói chuyện đơn sơ với người trẻ tuổi này, ngài thấy tiềm ẩn bên trong dáng dấp cởi mở bình thường một năng lực phấn đấu vượt bực, một tấm lòng chân thành ngay thẳng, và một tâm huyết phá núi xây thành nhưng có điều lạ ít khi được phát xuất từ cửa miệng của chính con người ấy. Những nhận xét thực tế rõ ràng, không che dấu, không thiên vị được vạch trần mỗi khi ngài hỏi đã dám thẳng thắn nói lên và thường kèm theo điều kiện phải giữ kín trước khi phát xuất... đã chứng tỏ hình như sau lớp vỏ đơn sơ bề ngoài đang được nhào trộn, xếp đặt các thực trạng hiện tại hầu mở lối cho một toan tính phức tạp chưa chịu ló dạng đầu mối nơi người bạn trẻ độc nhất mà ngài đã có thể tin tưởng được giữa gần 8000 con chiên của xứ đạo trong giai đoạn này. Ngài đã dùng nhiều cơ hội thử tính tình người bạn trẻ nên càng thấy rõ cái trí óc toan tính không đơn giản mà đôi khi có phần kỳ bí được cẩn thận che dấu khó có thể nhận ra nếu không để ý theo dõi trong những dịp bất ngờ ngài giả đò tấn công bằng một vài câu hỏi dường như vô tình.

Ly cà phê cứ được nhè nhẹ xoay tạo nên tiếng cạ trên mặt bàn khiến ngài có cảm tưởng tất cả những khó khăn, khốn khổ nơi cuộc sống của người bạn trẻ đối diện đang được dồn ép làm thành áp lực thúc đẩy tạo nên ý chí quyết định hoặc buông xuôi hay phấn đấu với cuộc đời để dành giựt phần thắng. Thày Lành như pho tượng trầm mặc suy tư ngoại trừ đôi mắt chăm chăm mang vẻ mơ hồ dõi sang phía bên kia ly cà phê để rồi xuyên thủng mặt bàn chìm vô cõi mông lung nào đó. Mấy ngón tay vẫn xoay động chiếc ly đều đều như đang vạch đường định hướng. Vài phút trôi qua, thày từ từ ngẩng lên nhìn cha xứ, giọng chậm rãi:

- Con sẽ trả lời cha tuần sau...

Một tuần lặng lẽ qua, cha xứ âm thầm tiếp tục theo dõi người bạn trẻ xem có gì khác lạ nơi thái độ nhưng chẳng nhận được gì... Con người rề ngoài mang vẻ vô tư, may ra dễ chấp nhận thực tại cuộc đời... Ngài đôi lần thầm nghĩ... Nếu bạn quyết định ở lại, ít nhất tôi còn có được một người thông cảm, am hiểu trong hoàn cảnh khắc khổ này...

Sáng thứ hai sau khi tan lễ, cha xứ vừa bước ra khỏi phòng áo thấy thày Lành vẫn còn đứng nơi bậc thềm thấp nhất của lối ra, hướng về phía nhà xứ, hai tay xuôi trong túi áo dòng hình như chờ đợi.

- Sao, sáng nay uống cà phê với tôi chứ?

- Con đang chờ...
Suốt khoảng thời gian uống cà phê, hai người chỉ nói chuyện mưa nắng đâu đâu để rồi trước khi từ giã ra về, thày Lành bí ẩn nhìn cha xứ nói nhẹ:

- Con sẽ vượt biên dù không biết sẽ phải làm gì bây giờ. Chỉ một điều con muốn cha để ý là từ hôm nay cha đừng tin những gì người ta sẽ đồn thổi về con. Nếu có chuyện gì lạ tai cha muốn biết, cha hỏi con sẽ giải thích.

- Không sao đâu, tôi hiểu thày mà. Từ nay, nếu khi nào thày muốn ăn cơm, cứ việc nói con cháu nấu thêm, khỏi cần nói với tôi...

Tin thày Lành sắp lấy vợ bùng lên từ cửa miệng những người thân quen và người ta nói với nhau những ý nghĩ cảm thông cho hoàn cảnh, thân phận nghĩ rằng đó cũng là một lối giải quyết chấp nhận cho yên phận cuộc đời... Trong khi thi thoảng người ta thấy thày loáng thoáng bắt xe đò trước chợ dọc theo quốc lộ 20...



Con quốc lộ 15 tuy là đường giao thông chính yếu nối liền quốc lộ I dẫn từ Sài Gòn ra Vũng Tàu nhưng sau năm 1975, xe cộ thưa thớt. Thỉnh thoảng vài chiếc xe nhỏ được biến chế chạy bằng than đeo cái bình lửa to tổ bố phía sau, chở khách buôn thúng bán mẹt, ì ạch leo những con dốc thoai thoải gần như muốn bò. Khoảng nửa chiều tới sáng thì con đường kể như không còn sinh động, nằm dài ngoằng xuyên qua các thôn làng hẻo lánh dọc hai bên, chấp nhận mang trên mình hình bóng những người dân quê đi bộ ngang qua hoặc xe đạp đây đó vài ba người lèo tèo nói chuyện. Thỉnh thoảng có tiếng xe gắn máy rướn giọng ré lên một cách tức tưởi không đều như cố la lên cho loài người biết cảnh già nua xuống dốc của mình nơi những ngày cuối đời thiếu may mắn phải chạy xăng pha dầu hôi. Đêm xuống, con đường thật yên, lặng lẽ chìm dần theo bóng tối nặng nề tràn tới như cố tránh ánh đèn leo lét hắt ra từ những căn nhà hay hàng quán lưa thưa đây đó được dựng sát bên lề.

Hơi gò người bước lên đoạn dốc ngắn từ ngõ vào nhà tới mặt đường, thày Lành bước song song với anh Tam trên đường nhựa về phía cống nước lấy vào ruộng cách nhà khoảng nửa cây số.

- Sao, dạo này đi làm hàng đáy có dễ chịu không?

- Thì cũng thường vậy, anh Tam; quai đáy, ngủ, kéo đáy rồi lại quai, nhặt tôm tép v.v... Làm hàng đáy tương đối dễ chịu và nhàn hơn đi te. Anh muốn gặp tôi có chuyện gì mà có vẻ quan trọng vậy?

- Để mình tới cống nước hãy nói. Thế chừng nào chú định mua máy ráp xuống chiếc ghe mới mua?

- Em định mua chiếc Kubota 12 ráp vô, khi có chuyện chở thuê kiếm chút đỉnh...

Cánh đồng lúa miền nước phèn mang vẻ tối hơn bên nước ngọt vào lúc trời nhá nhem trải rộng dọc theo quốc lộ 15 và bị chặn đứng bởi con đê bao quanh rừng đước. Loáng thoáng đây đó những ánh đèn soi cá khi ẩn khi hiện mập mờ như đom đóm xuyên qua cành cây kẽ lá của rừng đước thấp ngang đầu người chưa kịp lớn bởi những người lấy củi đã chặt hết những gốc già chở ghe về bán củi. Xa xa, vang lại vài tiếng máy ghe te ủi gần trong bãi vọng về theo làn gió biển mang đậm mùi nước mặn của những ngày nắng gắt không mưa. Thày Lành lặng thinh, chân bước đều theo kịp anh Tam, hướng lòng mơ đến viễn ảnh trời mây ngoài khơi một ngày nào đó được lênh đênh trên ghe vượt biên bằng đường biển. Sao Nam Tào nằm phía trước mặt, bên trái hướng chính đông, ghe phải chạy theo đông nam ít nhất 24 tiếng mới ra tới hải phận quốc tế rồi bẻ xuống 160 ly giác một ngày một đêm đoạn 180 hay 200 ly giác tránh bị dạt vào Côn Sơn.

Ngày nào đây và ghe nào đây! Đã một lần vượt biên chạy có cờ, rách nát cả hai bàn chân mà vẫn không đủ hãi sợ để làm nhụt ý chí đào thoát. Tiếng gọi tự do nơi bến bờ nào đó thày chưa một lần đặt chân hoặc được nhìn qua hình ảnh âm ỉ thúc dục, khuyến khích lòng dặn lòng thà chết trên biển còn hơn chấp nhận sống vất vưởng trong cảnh bó chân bó tay không phương thăng tiến. Thày tin vào số mạng, nói theo giới bình dân, cuộc đời mình đã được Chúa an bài, không cần lo âu sợ hãi mà là tính toán, nhẫn nại, chấp nhận giai đoạn hiện tại để bình tĩnh giải quyết những chuyện ngoài ý định không may xảy đến... Sáu tháng làm ghe te không dám lấy tiền công. Thày suy luận, mình là người chân ướt chân ráo, lại không rành đường đi nước bước trong sông rạch, chưa kinh nghiệm làm ghe, nếu lấy tiền công như người khác, chủ ghe sẽ mượn người quen nghề thì mình sẽ mất chỗ làm; mất chỗ làm, lấy đâu cơ hội vượt biên...


- Thế chú định tính với vợ chồng em nó công xá thế nào?
Cụ trùm Xuân, bố vợ chủ ghe te, tay cầm nan tre đan xảo tôm hỏi khi thày Lành vừa bước vào đặt mông ngồi xuống ghế định uống miếng nước trà sau khi gánh tôm tép từ bến ghe về sân phía sau cho bà cụ và con gái sửa soạn đi chợ. Suốt 30 năm từ ngày mới chào đời, lần đầu tiên thày Lành nhận thực ra công việc mình đang làm mang lại niềm hy vọng tương lai. Thày cũng đã làm việc tay chân nhiều như làm rẫy, vô rừng đốn củi, đốn cây, rồi dạy học, buôn bán đồ lạc xoong, bán rượu, bán thịt rông dọc các đường làng hoặc ngồi tại chợ nhưng những ngày ấy gia đình cha mẹ hãy còn là nơi nương tựa; thày không cần lo lắng hoặc sợ mất việc. Tiền bạc thì có được bao nhiêu đưa hết cho mẹ để rồi lúc cần lại cũng hỏi mẹ.

Trải qua những ngày tháng lang thang chạy ăn từng bữa, thày Lành cảm thấy hạnh phúc vì nơi ăn chốn ở cùng việc làm chờ cơ hội. Đi làm ghe theo như lệ những người làm tại Chu Hải, người đi ghe có tiền lương, lại còn được nửa ký tôm mang về ăn trong ngày. Thày Lành ăn tại nhà chủ nên nửa ký tôm đủ bao quát cơm nước... Thế nhưng mọi người không ai thấy thày nhắc đến tiền công, chủ ghe nhờ bố vợ hỏi... Có được nơi ăn chốn ở là hạnh phúc đầy đủ, hơn điều mình mơ ước; hơn nữa, đi làm ghe te đỡ cực khổ hơn kéo lưới rùng lại hy vọng có đường vượt biên... Thày Lành cảm thấy mình hãy còn may mắn... Câu hỏi của cụ trùm quá bất ngờ. 6 tuần đi làm, thày chẳng bao giờ nghĩ đến tiền công bởi lòng còn đang tràn trề với công việc mới trong niềm vui mới vì tuy là đi ghe te đơn giản, nhưng có nhiều mánh khóe nho nhỏ không ngờ có cơ hội học được. Nhớ lại lần đầu đi ghe, trời mới mờ sáng ghe về tới bến Phước Hòa, chủ ghe dùng xe đạp chở tôm tép về chợ bán để thày Lành ở lại rửa ghe và cọc lại khi con nước lên cao. Sau khi công việc thu dọn trên ghe tươm tất, thày Lành chui vào trong khoang đánh một giấc tới khi trời sáng bảnh, nước đã lớn, người người đang chuẩn bị cho bữa cơm trưa và chuyến đi đánh tôm buổi chiều. Con ghe thày Lành được cắm cách bến chẳng bao xa, chỉ độ 20 mét, nổi lềnh bềnh nhẹ chao theo gió. Lần đầu tiên cầm cây sào cắm ghe, rút lên sợ ghe trôi mà chống lại không biết... Cuối cùng cũng đành liều, thày nhổ sào chống bừa xuôi theo mạn ghe định đưa vào bến. Chống ghe cũng cả là một nghệ thuật; mặc dầu thày biết dùng bai chèo nhưng ghe máy không dùng chèo; thế là loay hoay ra sao không biết, thày chống luôn cả mình xuống nước cái "ùm". Sào cắm sâu xuống bùn, thày Lành bì bõm và nước cũng may không lụt đầu người trong khi ghe lặng lờ trôi xa theo chiều gió. Cả là một cảnh cười ra nước mắt! Cũng may, vì những ngày đợi việc thày gia nhập ca đoàn hát ở nhà thờ nên một số người làm ghe trong xứ biết đến giúp... Buổi chiều, ghe được đưa về bến Chu Hải, thày hì hục tập chống ghe.


- Vậy chú chưa biết chống ghe à?
Anh chủ ghe nghe người ở bến kể lại không nói gì, lúc đánh ghe về bến nhà mới hỏi.

- Thì có bao giờ làm ghe đâu mà biết anh!

- Sao chú không nói cho tôi biết?

- Ồ! Lính mới đâu biết chi mà hỏi.

- Thì chống ghe cũng dễ thôi, khi về tới bến, chỗ nước cạn, tôi để chú tập chống. Chỉ hai ba lần là biết; chẳng có chi khó đâu.
Anh chủ ghe nhẹ nhàng với thày Lành bởi hai người đã qua một đêm đánh te được khá tôm tép. Hơn nữa, đêm rồi cũng là đêm đầu tiên anh đánh tôm trên chiếc ghe của mình. Xưa nay chỉ đi xịch, có vài lần đi ké ghe te người anh ruột, được cho ít đồ ăn mà thôi nên cũng còn ngỡ ngàng. Những gì học lóm được trong vài lần đi ké, anh áp dụng cho buổi ban đầu nên vẫn thấy loạng quạng; thế mà lại gặp ngay người giúp việc không biết chống ghe bởi "lính mới tò te."

Tuy nhiên, dầu mới chạy ghe te của mình lần đầu, tôm tép đánh được không thua sút người khác mà có phần hơn, báo hiệu những ngày tháng tới thoải mái làm anh cảm thấy nhẹ hẳn nỗi lo lắng trong lòng. Chạy chọt anh em họ hàng, bà con thân thuộc vay công bốc nợ mua được chiếc ghe nhưng lại lo lắng không biết tôm tép ra sao với hy vọng trả xong nợ cho mau. Còn thày Lành, người làm mới thì lại thật là mới, chẳng biết gì về lạch ngòi, tuy nhiên, có lắm sáng kiến mới. Bởi lần đầu tự lái ghe mình, anh chủ ghe cũng hơi e ngại nhưng vẫn phải bắt tay vào việc. Khi đã nổ máy chạy vô con lạch đang cho ghe chậm lại chuẩn bị hạ càng, thày Lành nói với anh nếu khi nào thấy thày giơ tay lên nơi phía trước thì bớt tay ga cho ghe chậm lại. Không hiểu thày Lành định làm gì nhưng anh vẫn đồng ý. Càng te hạ xuống mới chạy được chừng 500 thước, thày ngồi phía trước giơ tay ra hiệu cho anh bớt máy thế rồi thấy thày vẫy vẫy có ý nói bỏ cách bờ một miệng te. Anh im lặng đẩy cần lái rồi cho máy nổ mạnh... Cũng chừng 500 thước lại thấy thày giơ tay, anh bớt ga; thày Lành giơ lên đùm lưới óng ánh màu hồng tôm tép, niềm vui hiện nơi sắc mặt và vẫy tay xuôi ra hiệu cho ghe chạy tới... Thông minh thế mà, anh nghĩ, lại không biết chống ghe...

Còn đang theo mộng lại những ngày mới làm ghe, tiếng cụ trùm lặp lại:

- Sao, chú nghĩ gì mà im lặng vậy? Tính tới nay là hết tuần thứ sáu rồi, tháng rưỡi qua mau thật.
- Trong khi tay cụ vẫn đều đều đan nan tre vót nhẵn.

- Thật ra, cuộc đời con đã mang nặng nợ ân oán thiên hạ nhiều rồi. Hơn nữa, anh chị ấy vay công bốc nợ mới mua được ghe te đi làm chưa được bao lâu. Thôi thì âu cũng là dịp tốt để con trả nợ lại những người con mang ơn trong lúc túng quẩn qua anh chị ấy...

- Chú nói sao tôi không hiểu. Chú tính thế nào, nói cho tôi biết để tôi nói cháu trả tiền công cho chú.

- Thì bây giờ hãy cứ lo trả nợ tiền ghe trước, khi nào hết nợ sẽ nói đến chuyện công xá cũng không muộn.

- Sao chú lại nói vậy! Tiền công là tiền công chú làm, còn tiền nợ là do cháu mua ghe khác biệt chứ.

- Con chỉ cần có chỗ ăn ở và đi làm trong lúc này là đủ, còn công xá để tính sau, chưa có gì vội đâu.

Sáu tháng trôi qua, tiền nợ ghe đã trả được một nửa; thế rồi chủ ghe tham gia vào một chuyến vượt biên...

- Anh làm thế mà không e sợ à!

- Đã sợ thì không làm, mà đã làm thì không sợ.
Và rồi vượt biên bể, ghe mất, người trốn chui trốn nhủi. Thày Lành lê hai bàn chân rách nát về lại xứ cũ đi cắt dây khoai lang bán cho người nuôi heo mong kiếm miếng cơm qua ngày. Năm tháng sau, trở trở làm hàng đáy đến nay vừa chẵn 3 tháng... Không hiểu anh Tam định nói chuyện gì...


Dầu đang trong những ngày nóng nực, buổi tối nơi miền quê đem lại khí hậu dễ chịu khác hẳn khi mặt trời còn vương bóng trải ánh nắng gay gắt trên vùng đồng cát nước phèn. Phía dưới cống, mặt nước lặng lẽ êm xuôi không gợn sóng như âm thầm chất chứa những thay đổi theo dòng thời gian, cảm nhận những khuôn mặt lạ hoắc hấp tấp bước đi trong đêm tối tìm đường vượt thoát dõi theo bờ ruộng dẫn tới phía bên kia con đê nơi những chuyến ghe e sợ hối hả chờ đợi. Nhìn vũng nước gần như ngưng đọng, thày Lành nhớ lại 4 con mắt nhìn mình khác lạ sáng nay sau khi gánh tôm tép về... Chắc phải có chuyện gì quan trọng lắm; nếu không, việc gì phải ra đây nói chuyện riêng...


- Thôi mình ngồi xuống đây nói chuyện...
Anh Tam từ từ cất tiếng, dường như cố lấy giọng bình thường mở đầu một vấn đề khó nói. Anh tiếp:

- Công việc hàng đáy dạo này thế nào; chú có thấy cực nhọc lắm không?
Anh lặp lại câu hỏi lúc nãy gợi thày Lành cảm nghĩ có chuyện gì khó cho anh nói ra. Chính anh là người giới thiệu cho thày đi làm ghe te và dĩ nhiên quen biết gia đình anh từ dạo ấy. Sau này, khi ghe te bị mất, trước khi làm hàng đáy, thày Lành có dịp rảnh rỗi sửa mấy chiếc cậu cửa cho cụ trùm, rồi thay phần dưới khung cánh cửa bị mục. Thấy cũng được mắt, cụ trùm nhờ thày đóng cho chiếc chạn bọc lưới đựng đồ ăn. Bởi cụ muốn để chạn trên chiếc sập, thày Lành đóng chiếc chạn gần như vuông khiến cụ chê lên chê xuống...
- Chạn gì đóng như chiếc cũi chó.
- Cụ cứ ra vào lẩm bẩm. Thày Lành biết cụ không để ý là chạn sẽ được đặt trên chiếc sập, nếu đóng dài như bình thường đặt dưới đất sẽ bị cao lêu nghêu. Đến khi xong, chạn được bỏ lên sập coi cũng tạm được thì cụ lại khen đẹp. Có lẽ anh Tam cũng để ý thày Lành từ lâu, hiểu được cá tính thâm trầm của thày trái nghịch với kiểu cách bên ngoài nên còn đắn đo e vô tình làm phiền lòng, bất mãn... Thày nhẹ giọng cởi mở:

- Làm đáy trong sông nào có chi khổ cực đâu anh, lại thoải mái nữa.

- Chú H. Có than phiền gì với chú hay không mà sao có vẻ không được hài lòng...

- Anh nghĩ em lười không chịu làm để đến nỗi anh H. khó chịu...?

- Tôi chỉ thấy chú ấy lắm khi có thái độ bất mãn...

- Anh ấy muốn làm được nhiều tiền để trả nợ và cũng muốn làm chuyện vượt biên nhưng không biết móc nối ra sao và làm thế nào.

- Vậy tiền công của chú làm hàng đáy mỗi ngày được bao nhiêu?

- Từ kỳ đi làm ghe te đến giờ em có biết đồng tiền công là gì đâu!

- Chú nói sao?

- Em đi làm có phải vì tiền công đâu và anh có bao giờ nghe thấy ai nói trả tiền công cho em đâu. Anh có thể hỏi anh chị H. thì biết.

- Tôi vẫn chia tiền công cho chú mà!

- Anh có bao giờ đưa tiền cho em đâu, anh thử hỏi chị ấy coi, em chưa bao giờ nhận tiền công nơi chị ấy mà.

- Chú Lành, tôi đã hiểu lầm về chú. Bao lâu nay tôi cứ nghĩ chú lấy tiền công, và tôi vẫn trả tiền công của chú. Tôi lại thấy chú hay trò truyện với con Nga nên tôi nghĩ sai...

- Anh xem, mục đích của em không phải là kiếm sinh kế hằng ngày; em lại phải cố làm cho mọi người biết mình để không ai đặt vấn đề nghi ngờ; rồi lại bày chuyện cặp với cái Nga cho du kích, công an không để ý. Em không vượt biên được sẽ không thể nào học làm linh mục vì bố mẹ em đang ở Mỹ. Em đâu dám nói với ai...

- Bây giờ tôi mới hiểu chú muốn gì; thế mà tôi cứ ngỡ chú định lấy con Nga...

- Bỏ qua chuyện đó đi anh; đâu có bao giờ em ngờ rằng cuộc đời em phải trải qua những ngày như thế này. Thật ra, em cũng chưa rõ Chúa muốn em có kinh nghiệm này để làm gì!

- Ước gì tôi có được người em trai; tôi sẽ cố đào luyện cho em tôi bằng mọi cách... Tôi muốn nhận chú làm em, chú có đồng ý không?

- Anh hiểu em là đủ rồi. Được, em chấp thuận, nhưng anh không nên nói cho bất cứ ai biết, kể cả chị ấy...

- Tôi tin chú... Chú có thể cho tôi biết chú H. thế nào không?

- Anh ấy muốn được anh giới thiệu với người ta để lo chuyện vượt biên kiếm vốn hầu tính chuyện đưa gia đình đi... Có lần chị ấy nói với em là anh không chịu giới thiệu anh H. mà anh giới thiệu người khác. Hơn nữa, nếu anh H. không làm chuyện vượt biên thì bao giờ mới nổi lên được. Riêng anh H., nhiều lần anh ấy bối rối tự than là không biết làm sao cho khá hơn. Kỳ còn ghe, anh ấy làm ra tiền, nghe đâu mới sáu tháng đã trả nợ được một nửa. Còn bây giờ...

- Chú nhận xét chú H. có cá tính ra sao?

- Em không thích nói nhận xét về cá tính của người khác theo ý mình nhưng anh đã hỏi, em trả lời với điều kiện anh phải sống để dạ, chết đem đi. Em không muốn anh H. biết điều em nhận xét. Anh đồng ý không?

- Tôi đồng ý, chú nói đi.

- Anh H. theo em chỉ thuộc típ người ăn no vác nặng, không phải là người mưu mô tính toán. Một hôm, em và anh ấy đang khiêng đồ đi làm ra ghe, em hỏi anh ấy rằng không e sợ tụi công an du kích sao. Anh ấy trả lời đã sợ thì không làm; mà đã làm thì không sợ. Anh coi, vượt biên nếu hụt mất hết nhà cửa, ruộng vườn, ghe cộ của cả trăm người, đến mảnh bát mẻ cũng không còn chứ đừng nói đến nơi ăn chốn ở mà lại không e sợ công an thì đâu có phải là người biết tính toán. Chỉ biết đường tiến mà không tính lối thoái là thái độ của người làm công, phu khuân vác chứ sao có thể tính chuyện lớn được. Hơn nữa, để ý nhìn coi, anh H. có cặp mắt lé kim. Cổ nhân có câu: "Lưỡng mục bất đồng, tâm can bất chính." Em chỉ dám nói, lưỡng mục bất đồng tâm can bất nhất thôi... Hèn chi sáng nay em thấy bà cụ và chị Tam nhìn em khác lạ khi nói em gặp anh tối nay. Có phải mọi người nghĩ em không chịu làm để hết việc cho anh H. nên anh ấy bực bội phải không?

- Tôi đã nghĩ lầm và mọi người cũng lầm theo. Tôi để ý chú từ lúc mới gặp nhưng vẫn không ngờ... Đâu ai có thể nghĩ là chú đi làm không lấy công. Đã không lấy công đâu có thể nói là lười, là bê trễ; hơn nữa cái mục đích của chú như thế làm sao chú bê trễ được... Tôi đề nghị chú tiếp tục làm hàng đáy và nếu có chuyến tôi sẽ gửi chú đi, còn chiếc ghe theo như chú tính bây giờ hơi trễ. Nếu mà có nó cách đây hai năm trước thì rất hợp thời. Thôi mình về nhà uống rượu, còn chuyện chiếc ghe của chú cứ để tôi lo... Tôi nói thực với chú, hãy bình tĩnh, chẳng còn mấy ngày nữa... nhưng nhớ là chú cứ im lặng như từ xưa tới nay...

- Anh đã không ngờ thì đâu cần phải dặn kỹ như thế...
Thày Lành chợt nhớ lại mình nghe loáng thoáng đâu đây sắp có chuyến vượt biên, không ngờ là chuyện sắp tới.




Năm người ngồi quanh mâm rượu đặt trên chiếc sập làm bằng gỗ ván đóng hòm. Ba đĩa đồ ăn trong mâm gồm tôm, cá, và cua gạch vừa bắt về từ hàng đáy sáng nay. Người ta đang bàn chuyện làm thế nào để giải quyết vụ con bé Đanh cùng với hai đứa con gái khác gia nhập cách mạng rình mò ghe vượt biên để đốt lửa báo cho công an du kích bắt...

- Tôi tính làm một chuyến vượt biên giả để nhử chúng nó tới rình mò rồi đập chết quăng xác xuống sông. Còn thằng Tranh hay chạy Honda báo huyện ban đêm thì cho một trái mìn playmore nổ tan xác ở ngang cánh đồng lúa gần Kim Hải.

Thày Lành vừa từ hàng đáy về, nhấp vài hớp rượu đế thưởng thức con cua gạch và mấy con bạch tuộc đoạn ăn lẹ hai chén cơm chan canh tép cho dễ nuốt rồi ngả người nằm lên chiếc chiếu gấp gọn nơi đầu phản, đưa hai tay kê đầu thay gối nghe 4 người khác bàn luận tới lui... Chợt thấy anh Tam, người chủ chốt đưa lên ý định cuối cùng đúc kết ý kiến của ba người khác... Anh Tam thuộc loại người rất dứt khoát và dám thực hiện mọi chuyện táo bạo này... Thày vẫn giữ thế nằm... cất tiếng xen vào cuộc bàn thảo:

- Em có ý kiến...

- Sao từ nãy chú không nói câu nào, mãi giờ cóc mới thèm mở miệng...

- Anh nghĩ là cái Đanh và hai đứa con gái kia tội chúng nó có đáng chết không? Thằng Tranh báo huyện cũng thế. Nếu tội chúng đáng chết, không có gì đáng nói; còn nếu không, đụng đến mạng người, em nghĩ không nên. Có thể nên thuê thằng nhỏ nào đó cặp với cái Đanh để dụ mấy đứa con gái đi nơi khác vào đêm đánh vượt biên không?

- Chú đề nghị cũng có lý... nhưng... coi bộ khó ổn...

- Anh nói khó ổn như thế nào? Hoặc là khó kiếm người tin cẩn hay là sự phiền hà của việc mình trả tiền cho người khác làm sự tội.

- A ha! Cóc mở miệng có khác; cả hai vấn đề chú vừa nói đều khó ổn... Mặc dầu rất hợp tình hợp lý, lại khỏi phải đụng đến mạng người nhưng khi người ta biết mình có chuyến sức mấy họ chịu cặp con nhỏ đi chơi; họ còn phải lo căn me chứ. Chỉ có chú làm vật hy sinh mới an toàn được. Đứa khác biết, cả làng biết thì thà rằng bảo tôi nói toáng lên và đừng làm nữa còn hơn. Chú nghĩ sao? Tôi tính như vầy, mấy ngày này, chú nói con Nga giới thiệu chú với con Đanh, hẹn hò nó vài lần nhưng chỉ được hẹn ban ngày, không được hẹn ban đêm. Tối hôm đó, chú dẫn nó đi Vũng Tàu thuê khách sạn rồi đưa nó đi ăn, ép uống cho say. Đến đúng giờ hẹn, tôi cho người chạy xe Honda đón chú về lên ghe. Chú nghe được không?

- Không hiểu cái Nga có chịu giới thiệu không hay là lại ghen rối lên thì làm sao mà hẹn với hò được.

Cái Nga ở trong ca đoàn, biết nghề y tá, lại làm thư ký ấp nên thày Lành thường phải nhờ gia hạn giấy phép. Chẳng hiểu sao, nàng có cảm tình đặc biệt với thày. Có một lần thày Lành bị cảm không đi làm được phải nhờ người mua thuốc của nàng uống. Nghe tin thày đau, cái Nga bỏ cả việc lo nấu cháo; chuyện này bỗng nhiên biến thành giai thoại tình cảm giữa hai người. Thày Lành biết nàng có cảm tình đặc biệt với mình nhưng không muốn để nàng thất vọng nên chẳng dám mở miệng nói chi. Chỉ âm thầm mang nỗi thương hại mỗi lần tập hát gặp phải cặp mắt nàng dài ra như mơ mộng... Tình cảm nàng đã rõ ràng như thế mặc dầu chưa nói ra mà bây giờ nhờ nàng giới thiệu mình với người con gái khác, sao nỡ đang tâm! Và nàng sẽ nghĩ gì...

- Chú yên trí, tôi sẽ sắp xếp vụ con Nga, bổn phận chú lo cặp con Đanh là đủ... Đừng thắc mắc thêm. Nhớ là cấm hẹn ban đêm...

- Thật là oái oăm, giống truyện Trạng Quỳnh cho ỉa cấm đái...

- Thôi mà... kèo nài cũng chẳng làm ăn nên cơm cháo gì... Chú dám không; tôi đánh cá với chú đó...

- Cần gì phải đánh cá, anh thuê thử coi... Đâu ai đánh thuế người nói khoác...

Cha Lành thinh lặng đứng nhìn đôi vợ chồng chọn chỉ, chọn khâu làm giã trong khi tâm trí trở về với cảnh gian truân ngày trước. Có cách nào để giúp họ được bây giờ... Mình đã lao đao nơi ngày tháng cũ với những khó khăn nên có thể thông cảm được sự phiền não chạy ăn, trốn nợ của kiếp nghèo khổ... Ai là người có đủ năng lực làm phép lạ gỡ rối cho cặp vợ chồng này. Năm tháng chồng chất, khó khăn cuộc đời đè nặng đôi vai khiến thân hình tàn tạ vì không có cơ hội để nghĩ tới vóc dáng chính mình. Chúa ơi! Con dân Chúa lầm than khổ cực thế đó. Muốn cho có hơn, sống dễ thở hơn lại bị lừa nhiều hơn để rồi suốt đời làm thân trâu ngựa. Cuộc sống đã thiếu thốn lại càng thiếu thốn thêm, chai lỳ và phải giả câm giả điếc trước những con nợ róc réo. Trên cao Ngài thấu cho chăng! Con biết kêu ai, nài nỉ ai bây giờ, nên cũng chỉ còn cách giả điếc, giả câm, ậm ừ cho qua. Thế rồi còn bao nhiêu thứ rắc rối nơi cuộc sống lầm than nảy sinh ra... Con cái chưa kịp lớn, đã ohải lo đi ghe giúp bố mẹ. Ghe nhỏ kiếm người đi phần nào ai muốn bước lên bởi phần làm việc ít. Rõ đã khốn lại thêm khổ, mát tất cả; học hành đã không có mà làm lụng lam lũ cũng chẳng tìm đâu thấy tiền…


14

"Mình không thể giúp người một cách thiếu ý thức ngoài khả năng chuyên môn..." Những lời này luôn luôn được gợi lại nơi tâm trí cha Lành để thúc đẩy ngài đặt vấn đề tìm cách kiếm người giúp việc dân Chúa. Khổ nỗi, chủng viện có bao giờ dạy chủng sinh cách kiếm tiền mà vấn đề đè nặng nơi các giáo xứ vẫn luôn luôn là ngân sách. Chủng viện nào có bao giờ dạy cách chủng sinh nghề lãnh đạo, cách nhận xét người, kiếm người và dùng người để làm việc. Lại nữa, lỡ chọn lầm người sao có thể đuổi họ khỏi chức vụ thay vì cứ chấp nhận để họ bố lếu bố láo làm tào lao thiên tướng hoặc ra vẻ ta đây có danh vọng suốt khóa đem muôn sự khó chịu tới không những dân Chúa mà còn làm phiền hà tới cả mình... Và rồi dân Chúa thì đa chủng, họp lại từ khắp nơi khắp chốn sao cho có thể có được dù chỉ là ý niệm phù hợp với mọi tập quán, tâm não hay cách cư xử của cả lớp người nhào nháo họp lại như thế...

Những hình ảnh sự việc cũ tuần tự diễn qua tâm trí từng chi tiết nhỏ mọn, những khác biệt không bao giờ có thể hòa hợp tiên báo cho những khác thường nặng nề hơn có thể đến trong tương lai... Kinh nghiệm quá khứ gợi lại, cứ những lúc ngài thấy mình bất lực nhất và không còn cách nào xoay xở để đi đến tâm trạng chấp nhận thì an bình trở lại, niềm an bình của kẻ chẳng có chi nên không sợ bị mất khi đã chịu thua thiệt cả sinh mạng, và từ đó ngài tự cảm thấy cuộc đời mình gắn chặt với dòng đời dân Chúa. Nếu Chúa muốn thì Ngài sẽ cách này hay cách kia thúc đẩy dân Ngài làm. Linh mục chỉ như người chiêm ngưỡng, ráp nối những thành phần đơn lẻ của sự kiện lại thành một mối. Linh mục là người giương to mắt ra mà nhìn công việc Chúa đang thực hiện nơi dân Ngài mặc dầu nhiều khi và đa số trường hợp linh mục trở thành người chịu trách nhiệm, chịu những gánh mình không hề nhúng tay đặt nền tảng...

Bài giảng ngài đã diễn thuyết trong lễ tạ ơn của một linh mục bạn, cha Nguyễn Tiến Đắc, khi ngài mới chịu chức vẫn luôn hằn ghi nơi lòng. Đó cũng là kết quả phần nào của những suy tư nguyện cầu về mối liên hệ giữa linh mục và giáo dân hướng dẫn bước đường ngài đang theo...

Quý cha, quý tu sĩ, quý ông bà anh chị em trong Đức Kitô,
Tục ngữ Việt Nam có câu: "Đẹp tốt phô ra, xấu xa đậy lạy." Mọi người chúng ta thực hành đúng mức ý nghĩa câu tục ngữ này. Có lẽ không ai muốn nói đến bất cứ điều gì không nên không phải của mình. Chẳng những thế, chúng ta lại càng không muốn nghe bất cứ ai nói tới những sự yếu hèn của mình nữa. Tuy nhiên, bài đọc hôm nay, trong thư thứ hai gửi tín hữu Côrintô, thánh Phaolô lại nhấn mạnh rằng: "Vậy tôi rất vui sướng khoe mình về những sự yếu hèn của tôi," và đồng thời ngài thêm, "vì khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh mẽ" (2 Côrintô 12: 5). Thử dành vài giây để suy gẫm những lời này, mọi người chúng ta đều nhận ra câu nói, "vì khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh mẽ" mang một ý nghĩa, và ý nghĩa đó là: vì khi tôi nhận thức được mình yếu đuối, lúc đó tôi nhận thức được sức mạnh của Chúa trong tôi, và đó cũng chính là lúc tôi thực sự mạnh mẽ.
Thưa quí cha, quí ông bà anh chị em, nhận thức được mình yếu đuối để rồi nhận ra sức mạnh của Chúa nơi mình là một hồng ân mà Chúa ban cho mỗi người chúng ta. Vấn đề còn lại là chúng ta có dám khiêm nhượng, chân thành nhìn ngay thẳng, không thiên vị về con người và cuộc đời của mình hay không! Với sự nhận thức lời của Thánh Phaolô nhân dịp thánh lễ tạ ơn của cha Phêrô Nguyễn Tiến Đắc, tôi muốn chia xẻ cùng quí vị tâm tình của tôi về sự liên hệ giữa linh mục và giáo dân.
Mọi người đều biết, linh mục được gọi và chọn nơi hàng giáo dân. Điều này nói lên, trước tiên, linh mục là một con người như mọi người. Chúng ta đều kinh nghiệm rằng, đã là người, chúng ta được Chúa ban cho những hồng ân, những sự tốt lành, thánh thiện. Ngay từ khi chịu phép rửa tội, chúng ta được thông phần tư tế, tiên tri, và vương quyền của Chúa Kitô bởi Thánh Thần Thiên Chúa, chúng ta đã được gọi vào hàng linh mục. Cho nên, linh mục là những người dùng cuộc đời mình để trả lời ơn gọi khi chịu phép rửa tội. Lẽ dĩ nhiên, muốn được chọn phải dùng cuộc đời mình trả lời ơn gọi dâng mình cho Chúa trước, bởi không theo, làm sao được chọn.
Đã là người, không ai trong chúng ta tránh khỏi những yếu hèn trong cuộc sống. Hơn nữa, lầm lỗi là chuyện bình thường của con người. Ai không chấp nhận mình lầm lỗi, người đó không chấp nhận Thiên Chúa là đấng thiện toàn. Ai không chấp nhận mình lầm lỗi, người đó không chấp nhận người khác lầm lỗi. Nói cách khác, người nào càng nhận ra và chấp nhận lỗi lầm của mình bao nhiêu, người đó càng thánh thiện bấy nhiêu. Vì thực ra, người nào càng tốt lành, thánh thiện bao nhiêu, càng nhận ra sự tốt lành của người khác bấy nhiêu.
Bởi linh mục được chọn từ con người, linh mục mang tất cả những tính chất của con người. Linh mục cũng phải có những sự yếu hèn của con người. Không có những yếu hèn của một con người, không phải là linh mục. Tuy nhiên, qua kinh nghiệm trong sự liên hệ giữa giáo dân và linh mục, chúng ta thường không chấp nhận linh mục là một con người. Thánh Phaolô đã rất vui sướng khoe về những sự yếu hèn của ngài, chúng ta kính ngài là thánh trong khi linh mục là một con người, mà chúng ta không chấp nhận những yếu hèn của con người nơi linh mục; có lẽ chúng ta đang muốn cho linh mục trở thành giả hình. Bởi vì chỉ có Chúa mới là đấng thiện toàn, đã là người mà không ai nhận thấy người đó có lầm lỗi, người đó chỉ là người giả hình.
Đọc trong hạnh các thánh, chúng ta chỉ thấy kể lại những chuyện một linh mục thánh thiện giữa đám chiên hiền lành, chứ chưa bao giờ có một linh mục hiền lành giữa đám chiên dữ. Qua những suy luận như thế, thưa quí ông bà anh chị em, chúng ta là những người đang tiếp tay đào tạo linh mục trong cuộc sống của chúng ta. Chúng ta đang chia xẻ với linh mục đời sống tông đồ của ngài. Chúng ta vui, linh mục vui; chúng ta buồn, linh mục không sung sướng gì. Cuộc sống, tâm tình của chúng ta thế nào, chúng ta đang góp phần cho linh mục của chúng ta thế ấy. Xét như vậy, chúng ta cũng đang cùng với linh mục thi hành chức vụ linh mục trong cuộc sống của chúng ta. Linh mục cần được chúng ta chân thành thông cảm, am hiểu, và chia xẻ những gánh nặng của chủ chăn chứ đừng lồng ngài vô khung kính, lau chùi láng bóng bên ngoài, và để ngài bị mục nát phía trong. Tóm lại, chúng ta có thể nói, linh mục là bộ mặt và là thực trạng biểu hiệu cho tính chất cộng đồng ngài đang coi sóc.
Với tâm tình liên kết cùng linh mục trong việc phụng sự Chúa và dân Ngài, chúng ta dùng một phút thinh lặng - cảm tạ Chúa vì những hồng ân Ngài đã ban cho chúng ta và dùng tâm tình này hợp với thánh lễ - cầu nguyện cho ơn kêu gọi dâng mình cho Chúa. Xin Chúa chúc lành nơi quí ông bà anh chị em.



Những ngày thường cha Lành không giảng vì chỉ có 20, cùng lắm là 23 phút dâng lễ. Hôm nào ông từ lần hạt chậm một phút là mất một phút vì thế cha Lành phải dâng lễ sao cho nhanh hơn một phút bởi nếu lâu hơn, một vài giáo dân không kịp giờ đến sở. Lẽ đương nhiên, dâng lễ đâu phải như chiếc máy cassette, ông cha đọc như cái máy, thi hành những cử điệu giơ tay giơ chân giống robot! Có một ông cụ kia hình như có điều gì tức với cha xứ; hôm đó, chẳng hiểu uống rượu đâu ngà ngà và bị ai nói khích thế nào, vô gặp cha xứ đối chất. Nói lung tung trời bể một hồi liên quan đến vấn đề làm ăn cực khổ, lễ lạy, ông cụ lè nhè thốt: "Cha chỉ quay ra quay vào mấy phút thì bằng chúng con làm cực khổ cả ngày..." Dâng lễ nào phải chỉ là quay ra quay vào; nếu quay ra quay vào thì ai quay chả được. Dâng lễ là sự thờ phượng cao siêu nhất của đạo Công Giáo. Hai mươi ba phút dâng lễ còn phải vội vàng phương chi thêm vài phút giảng. Cha Lành chỉ giảng vào những ngày chủ nhật, còn lễ trọng không nhằm ngày nghỉ việc, chỉ hai hoặc ba phút là nhiều nhất. Nói quá, không kịp giờ đi làm là mất việc, ai dám đi dự lễ! Hơn nữa, nhớ lại kỳ còn nơi chủng viện với môn học về giảng giải, hội đồng giám mục Hoa Kỳ có soạn một cuốn sách hướng dẫn về giảng khá hay, trong đó có một câu ngài cho là hay nhất thỉnh thoảng tự nhắc lại, đại khái, "Nếu bạn có gì nói thì nói ra đi, còn không, vì Chúa, xin im cái miệng lại..."

Người ta cứ nói, muốn nói ngoa làm cha mà nói. Cha phần đời nói ngoa, vợ con đâu chịu mà còn có khi ra tòa là đàng khác. Cha phần đạo nói ngoa coi chừng cũng ra tòa. Ngày xưa chữ giảng thường được kèm theo chữ dạy; ngày nay chữ giảng không mang nghĩa giảng dạy mà mang ý thức sâu rộng hơn: công bố tin mừng, công bố Lời Chúa hoặc rao giảng Phúc Âm... Ngày còn trong chủng viện, vào giờ học cuối cùng của môn giảng thuyết năm thứ tư, linh mục giáo sư nói một câu đơn sơ nhưng cha Lành còn nhớ mãi mỗi khi soạn giảng:

-Quý thày nhớ dùm mỗi khi giảng sau này: làm ơn để ý đến tâm tình của giáo dân.

Nói rằng giảng dạy chứ thực ra, chỉ có giảng mà không dạy; bởi giảng là chia xẻ Lời Chúa với người khác còn dạy thì đôi khi thường bị hiểu lầm. Có một lần mấy thày ngồi nói chuyện về giảng, một thày kể lại có một cha muốn quyên tiền làm nhà xứ tại Việt Nam mà giáo dân vì có một vài điều không đồng ý với ngài nên tỏ ý không chịu đóng góp. Vào một ngày chủ nhật ngài tuyên bố trong bài giảng:

-Trong Phúc Âm, Chúa dạy rằng "Ai không nghe 'con' là không nghe Ta;" - thày ấy nói tiếp - "Nó không chịu làm điều mình muốn thì lại nói ai không nghe mình là không nghe Chúa!

Giảng Lời Chúa đâu phải là bảo người ta phải làm theo ý mình mà là giải thích Phúc Âm áp dụng vào đời sống hằng ngày để khuyến khích người ta sống Phúc Âm; sống Phúc Âm chứ không phải sống theo ý mình bởi mọi người có quyền tự do chọn lựa lối sống của họ. Mình đề nghị, giải thích mà không có quyền bắt buộc. Như thế linh mục là dung môi, là tiên tri theo nghĩa thức tỉnh, nói cho người khác nhận biết ơn cứu độ của Chúa đã được chuẩn bị sẵn nơi chính cuộc sống họ để họ mở rộng tâm hồn đón nhận và sống ơn cứu độ. Hơn nữa, những đề nghị linh mục đưa ra trong bài giảng, có thể nói, là đề nghị cho chính mình; giáo dân nghe giảng rồi thực hành theo hay không tùy sự lựa chọn và quyền tự do của họ. Thực tế hơn, họ sống theo lời linh mục giải thích, đề nghị hay không thực sự tùy thuộc vào cung cách đối xử, thái độ của linh mục với giáo dân chứ không phải bất cứ điều gì linh mục nói ra là "Lời Chúa phán" như quan niệm cổ xưa. Nhớ lại ngày còn đi học thần học tại Chicago, một hôm cha giám thị nhà kêu thày Lành vô chỉ trích một số vấn đề rồi đưa ra một mẫu làm việc thày nên theo...

-Thưa cha, những đề nghị của cha thật hay nhưng chỉ đúng cho chính cha và chỉ cha mới cần áp dụng. Con ăn cơm với nước mắm ngày ba bữa ngon lắm nhưng không thể nào ăn được loại cheese xay nhão. Con không đề nghị cha ăn nước mắm thì yêu cầu cha cũng đừng đề nghị con ăn loại cheese đó...

Vì thế thày bị kết án là bướng, là không biết vâng lời. Thày nghĩ, Chúa ban cho mình bộ óc mà không dùng để suy nghĩ tức là coi rẻ hồng ân của Ngài. Vâng lời một cách ngu xuẩn là khinh chê ơn Chúa đã ban bộ óc biết suy tư cho mình. Hơn nữa, vâng lời đâu phải bảo sao làm vậy! Mình là người, mình có sai lầm và bề trên cũng là người, đã chắc gì bề trên luôn luôn đúng. Nếu đã có ít nhất một lần sai thì có thể có lần thứ hai và rồi lần thứ ba... Thế nên vâng lời một cách máy móc vừa khinh chê ơn Chúa vừa từ chối sự tự do mà chính Chúa cũng tôn trọng nơi mình. Nghe những người xưa kể lại chuyện bề trên sai đệ tử trồng cây ngược để thử đức vâng lời, thày Lành cứ ngẫm nghĩ: cái nhà dòng ấy chỉ tuyển chọn những người đần. Ôi! "Ba năm ở với người đần, không bằng một chốc đứng gần người khôn." Thế mà cứ cổ võ đức vâng lời một cách vô ý thức. Phải là mình, thày nghĩ tiếp, mình sẽ đuổi tất cả những đứa ngu si trồng cây ngược. Nếu trồng những cây bình thường ngược mà tin rằng có thể mọc thì người trồng tất nhiên phải là bất bình thường, càng nên tống cổ ra khỏi nhà dòng bởi sự ngu dốt, không biết dùng lý trí của một con người bình thường. Hơn nữa, người đã dốt như thế thì làm sao có thể chịu đựng sống chung cho được bởi tội lỗi do sự ngu dốt mà ra. Chấp nhận sự ngu dốt là chấp nhận sự tội; ôi, kỳ quái!
Kỳ cấm phòng chuẩn rị chịu chức phó tế, cha giảng phòng là một vị linh mục dòng Tên đã đưa ra một vấn đề thoạt nghe rất ngây ngô nhưng ý nghĩa lại rất sâu sắc:

- Qua Kinh Thánh, chúng ta thấy Chúa chỉ chọn những người thật tầm thường, yếu hèn làm tiên tri hoặc tông đồ hướng dẫn dân Chúa. Một Môi sen lặp năm lặp bảy lãnh đạo dân Chúa chống lại vương quốc Ai Cập giải thoát dân Ngài. Một thánh Phêrô nhát gan chối Chúa làm đầu Hội Thánh. Quý thày nhớ cho, Chúa dùng những người yếu hèn để chứng tỏ quyền năng của Ngài. Những người tài giỏi làm chuyện đại sự; đó là điều dĩ nhiên. Tuy nhiên, dùng những người yếu hèn mà làm được những công việc cả thể; điều này minh chứng Chúa toàn năng biết bao. Thế cho nên, quý thày được Chúa chọn làm linh mục; xin nhớ rằng mình được chọn để làm việc của Chúa thì mình là người yếu hèn... Chẳng có gì vinh quang thuộc về mình đâu! Những vinh quang đều do Chúa; do đó đừng cướp công của Chúa kẻo mà khốn khổ...
Chúa cũng không thể biết được các đấng dòng Tên nghĩ gì, thày Lành nghĩ, thế ra dân dòng Tên đôi khi cũng nói lắm chuyện có lý...

Dĩ nhiên, giáo dân không nói lên những điều bất đồng ý kiến với linh mục khi ngài đứng trên tòa giảng, nhưng không phải họ không nói có nghĩa họ không biết. Đành rằng Chúa dùng những lời đơn sơ mộc mạc của linh mục để hướng dẫn dân Ngài nhưng Chúa chắc chắn không dùng những lời nói không nên không phải, đôi khi tới quá đa quá độ không để ý gì đến tâm tình người nghe. Dùng tòa giảng vì mục đích riêng tư, chắc chắn Chúa chẳng thể làm ngơ, và cũng chắc chắn rằng dùng tòa giảng với mục đích riêng tư thì cũng chẳng tin gì vào Chúa vì có tin chăng thì cũng đã tin rằng Chúa không chấp nhận cho bất cứ thần thánh nào hơn Ngài hoặc động chạm đến con dân của Ngài.

Hơn nữa, linh mục được học về thần học thì giới hạn hiểu biết thuộc về thần học. Chủng viện đâu dạy nghề buôn bán hay nghề điện tử; do đó có những vấn đề, những kiến thức chuyên môn mà một số giáo dân đang tham dự Thánh Lễ đáng bậc thày của mình. Nhảy ra khỏi vòng rào thần học và tu đức, thiên hạ thiếu gì kẻ tài giỏi hơn. Thật ra, các môn học chỉ giúp con người thêm kiến thức về các ngành riêng biệt nhưng nói chung đào luyện con người có khả năng suy luận sắc bén hơn khi áp dụng vào thực tế. Trong số giáo dân nghe giảng có những đầu óc thông minh sắc bén, không liệu bề giảng Lời Chúa, linh mục đã không giúp họ được gì mà đôi khi làm phiền họ... Và như thế coi chừng chủ chăn đuổi con chiên ra khỏi nhà thờ thay vì dẫn dắt con chiên qua sự vô ý của mình.

Rao giảng lời Chúa đâu phải là chuyện cứ muốn nói ngoa làm cha mà nói. Lời Chúa bao giờ không ngược với đời sống tham sân si thế tục. Linh mục cũng là con người; có linh mục nào không phải là người? Mà đã là người, ai tránh thoát tham sân si? Vì thế Lời Chúa đâu phải chỉ được dùng để "dạy" giáo dân mà linh mục bị dạy trước tiên khi suy gẫm hoặc soạn giảng. Dù cho bao nhiêu nhà thần học, bao nhiêu nhà chú giải Kinh Thánh làm việc, suy tư từ đời nọ qua đời kia thì Lời Chúa vẫn cứ còn như một màn bí mật chỉ mới được bắt đầu vén lên. Bao nhiêu thư viện chứa sách vở thần học, Lời Chúa vẫn còn đầy huyền nhiệm. Có chăng các nhà thần học, tu đức học, chú giải Thánh Kinh, chỉ mới làm sáng tỏ được một phần nào sự áp dụng Lời Chúa trải qua các thời đại. Giảng là áp dụng Lời Chúa vào cuộc sống tâm linh để rồi được thực hiện qua cách sống, thái độ, ý thức tùy thuộc từng hoàn cảnh môi trường, hoặc sự nhận thức hiểu biết cá nhân.

Năm giúp xứ tại Xuân Ninh, Cam Ranh, một buổi tối dạo mát nói chuyện với cha xứ ngài nói:

-Lời Chúa lắm lúc không thể nào giải thích được vì rất ngược tai. Không thể hiểu Chúa muốn nói gì qua đoạn Thánh Kinh...

Mặc dầu đồng ý với cha xứ nhưng thày Lành ngày ấy còn ngây ngô, chưa biết gì về thần học nên không dám tán đồng ý kiến và cũng chẳng dám thêm thắt chi, chỉ nhận thấy nhiều vấn đề không "thuận tai" trong Kinh Thánh! Nhưng thày nghĩ, nếu Kinh Thánh chỉ viết những điều thuận với mình thì có chi phải học, có gì nên theo do đó đâu cần giảng, đâu cần phải suy nghĩ. Mình chỉ suy nghĩ, tìm hiểu những gì chưa hiểu, chưa biết chứ đâu ai tìm hiểu điều mình đã biết. Lời Chúa nếu thuận tai mình thì mình không phải là người mà là thánh bởi chỉ có thánh mới sống đúng theo lời Chúa.

Bao nhiêu lâu rồi người ta đọc Kinh Thánh, đọc Phúc Âm, nhưng được mấy ai nhận ra rằng Kinh Thánh được viết để minh chứng một cách ám chỉ về Thiên Chúa chứ không phải Kinh Thánh là một bộ sử của người trần thế; nói khác đi, Kinh Thánh không phải là bộ sử của dân Do Thái. Kinh Thánh viết lại kinh nghiệm về Chúa của dân Do Thái chứ cũng không phải sử của Chúa của dân Do Thái. Nếu Ađam và Evà là người đầu tiên vậy thì ai chứng kiến cảnh Chúa lấy xương sườn cụt của Ađam nặn thành Evà mà ghi chép lại. Nếu coi Kinh Thánh là bộ sử thì người mà Thiên Chúa dựng nên đầu tiên phải là người viết hay người kể lại Kinh Thánh chứ không phải Ađam hoặc ít ra Ađam phải là người thứ nhì và Evà là người thứ ba nếu người viết Kinh Thánh là người đàn ông. Nếu người viết Kinh Thánh là người đàn bà thì chắc chắn sẽ không thể nào có Evà từ xương sườn cụt theo nghĩa giấy trắng mực đen!

Quan niệm Lời Chúa trong Kinh Thánh được hiểu theo nghĩa đen như bộ sử ký đã gây nên không biết bao nhiêu tai hại, phân rẽ. Ngày xưa, gọi là xưa thôi, ông bà ta cấm con cháu đọc truyện Kiều cũng chỉ vì hiểu Kiều theo nghĩa đen. Nào có ai tên Thúy Kiều, Thúy Nga có cuộc đời giống như Nguyễn Du đã mô tả trong Đoạn Trường Tân Thanh; mà Thúy Kiều được dùng ám chỉ Nguyễn Du, tác giả "Truyện Kiều". Nguyễn Du lại là đàn ông sao có thể bị bán vào lầu xanh; thế nên lầu xanh cũng chỉ là một biểu tượng được tác giả dùng để nói về cảnh khổ ải tâm tư của mình đối với thực tại của thân phận trong "hàng thần lơ láo." Kinh Thánh cũng được viết ám chỉ, phải được hiểu theo nghĩa bóng tương tự như thế.

Hơn nữa Kinh Thánh được viết dựa theo phong tục tập quán người Do Thái cùng những ảnh hưởng của kiến thức thời đại 2000 năm về trước nên càng khó hiểu. Lời Chúa được diễn giải theo biểu tượng ám chỉ trong khi cứ tin theo nghĩa đen của Kinh Thánh để rồi tưởng rằng nắm được chân lý trong tay tha hồ vùng vẫy; có lẽ Chúa cũng phải nực cười; mà có nói ra sẽ bị cho là bướng, là không vâng lời, là rối đạo. Năm thứ nhất thần học tại C.T.U. (Catholic Theological Union), Chicago, tuần nào thày Lành cũng cố kiếm lấy một giờ gặp cha giám đốc nhà trường vì ngài dạy lớp nhập môn thần học. Một hôm thày băn khoăn hỏi cha:

- Thưa cha, con không hiểu trí khôn mình sẽ suy nghĩ đến đâu về thần học nhưng son e sợ trở thành rối đạo.

Cha giám đốc nhìn thày ngỡ ngàng, đoạn ngẫm nghĩ chút xíu, ngài trả lời:

- Tôi nói cho thày biết, những người rối đạo là những người tuyệt đối thông minh. Thày không thông minh đủ để có thể rối đạo. Cứ yên trí suy luận.

Câu trả lời đơn sơ nhưng thật tuyệt vời giúp thày Lành xóa bỏ được tất cả những tự ty mặc cảm e sợ đã chồng chất bao lâu nay, kể từ ngày mới lớn, biết đặt vấn đề suy tư về cuộc đời hoặc những chuyện xảy ra trong cuộc sống liên hệ đến tâm tư nhất là về tôn giáo.

Nhớ lại kỳ còn nhỏ, hôm gia đình thày lợp lại mái nhà, nhờ ông bác ruột làm thợ. Gia đình ông tương đối kể cũng đề huề, 5 gái, 2 trai chỉ phải cái tội người con trai lớn bằng tuổi thày Lành hơi bị dở dở ương ương. Số là ngày xưa ông đi lính Tây, kiếm được ít thuốc Bévitine 1 cho con uống để ăn được cơm. Hơn nữa, thằng bé lại cứ như bị đẹt không chịu lớn. Bà mẹ không hiểu mô tê gì, mỗi ngày cho đứa nhỏ uống hai viên. Nghe người ta nói thuốc B1 có tính chất nóng và vì đứa nhỏ uống quá nhiều nên bị ảnh hưởng tâm tính trở thành bất bình thường. Trong lúc lợp nhà, không hiểu ông bác và những người giúp nói chuyện gì liên quan đến vấn đề các cha giảng dạy; đang ngồi trên mái nhà đóng đinh lợp tôn mà ông bác nổi sùng nói oang oang:

- Cha mẹ sinh người, trời sinh tính. Các cha giảng là nhìn cây biết quả đâu có được. Các cha đâu có đẻ con mà biết... Nếu nói rằng cha nào con nấy thì các cha có dạy người ta đi ăn cướp đâu sao vẫn có những kẻ cướp...

Ông bác kế trầm tĩnh hơn muốn cho êm chuyện, tránh nói đụng chạm đến các cha do đó nói chận anh mình:

- Thì cha chỉ lặp lại Phúc Âm chứ nói gì bác đâu. Phúc Âm chả nói xem cây biết quả là gì...

- Thì Lời Chúa nói mình phải chịu nhưng cũng có những câu nghe chịu không được.

Phúc Âm đối với những người bình dân, quê mùa mộc mạc mà còn như vậy, phỏng với cuộc đời rắc rối hơn, sự hiểu biết cao hơn Lời Chúa phải được hiểu thế nào?
15

Trong thời gian thực tập lớp tuyên úy bệnh viện, thân nhân một bệnh nhân nói với thày Lành bà ta không thể chấp nhận được những người không được rửa tội có thể vào nước thiên đàng vì họ không tin vào Đức Kitô và Kinh Thánh.

- Thưa bà là người Công Giáo?

- Không, tôi theo Tin Lành.

- Tôi nghĩ, có những người không theo Công Giáo, chẳng theo Tin Lành, chẳng bao giờ được rửa tội, không được nghe dù chỉ tới tên Chúa Giêsu mà cuộc đời họ sống tốt lành, chân thật chẳng hạn như những nơi vùng quê hẻo lánh ở Trung Hoa hay Ấn Độ bởi đâu có người truyền giáo tới đó; nếu họ bị trầm luân chẳng lẽ Chúa cố chấp đến thế ư! Hơn nữa, trước khi Đức Kitô sinh ra, có ai được rửa tội đâu. Chẳng lẽ bao nhiêu người đã qua rồi muôn đời bị đày đọa mặc dầu sống tốt lành! Tôi không thể chấp nhận họ bị trầm luân bởi nếu chấp nhận như vậy thì sống tốt lành cũng không được cứu rỗi; sống lôi thôi bê tha cũng bị lên án phạt thì vô lý quá, lại khuyến khích cho người ta sống bê tha...

- Nhưng công tôi giữ đạo mà không được hơn họ à?

- Ồ! Bà nói như thế không thuộc về vấn đề rửa tội hay không mà là vấn đề mình sống như thế nào. Mình là con người có tự do lựa chọn và cuộc sống mình tùy thuộc sự chọn lựa mình muốn trở nên thế nào chứ không phải được rửa tội là tốt lành mà không được rửa tội đều là phường bất hảo. Cuộc sống mình chứng tỏ niềm tin của mình, cuộc đời mình có nói lên, có chứng tỏ ơn cứu độ của Đức Kitô đến với mình không. Nếu không, mình đang từ chối ơn cứu độ, mà lẽ dĩ nhiên, từ chối ơn cứu độ sao có thể được cứu rỗi. Còn những người không biết đến Đức Kitô nhưng có cuộc sống tốt lành, xứng đáng phải được cứu rỗi. Đọc trong Kinh Thánh, có đoạn nào viết về Abraham, Jacob, Môi Sen, Josuah, v.v... được rửa tội đâu. Có bao giờ họ được nghe đến tên Đức Kitô đâu; sao Abraham lại được gọi với danh hiệu "cha ông của những người tin vào Thượng Đế?" Xét như vậy, nếu đặt vấn đề những nhà sáng lập các đạo là những tiên tri Chúa đặc biệt gửi đến cho từng đám dân như Abraham, Jacob, Môi Sen... thì ơn cứu độ của Chúa đã và đang ở nơi chính họ rồi đó chứ. Họ không dùng ngôn từ giống mình để nói lên niềm tin vào Đức Kitô vì họ chưa được nghe đến tên cũng như những người trước thời Ngài...

- Kinh Thánh đâu có nói thế!

- Bà hiểu Kinh Thánh ra sao?

- Thì Kinh Thánh là Lời Chúa nói với mọi người, mình phải tin theo..

- Tôi xin cắt lời bà. Xin lỗi, tôi muốn phân tích lời bà vừa nói. Tôi muốn nói rõ là chỉ phân tích chứ không bắt bẻ, bà hiểu dùm cho bởi tôi không muốn bị hiểu lầm.

- Ông cứ nói... tôi hiểu.

- Bà vừa nói mình phải tin theo... Tôi nghĩ, mình có tự do tin hay không tin và theo hay không theo. Hơn nữa, Kinh Thánh được gọi là Lời Chúa không có nghĩa bởi miệng Chúa nói ra... Kinh Thánh chỉ là cuốn sách gom góp lại kinh nghiệm về Chúa, kinh nghiệm tin vào Chúa của dân Do Thái được diễn tả qua những câu chuyện ám chỉ. Chúa dùng con người viết ra theo sự hiểu biết của con người về Chúa được gọi là linh ứng hay mặc khải. Lời Chúa ở nơi nghĩa bóng, ở mục đích đoạn văn, câu chuyện được viết ra chứ không phải Kinh Thánh chép lại y chang những gì Chúa nói. Chẳng hạn câu chuyện Môi Sen đưa dân Do Thái vượt biển đỏ và Chúa đã dùng nước để giết chết hết quân lính Ai Cập. Câu chuyện này nói lên bàn tay uy quyền của Chúa bảo vệ những kẻ tin vào Ngài chứ không phải thực sự Ngài giết đám người này để bảo vệ đám người kia. Đâu ai có bao giờ chấp nhận được cha mẹ đối xử với con cái theo kiểu này! Thế nên, tôi nghĩ mình cần biết thêm để hiểu về Kinh Thánh, những lý do tại sao Kinh Thánh được viết như thế, kinh nghiệm về Chúa của người Do Thái được hiểu và áp dụng ra sao trong sự liên hệ văn hóa thời bấy giờ để áp dụng trong cuộc đời mình bây giờ và ở nơi này trong cuộc sống tin vào Đức Kitô.

- Thì những gì Kinh Thánh viết là sự thật, và phải là sự thật vì các tiên tri được chọn để rao giảng về Ngài như Ezêkiel, Eliah, Isaiah...

- Tôi xin ngắt lời bà; bà vừa nhắc tới sự thật trong Kinh Thánh và các tiên tri. Thật ra, tên của các tiên tri đã cả là một vấn đề không đơn giản trong Kinh Thánh. Chẳng hạn Ezêkiel, chữ El có nghĩa là người thân thiết, người bỏ tiền ra chuộc mình khi mình mắc vòng lao tù. Nói theo kiểu bây giờ là người trả tiền "bond" lấy mình ra khỏi nhà tù chẳng may mình phạm luật bị giam giữ. Chữ El mang nghĩa đặc biệt được viết hoa chỉ về Chúa là đấng thân thiết với mình, đấng cứu chuộc, đưa mình thoát khỏi ách tội lỗi. Những chữ Eliah, Isaiah, Zeremiah bà thấy có 3 chữ cuối iah có nghĩa Yah
- Vê, tên người Do Thái gọi Thiên Chúa; thế nên tên của tiên tri quanh đi quẩn lại đều mang ý nghĩa lời của Chúa. Hơn nữa, sự thật trong Kinh Thánh không mang tính chất lịch sử hoặc những diễn tiến xảy ra thường ngày như chúng ta quan niệm mà Sự Thật đây được viết hoa có nghĩa là Thượng Đế, là Chúa, là Chân Lý, là mục đích cuối cùng cho con người tiến tới. Kinh Thánh được viết chứng minh có Thiên Chúa toàn năng, Ngài đang hiện diện trong cuộc đời chúng ta chứ không phải một Thiên Chúa xa vời, ngây ngô, có thế giới riêng tách biệt. Vấn đề áp dụng sự tin tưởng vào Thiên Chúa qua Kinh Thánh lại càng không đơn giản. Không phải cứ Kinh Thánh viết thế nào thì áp dụng đúng như vậy là được cứu rỗi mà có thể lại chống ngược lại với niềm tin vào Thượng Đế, và cũng chống ngược lại chính quyền làm người được Thượng Đế ban cho mình.

- Ông nói chi, sao thực hành theo Kinh Thánh lại ngược với quyền làm người?

- Tôi đưa ra một thí dụ nơi Kinh Thánh: Trong Tân Ước có viết đoạn Đức Kitô nói nếu tay con gây ra sự tội, chặt nó đi, thà rằng vào nước trời cụt tay còn hơn mất phần rỗi đời đời. Bà nghĩ thế nào? Đã bao giờ tay bà gây sự tội chưa? Thế sao bà vẫn còn cả hai tay? Và nếu ai thực hành theo như vậy sẽ bị đưa ra tòa vì tội hủy hoại thân thể. Hơn nữa, xét theo niềm tin vào Thượng Đế, người đó từ chối và hủy hoại hồng ân Thượng Đế đã ban cho là cái tay. Tôi đề nghị kiểu khác để hiểu về đoạn Tân Ước này nói riêng và Kinh Thánh nói chung. Tuy nhiên kiểu này cần sự hiểu biết nhiều hơn.

- Ông nói kiểu nào...

- Bà có nhớ có đoạn Phúc Âm kể lại Đức Kitô đi trên mặt hồ không? Thánh Phêrô xin được đi trên nước và rồi rớt cái tủm, la toáng lên "Lạy thày cứu con." Trong Phúc Âm cũng nói tiếp Đức Kitô hỏi tại sao Phêrô lại hoài nghi. Bà nghĩ thế nào về đoạn Phúc Âm này; bà có thể nghĩ rằng Thánh Phêrô rớt xuống nước vì thiếu đức tin không?

- Thì Phúc Âm viết vậy mình tin vậy, chẳng lẽ Phúc Âm viết sai!

- Tôi không nói sai hay đúng, và nói rằng mình tin vậy thì sự tin này lợi ích gì cho mình? Tôi muốn đặt vấn đề làm thế nào có thể áp dụng sự hiểu biết về Kinh Thánh trong cuộc sống chứ không phải chỉ tin suông rồi để đó. Tin suông theo kiểu đó đâu có ăn nhập chi đến cuộc đời, đâu có thể giúp mình sống sao minh chứng ơn cứu độ của Chúa đang hiện diện nơi chúng ta...

- Vậy chứ ông còn muốn bới vẽ gì về Phúc Âm. Công Giáo các ông đâu tin vào Kinh Thánh như chúng tôi!

- Tôi không muốn mình có cuộc bàn cãi tôn giáo, bà theo Tin Lành, tôi theo Công Giáo đó là quyền của mỗi người. Tôi chỉ muốn nói tới vấn đề mình là Kitô hữu, làm sao áp dụng Kinh Thánh trong cuộc sống một cách đúng đắn chứ không thực hiện móc mắt, chặt tay một cách thiếu hiểu biết hoặc nói về móc mắt, chặt tay mà chẳng bao giờ thực hiện.

- Ông muốn nói Tin Lành chúng tôi tin Kinh Thánh mà không làm theo?

- Đó là bà nói và bà đã hiểu lầm ý tôi muốn nói. Tôi đã nói với bà là không phân biệt Tin Lành hay Công Giáo mà nói về chúng ta là Kitô hữu. Bà tin vào Đức Kitô, tôi tin vào Đức Kitô nào có gì sai trật đâu. Tôi chỉ muốn nói lên điểm chung trong khi bà đặt vấn đề về Tin Lành hay Công Giáo. Vấn đề tôi đặt ra là làm sao áp dụng Kinh Thánh vào cuộc đời tôi, cuộc đời bà, cuộc đời của mỗi người Kitô hữu. Tôi nói rõ là Kitô hữu chứ không phải Tin Lành hay Công Giáo hoặc Anh Giáo.

- Vậy ông nói đi, ông bảo tại sao Thánh Phêrô rơi xuống nước.

- Bà có biết bơi không?

- Có chứ; đó là môn thể thao của tôi mà...

- Hèn chi cử điệu của bà có vẻ nhanh nhẹn khác thường...

- Bơi lội giúp cho cơ thể cân đối hơn và khỏe hơn. Bơi lội tốt hơn bất cứ môn thể thao nào...

- Bà bơi được lâu không?

- Mỗi ngày tôi bơi 1 mile trong vòng một giờ.

- Bà bơi giỏi đó, thế cỡ chừng 100 yards bà bơi chỉ mấy phút thôi.

- Cỡ ấy...

- Vậy giả sử bà đang ở trên ghe, bị rớt xuống nước bà sẽ phải thế nào?

- Tôi nín thở, bơi ngược lên...

- Bà không la hoảng lên à?

- Ông không biết bơi hay sao?

- Biết chứ nhưng không giỏi như bà vì ít khi đi bơi nhưng rớt xuống nước không chết chìm được.

- Vậy tại sao ông nói về la hoảng khi rớt xuống nước?

- Tôi muốn nói thánh Phêrô thôi!

- Ah há! Đúng rồi, thánh Phêrô không biết bơi nên la hoảng, ông khá thông minh.

- Sao Kinh Thánh nói thánh Phêrô thiếu đức tin.

- Nhưng lúc bấy giờ sóng to gió lớn...

- Ở trong hồ mà, lại gần thuyền, gần bờ. Nếu là bà, bà làm thế nào?

- Thì bơi về thuyền.

- Sao bà bảo sóng to?

- Sóng to đối với người không biết bơi!... Ông lại đưa tôi vào bẫy rồi!

- Không, chẳng bẫy rập chi hết. Vấn đề chỉ là nếu thánh Phêrô là dân chài mà không biết bơi để bảo vệ mạng sống thì mình là Kitô hữu đã không biết những gì để sống chứng tỏ ơn cứu độ của Chúa đang ở nơi mình cho mọi người biết. Đức tin mình phải được áp dụng trong cuộc đời mình ra sao!

- "Profound thought!" Ông lý luận hay; thế tại sao ông lại nghĩ được như vậy?

- Tôi không thích người khác bảo mình phải thế này, phải thế kia hoặc tin như vậy là đúng, như kia là sai mà tôi muốn biết tại sao Phúc Âm hay Kinh Thánh viết như vậy đồng thời cần phải hiểu như thế nào cho phù hợp với cuộc sống cùng suy tư của mình trong thời đại bây giờ để có thể chấp nhận được.

- Thế sao tôi nghe nói Công Giáo các ông không có quyền tin theo ý riêng mình?

- Chữ "công" đây có thêm nghĩa chung với nhau, toàn bộ dân Chúa. Dĩ nhiên, ý nghĩ, sự hiểu biết cá nhân có thể chỉ đúng với một người mà không hợp với những người khác. Chẳng hạn bà và tôi gọi Chúa là cha và có thể chấp nhận được, nhưng đối với những người không có kinh nghiệm gì về bố đẻ của mình hay bị những kinh nghiệm xấu, kinh hãi với bố đẻ của mình không thể chấp nhận được gọi Chúa là cha thì họ gọi Chúa là Thượng Đế đâu có gì cản trở. Tuy nhiên, không thể lấy kinh nghiệm riêng tư về Chúa của mình mà bảo rằng Chúa phải là như mình hiểu qua kinh nghiệm cuộc sống cá nhân để rồi không chấp nhận những kinh nghiệm về Chúa của người khác hay là cho rằng họ đã tin sai lạc. Chính vì những kinh nghiệm cá nhân về Chúa, nói cách khác, Chúa bày tỏ chính Ngài với mỗi người khác nhau nên cần có những điểm chung gom góp từ những kinh nghiệm giống nhau về Chúa của nhiều cá nhân hợp lại, đó là đức tin Công Giáo...

- Ông có ý kiến hay, thế những đoạn Kinh Thánh khác ông có tìm được điều gì "funny" không?

- Có một lần nghe giảng thuyết về đức yêu thương. Vị giảng thuyết nhắc đến đoạn Phúc Âm người Samaritanô tốt lành rồi lên án thày cả tế lễ và người luật sĩ đang trên đường đến Jerusalem như trong Phúc Âm kể. Tôi thấy dị kỳ nên về lục lọi tìm hiểu tại sao thày cả tế lễ và vị luật sĩ là hai lớp người gương mẫu tốt lành lại không thực hiện đức yêu thương trong khi họ nên làm gương để đến nỗi Phúc Âm đặt vào miệng Đức Kitô lời lên án đó...

- Phúc Âm viết rõ ràng như thế mà ông không hiểu hay sao mà phải lục lọi...

- Thế mới phiền! Tôi chỉ đặt vấn đề tại sao đoạn Phúc Âm được viết ra vì chuyện có gì đặc biệt đâu. Không giúp người là không biết thương xót, thế thôi, việc gì phải nhắc tới? Hơn nữa, đoạn Phúc Âm có vẻ đưa lên chuyện ngược đời với bất cứ ai. Thấy người khác chết đến nơi mà mình không thương xót, không giúp đỡ là điều chính ngay những người tàn ác nhất cũng không thể làm ngơ nếu họ có thể. Điều dị kỳ nhất là chính thày cả tế lễ đang giảng thuyết lên án người tế lễ; vậy thì bài giảng đó chỉ nên giảng cho những người có nhiệm vụ tế lễ chứ mắc mớ gì tới người khác. Chẳng lẽ nói rằng ấy người tế lễ được nhắc trong Phúc Âm xấu hơn mình...?"

- Ông nói cũng có lý, mình không nên kết án người khác và lại càng không nên so sánh để nói mình tốt lành hơn... Nhưng thế rồi ông có tìm ra được gì không, chuyên viên lục lọi?

- Tôi lục vừa vừa thôi chứ không phải chuyên viên lục lọi... Thế bà có hay cho người đón xe dọc xa lộ đi nhờ không?

- Không! Làm thế nguy hiểm lắm. Bao nhiêu trường hợp cướp bóc giết chết người đã xảy ra nên tôi phải đề phòng.

- Mấy lần tôi đón người "hit hike" dọc xa lộ; khi kể cho bạn bè nghe, họ nói tôi liều mạng và rồi tôi cảm thấy e sợ nên từ đó không bao giờ đón người dọc đường nữa.

- Ông không nên là đúng, lỡ ra thì sao, vừa mất xe vừ có thể bị chết người.

- Vậy nếu bà thấy người gặp tai nạn dọc xa lộ, bà có giúp họ không?

- Tôi kêu cảnh sát.

- Xe bà có CB không?

- Có chứ.

- Lỡ không có CB thì sao?

- Sẽ có người khác kêu, đó là điều dĩ nhiên.

- Sao bà không dừng lại giúp người ta?

- Luật không cho phép. Hơn nữa lỡ bị vạ lây, người ta sẽ kiện mình, có thể mất nhà cửa, và làm cả đời cũng không đủ tiền vạ! Ông có biết chuyện y tá và bác sĩ bị đền hai triệu dollars vì băng vết thương cho một em nhỏ hướng đạo sinh không? Có một em nhỏ hướng đạo sinh đi cắm trại; không hiểu thế nào, em bị đứt tay. Thiếu trưởng đưa em tới bác sĩ băng ngón tay bị thương và tiếp tục để em cắm trại với thiếu đoàn. Thế rồi không hiểu em bị chất độc gì thấm vào trong vùng cắm trại; khi về nhà bộc phát và chết. Gia đình em kiện bác sĩ và y tá đã băng bó cho em. Cuối cùng tòa kết án đền hai triệu; đó cũng là lý do tại sao nếu không có giấy của bố mẹ các em, bác sĩ và y tá không dám đụng tới sác em dù trong trường hợp khẩn cấp...

- Thế bà có ý kiến gì về vụ thày cả tế lễ và vị luật sĩ làm ngơ khi gặp người bị nạn sắp chết dọc đường không?

- Ừ há! Cũng có thể có chuyện gì, nhưng ngày xưa khác, ngày nay khác... Ngày xưa đâu có xe, đâu có tai nạn bất ngờ, và đâu có cảnh sát...

- Thật ra tai nạn thì thời nào cũng có nhưng điều kiện cuộc sống khác nên tai nạn xảy ra dưới hình thức khác. Tôi còn nhớ không biết đọc được ở đâu về luật Do Thái; người Do Thái có luật nhơ uế. Con heo là thứ nhơ uế nên người theo đạo Do Thái không ăn thịt heo; họ cũng không bao giờ dám đụng đến con heo vì đụng vô thứ nhơ uế cũng bị nhơ uế và muốn được sạch phải thi hành luật thanh tẩy một cách nghiêm chỉnh và khó khăn. Có khi tới 7 ngày tắm gội, giặt giũ quần áo với nước pha phân bò đực còn tơ, rồi kiêng khem và cuối cùng lại phải tới gặp thày tế lễ trong nhiệm kỳ để được tuyên bố thanh sạch thì mới thực sự được sạch. Những con vật chết tự nhiên ngoài trời hoặc bị con vật khác giết chết cũng là nhơ uế. Người chết được coi là nhơ uế, và thày cả đang ở trong nhiệm kỳ tế lễ không được đụng đến xác chết dù là thi thể của cha mẹ mình. Người bị cướp đánh gần chết ngoài trời được soi như nhơ uế; thế nên...

- Thì giúp người mà nhơ uế à?

- Đó là luật Do Thái. Hơn nữa, thày cả tế lễ và vị luật sĩ đang trên đường tới Jerusalem tế lễ sao họ dám đụng vào người nhơ uế. Luật Do Thái rất khắt khe, người bị nhơ uế không được bước vào đền thờ trong khi mỗi năm chỉ có một lần người ta lên đền thờ tế lễ.

- Thế sao người Samaritanô dám đụng vào?

- Người Samaritanô đâu theo luật Do Thái, đâu biết chi về luật nhơ uế.

- Vậy câu chuyện đi đến đâu theo sự khám phá của ông?

- Bà còn nhớ đoạn Phúc Âm lên án người không biết thương xót không? Cứ theo thời điểm lúc bấy giờ thì đoạn Phúc Âm này lên án luật nhơ uế của người Do Thái. Đại khái, theo tôi hiểu, bất cứ lề luật nào ngăn cản mình thương xót kẻ khốn cùng cũng đều phản lại đức yêu thương, phản lại đức tin của mình. Những luật đó, những điều kiện đó là những cánh tay cần phải chặt bỏ, những con mắt cần phải móc đi vì chúng làm cho mình phạm luật yêu thương. Theo tôi, cánh tay, con mắt là những thói quen, những tập tục ăn rễ sâu nơi cuộc sống con người, xã hội khó lòng dứt bỏ; chúng là một phần của đời sống mình như cánh tay, con mắt...

- Ông nói có lý, thế sao tôi chưa bao giờ nghe ai nói như thế?

-    Đó là lý do tại sao tôi thấy cần nhiều cố gắng tìm hiểu Kinh Thánh để áp dụng trong cuộc đời mình. Nói cách khác, người Do Thái kinh nghiệm về Chúa trong cuộc đời họ, viết ra cuốn Thánh Kinh thì mình cũng cần tìm hiểu về chính kinh nghiệm đối với Chúa qua đức tin trong cuộc sống của mình và đem so sánh với Kinh Thánh. Tôi nghĩ, cuộc đời mình là cuốn Kinh Thánh sống động; mình đang viết Kinh Thánh bằng chính cuộc sống. Theo nghĩa này, mình đang là chứng nhân của ơn cứu độ Chúa dành cho mọi người và nếu mình không giúp cho người khác quanh mình nhận ra ơn cứu độ của Chúa nơi họ, nơi cuộc sống, cccó lẽ mình đang rơi xuống nước như thánh Phê-rô mà không kêu la chi hết, lại chấp nhận chìm cho qua…


16

Bởi cá tính không chấp nhận một cách mù quáng và cho rằng mỗi người được Chúa ban cho hồng ân suy tư, thày Lành càng ngày càng cảm thấy sự học hỏi giúp cuộc đời mình có thêm những ý nghĩa khác lạ. Tự diễu với Kinh Thánh khiến cái nhìn với cuộc đời sâu rộng hơn. Thày Lành hay dùng tiếng diễu nhưng được hiểu theo nghĩa tìm những khía cạnh khác hoặc ý nghĩa khác của đoạn Kinh Thánh muốn nói lên. Càng suy nghĩ ý nghĩa Kinh Thánh, thày Lành càng nhận ra cuộc đời mình gắn bó chặt chẽ với đức tin và đức tin đòi hỏi cuộc sống mình phải thay đổi, thay đổi tận gốc rễ. Những chuyện bình thường hằng ngày mang ý nghĩa mới, lối cư xử mới thay vì chấp nhận sống theo thói quen đã từ lâu sống như mọi người.

Qua những bài vở làm nơi nhà trường thày Lành có cơ hội đối diện với những quan niệm thần học xưa và nay. Gọi là xưa vì những quan niệm, tư tưởng đã được viết ra cách đây cả 100 năm về trước, đa số là hơn, từ thời Chúa giáng trần hay trước nữa. Mỗi khi bước vào thư viện giữa những kệ sách, thày thấy mình thật nhỏ bé. Chỉ một cuốn sách nhỏ cũng chất chứa nhiều suy tư, hiểu biết. Những người đi trước để lại những kho tàng vô giá dù mình có dành ra cả một cuộc đời cũng không thể nào hiểu biết hết, thày nghĩ. Nếu đem so sánh cuộc đời mình với dù chỉ một cuốn sách, mình chưa đáng là hạt bụi nơi thư viện. Một điều làm thày Lành thích thú lẫn ngạc nhiên là những gì thày mới nghĩ tới để đặt vấn đề, có khi đã được viết ra cả trăm năm về trước. Cha giám đốc C.T.U. nói đúng: "Thày chưa đủ thông minh để trở thành rối đạo, đừng ngại chi hết." Thư viện có một hấp lực đặc biệt đối với thày; đã bước vô là không muốn trở ra bởi còn nhiều quá, nhiều điều mình chưa hề bao giờ nghe hoặc nghĩ tới; có những tâm tư chưa ai có thể ngờ, những diễn giải đưa con người tới chân trời thật mới lạ cho thấy rằng Chúa đã không quá khắt khe, xa lạ giống như mình tưởng. Chúa rất gần, gần hơn bạn thân thiết để mình có thể tâm sự tất cả dù những điều chói tai đã bao lâu thày nghĩ nhưng không dám nói cho ai nghe. Nói ra, người khác sẽ cho mình rối đạo hoặc khùng khùng.

Gần ngày chịu chức phó tế, đến lượt thày Lành diễn giải Phúc Âm ngày lễ Đức Mẹ Nữ Vương Các Thánh Tông Đồ. Dầu đã bao nhiêu năm theo đuổi ơn gọi, những phấn đấu nơi cuộc đời, nơi nội tâm ròng rã như hành trình chuẩn bị cho ngày chịu chức, thày Lành vẫn thấy nao nao; nao nao vì chưa bao giờ có được thực sự tâm trạng của người trong cuộc. Dù sao, không kể quãng đời ấu thơ vô lo, từ ngày thày có ý hướng đi tu làm linh mục cho tới nay vẫn chỉ trong tiến trình chuẩn bị mặc dầu cha giáo lớp chuẩn bị ra trường rành rẽ giải thích.

-Quí thày không việc gì phải lo lắng về ngày chịu chức. Những việc nên làm như gửi thiệp mời bà con anh em thân thuộc, những sửa soạn khăn áo, chén thánh hay học thi, quí thày cứ tuần tự chuẩn bị theo lịch trình đã tính toán. Vấn đề chịu chức không phải là chuyện một tháng hay hai tháng cuối cùng mà quí thày đã được đào luyện từ bao năm nay, từ khi có ý định dâng mình cho Chúa làm linh mục. Không phải phi lý mà quí thày có được những kinh nghiệm bản thân dầu đơn sơ hay đôi khi rắc rối trong quá trình học tập qua những năm tiểu học, trung học, đại học, rồi thần học. Thử nhìn lại những diễn tiến đã xảy ra một cách tổng quát, tất cả những năm tháng ngày giờ, những diễn biến trong cuộc đời đã được xảy ra một cách huyền nhiệm để quí thày có được ngày hôm nay. Những thanh lọc, nhận xét của nhà trường qua ban điều hành, giám thị, qua những ý kiến theo dõi của các vị giáo sư, anh em trong nhóm họp hàng tuần v.v... Tất cả đã đưa lại kết quả như một sự nhìn nhận ơn Chúa kêu gọi quí thày, và quí thày đã được đào luyện đầy đủ, xứng đáng được tuyển chọn gia nhập hàng tư tế chuẩn bị bước lên bàn thánh. Quí thày không nên để cho tâm tư ngỡ ngàng khi ngày chịu chức tới mà nên xác tín rằng Chúa đã gọi quí thày qua các môi trường đời cũng như chủng viện và ngày nay là ngày thực sự công bố sự chọn lựa của Ngài trước công chúng...

Mối suy tư mình sẽ như thế nào sau ngày chịu chức thúc đẩy thày Lành vô nhà nguyện lật bài đọc suy gẫm để soạn giảng. Cuộc đời Đức Maria thay đổi từ khi nói lên hai tiếng "xin vâng" và ngài cũng chẳng làm những chuyện to tát chi, không mơ ước cao sang, chỉ sống hòa nhịp theo sự quan phòng của Thiên Chúa... Ngài đã được chọn làm mẹ Đức Kitô, đối nghịch với tất cả những tham vọng oai hùng của loài người... Rồi đến những vị thánh nhân, mọi người ca tụng nhân đức khiêm nhường của các thánh chứ không ai viết hoặc nhắc nhở tới thánh này tiếng tăm lừng lẫy hoặc thánh kia oai phong, hét ra lửa làm muôn người phải sợ... Trong cuộc đời, bao nhiêu người chạy theo danh vọng đã gục ngã không phương chỗi dậy mà chỉ tiêu tan sự nghiệp, mộng ước... cuộc đời Mẹ Thiên Chúa phải là gương mẫu cho linh mục trong vấn đề sống chấp nhận hòa nhịp với hoàn cảnh đang sống...

Qua hai tuần suy gẫm, thày Lành giảng thuyết nơi chủng viện với một tâm tình thách đố sự chấp nhận con đường tương lai theo gương cuộc đời Đức Maria:
Mấy năm trước, khi tôi theo học lớp "The Problem of God," tôi thấy Chúa cũng có nhiều sự rắc rối. Chuyện rắc rối đầu tiên và cũng là nguyên nhân cho những rắc rối tiếp theo là Ngài đã quên không thiết lập một hàng rào chung quanh cây táo thiện ác. Theo nghĩa đen của Kinh Thánh, nguyên nhân tạo nên sự rắc rối đầu tiên của Chúa là hành động ăn trái cấm của bà Evà có lẽ là để dành quyền bình đẳng. Thật sự, tôi cũng không thể hiểu được bà Evà muốn dành quyền bình đẳng về phương diện nào, hoặc là bà muốn được toàn năng như Thiên Chúa hoặc bà muốn được trở thành con người được tạo dựng đầu tiên giống như ông Ađam. Tôi chỉ biết một điều rõ ràng theo như Kinh Thánh viết là bà Evà đã nhận thực ra cả hai người, ông Ađam và bà hoàn toàn không một tấm áo che thân. Thế rồi bà vội đổ lỗi, nói cách khác, trao ngay "quyền hành" bà vừa dành được do hành động ăn trái cấm cho con rắn khi Chúa hỏi bà nguyên do. Thế nên, chính sự đổ lỗi này đã làm Chúa tuyên án thù bất cộng đái thiên giữa đàn bà và con rắn.

Đức Maria đã không tìm kiếm hoặc mơ ước bất cứ sự cao sang thế trần mà chấp nhận thân phận mình là một tôi tớ hèn mọn của Chúa, và Chúa đã mời gọi Đức Maria làm mẹ Đức Kitô. Chúng ta là thân thể Chúa Kitô; chúng ta cũng là con cái của Đức Mẹ. Hơn nữa, bài Phúc Âm hôm nay kể lại chính Chúa Kitô phó thác thánh Gioan như đại diện dân Chúa cho Đức Mẹ dưới chân Thánh Giá. Chúa Kitô muốn chúng ta được sự che chở và học theo gương Đức Mẹ. Vì thế tôi muốn chia xẻ suy tư của tôi nơi tâm tình của Đức Mẹ đối với Thiên Chúa và điều đó là Đức mẹ chỉ sống theo điều Thiên Chúa muốn cho mình trong cuộc đời.

Chắc chắn rằng mỗi người chúng ta đều có nhiều ước mơ, và ai cũng muốn thay đổi cả thế giới theo quan niệm riêng của chính mình. Chúng ta đang chờ đợi được truyền chức năm nay, sang năm hoặc vài năm sau. Và dĩ nhiên, khi được bổ nhiệm, chúng ta sẽ cảm thấy phấn khởi và sẵn sàng thay đổi giáo xứ được sai tới theo ý muốn hoặc quan niệm của chúng ta. Thực tế chứng minh, nếu chúng ta thực hiện theo đường hướng này, chúng ta sẽ gặp rắc rối lớn lao với cha chính xứ đầy quyền hành nhưng khác quan niệm.

Suy niệm về tâm tình của Đức Mẹ, tôi nhận thấy điều tốt nhất cho chúng ta là hãy làm những gì được trao phó hay yêu cầu bởi vì chưa chắc những điều chúng ta muốn đã thực hiện được nhưng làm những chuyện cần thiết trước mắt sẽ đem lại kết quả hữu ích hơn. Chúng ta được gọi và chọn để làm công việc của Thiên Chúa chứ không phải để làm việc của chúng ta. Vấn đề còn lại là làm thế nào ngăn chận hay loại bỏ những ước mơ không cần thiết nơi chính mình. Tôi mượn lời cha giám đốc chủng viện đã một lần nói với tôi đó là luôn luôn đặt trong tâm tư câu hỏi: "Chúa Kitô sẽ làm thế nào trong trường hợp của mình" để giải quyết thực tại. Sống trong tâm tình này, chúng ta là chứng nhân của Chúa Kitô như Mẹ Maria, người chứng nhân đầu tiên đã làm thánh Gioan Tẩy Giả nhẩy mừng trong lòng bà Elizabeth. Trở thành chứng nhân của Chúa Kitô, chúng ta mang lại niềm vui tươi và hy vọng cho người chung quanh.

Hôm nay chúng ta mừng lễ Đức Mẹ Nữ Vương Các Thánh Tông Đồ, ngài cũng là nữ vương của chúng ta trong tập thể các thánh thông công. Tôi mời mọi người dùng đôi phút suy tư về phương cách nào để chúng ta học theo đức Maria trả lời hai tiếng "xin vâng" với Chúa; đoạn cùng với Thánh Lễ khẩn cầu Chúa ban ơn cho chúng ta theo bước chân Mẹ Maria trong cuộc đời mỗi người...


Tuy bài giảng không lấy gì làm đặc sắc nhưng vẫn còn ảnh hưởng cha Lành trong những năm tháng làm phó xứ cho tới ngày giờ này ngồi cầu nguyện trong nhà thờ. Thực tế và ước mơ, sáng kiến đổi mới nhiều khi đem lại niềm xót thương tâm tưởng. Chúa đang muốn gì nơi mình? Chúa muốn dân Chúa ra sao? Mình phải làm gì? Âm thầm chấp nhận những cảnh ngang trái, lỗi luật thì lòng ray rứt vì sự hiểu biết! Nói ra dân chúng than van hoặc bỏ không đi nhà thờ! Cả một vấn đề mục vụ nan giải, nan giải như câu chuyện tếu mấy người cựu quân nhân quen biết có lần diễu diễu đọc lại câu định nghĩa huynh đệ chi binh; "huynh đệ chi binh là dấu kín thì nó rình, để hở thì nó rinh, không nói thì nó khinh, và nói ra thì nó binh..."

Dĩ nhiên, Lời Chúa bao giờ cũng trái ngược với lòng ham muốn bình thường của con người và khuyến khích con người sống tốt lành, đạo đức hơn. Vả lại, mặc dầu đã học thần học nhưng không dễ chi hiểu được rõ ràng lời Kinh Thánh ngày xưa muốn nói gì, ngày nay ý nghĩa thế nào, và áp dụng trong cuộc sống ra sao. Thật ra, giảng Lời Chúa đâu phải cứ đem Chúa ra mà nói tào lao thiên tướng nhưng nói sao cho không những phù hợp với thực tế rắc rối lại còn phải phù xợp với tâm tình dân Chúa theo tính chất dân tộc hoặc đôi khi tùy địa phương, phong thổ. Có nhấp nhận được điều mình giảng giải, người ta mới sống theo; có nghe được điều thuận lý, hợp tai người ta mới thèm để ý, thèm suy nghĩ. Thế nên, một điều trái ngược khó tin là linh mục giảng giải cho chính mình trước; giảng giải trở thành chia xẻ tâm tình sống Lời Chúa của mình với giáo dân. Chúa hiện diện giữa đám dân Ngài; chia xẻ tâm tình sống Lời Chúa là giúp cho giáo dân nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi họ, giúp họ thêm niềm tin tưởng vào Chúa, vào sự quan phòng của Ngài để có cuộc sống chứng nhân và đồng thời cũng nhận ra Chúa đang dùng con người, dùng chính họ giúp con người trong mọi hoàn cảnh khác biệt hay bình thường nơi cuộc đời.

Có quan niệm cho rằng giảng giải phải dạy người ta thế nọ, thế kia. Thật ra nếu giảng được nhìn theo khía cạnh chia xẻ Lời Chúa qua tâm tình suy niệm của mình thì giảng lại là dạy chính mình trước. Hơn nữa, giảng đâu phải bới điều xấu của giáo dân ra mà nói ở nhà thờ. Đâu ai muốn nghe những điều xấu của mình; người ta chỉ thích nghe điều tốt nơi họ thôi. Thực tế cho biết, những kẻ xấu đâu thèm đi nhà thờ; thế nên bới điều xấu của người khác mà nói trở thành dạy những người tốt lành làm điều xấu. Bình thường, theo tâm lý con người, không hiểu tại sao ai cũng dễ nhìn thấy những điều không nên không phải của kẻ khác. Nhìn theo khía cạnh tâm lý, có thể rằng vì mình đã chất chứa nhiều lỗi lầm do đó dễ nhìn thấy nó nơi những người khác như một phản ảnh chăng! Rồi vì mình không thể chấp nhận những điểm yếu hèn này của mình nên đem ra mổ xẻ để trút lên đầu kẻ khác hy vọng có cảm tưởng mình tốt lành... Chỉ có Chúa biết... không thể chấp nhận được!

Có quan niệm khác, giảng nên đem ra những điều tốt lành nơi giáo dân để khuyến khích người ta sống vươn lên mãi. Vấn đề thật phức tạp vì thực tế không đơn giản như những điều mình nhìn và nghe thấy. Lại nữa, dù chỉ trong một nhóm, đã có nhiều thành phần phương chi cả xứ, cả cộng đồng, được người nọ mất người kia rồi kẻ không được để ý sinh ra phiền lòng chán nản. Còn nếu nói chung chung thì một năm 52 ngày chủ nhật, hai năm 104 lần; đào bới đặc tính tốt chung chung sẽ được bao nhiêu lần, và có phù hợp với bài đọc hôm đó hay không! Làm cha mà nói ngoa thì không nên mà nói tốt cũng không biết sao mà nói... Có ai biết đâu, Lời Chúa nào dễ chi giảng giải.

Những ngày còn trong chủng viện, cha Lành ít khi nghĩ đến những rắc rối của vấn đề giảng Lời Chúa vì, cũng như bao người khác, nghĩ rằng nào có chi đâu, vài câu nói thì nói cái gì chả được. Thế rồi qua lớp học giảng, và khi ngồi soạn giảng sác ngày lễ, cha Lành mới nhận thấy rõ hơn vấn đề không đơn giản như bao nhiêu người khác nghĩ. Không ai có đủ kiên nhẫn để nghe giảng cả tiếng đồng hồ và khi đã không muốn nghe, tai họ đóng lại, mi mắt khép vô và ngủ gật, hoặc người khác thì ngáp... Đang giảng mà nhìn thấy người ngáp, hứng khởi tiêu tan. Hơn nữa, ai có thể nhớ được những lời mình nói cả tiếng đồng hồ vì có ai là máy thâu băng đâu. Giảng 15 phút đã là dài và đã là nói nhiều rồi. Cha Lành cố gắng soạn giảng tối đa 10 phút nhưng thường thì ráng sao cho từ 7 tới 8 phút và phải công nhận rằng, soạn giảng ngắn mới khó. Chỉ trong vài phút mà nói lên được điều mình muốn nói sao cho phù hợp với Kinh Thánh, với giáo dân để khuyến khích, cỗ võ họ sống đạo không dễ chi.

Nhớ lại thời gian chuẩn bị lãnh chức linh mục, cha Lành đã suy nghĩ suốt hai tháng cho bài giảng lễ tạ ơn của mình. Một linh mục mới chịu chức thường hay nhờ cha linh hướng hoặc cha khác giảng dùm. Cha Lành không có cha bố lại cũng không muốn nhờ bởi lẽ không muốn nói về hoặc được ca tụng những cố gắng theo đuổi ơn gọi của mình. Cha Lành nhận thấy. Chức linh mục không phải cứ học giỏi mà được hoặc đạo đức nên Chúa chọn; chức linh mục là một hồng ân của Thiên Chúa. Học hành giỏi dang... bao nhiêu người có bằng tiến sĩ, bằng nọ tước kia ngoài đời... Bạn bè đi tu, bao nhiêu người tốt lành, thánh thiện, cầu nguyện đọc kinh liên miên, đã ra đi không bao giờ trở lại... và nay đã con đàn con đống... Các cha giảng lễ tạ ơn lại cứ coi như vì vị tân linh mục cố gắng nên đã được chọn để được truyền chức rồi buông lời ca tụng... Có lẽ Chúa không chấp nhịn được vì Ngài chọn chứ không phải do cố gắng thế nọ thế kia của con người... Ông bà ta có câu, "Hòn đất cất nên ông bụt;" chứ không phải hòn ngọc cất nên ông bụt...

Suốt hai tháng nghiền ngẫm, bài giảng vẫn cứ như đâu đâu; sao cho nói lên được hồng ân của Chúa trong cuộc đời; nói sao chứng tỏ lòng biết ơn của mình đối với những người chung quanh đã khuyến khích, giúp mình rằng cách này hay bằng cách khác; nói sao để khuyến khích người khác thêm ý nghĩ muốn đi tu; rồi điểm nào đưa lên tính chất dân tộc... Thế rồi ngày chịu chức ập đến, nào là bà con khách khứa, nào là sửa soạn nhà cửa cho khách về ở... và bài giảng vẫn chưa được viết. Mãi tới 1 giờ đêm trước ngày lễ tạ ơn sáng hôm sau, cha Lành mới cầm bút viết trong khi mọi người đã đi nghỉ...


Quí cha, quí tu sĩ, quí vị chức sắc tân, cựu, quí vị trong các ban, ngành, đoàn thể, quí ông bà anh chị em trong Đức Kitô.

Tục ngữ Việt Nam có câu: "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây" hoặc "Uống nước nhớ nguồn." Hai câu này vừa nhắc nhở, vừa nói lên ý nghĩa tấm lòng biết ơn của chúng ta đối với tổ tiên, ông bà cha mẹ đã gầy dựng cho mình và đối với những người đã làm ơn cho chúng ta. Để nói rõ hơn tâm tình này, chúng ta còn có câu: "Ơn ai một chút khó quên, phiền ai một chút để bên dạ này." Trong cuộc sống thường ngày, mỗi người chúng ta thường canh cánh bên lòng và hay nhắc nhở đến những công lao hoặc sự giúp đỡ của những người đã làm ơn cho chúng ta bằng cách này hay bằng cách khác.

Tâm tình biết ơn này phù hợp với Lời Chúa hôm nay vì chúng ta tin như trong thơ gửi giáo dân Côrintô: "Tất cả mọi người chúng ta đều phải phơi bày trước tòa án của Đức Kitô để mỗi người lãnh lấy thành quả đời sống mình."

Nhìn vào sự việc mà biết được tâm tình, tôi muốn dùng đôi phút để nói lên tấm lòng biết ơn của tôi nói chung đối với dân tộc Việt Nam và nói riêng với quí ông bà, anh chị em. Tôi cũng muốn xin thêm nơi quí vị một yêu cầu; đó là sự tiếp tục cổ võ ơn gọi dâng mình cho Chúa.

Trước hết tôi xin cảm tạ Chúa đã cho tôi là người Việt Nam; tôi đã được sống trong truyền thống dân Việt với tâm tình con người Việt Nam. Năng lui tới, và bây giờ, tôi là một phần tử trong cộng đồng này, tôi mang ơn cộng đồng bao gồm quí ông bà anh chị em.

Trải qua những năm sống chung với người Mỹ, tôi đã có cơ hội nhận thức được giá trị của hệ thống gia đình dân Việt mà tôi có thể nhìn thấy và chứng minh được trong cuộc sống gia đình; đó là: quí vị, những người sống trong bậc đôi bạn, quí vị được ban cho những đặc tính thánh thiện. Không những sống trong ơn thánh của Chúa, quí vị là thánh mà sự chịu đựng, chấp nhận, hy sinh trong những phong ba cuộc đời để giữ vững, sống đúng với ơn gọi trong bậc gia đình, chỉ những vị thánh mới có thể sống được như thế. Tôi ghi ơn những lời khuyến khích hoặc khuyên giải quí vị đã dành cho tôi. Tôi ghi ơn những nụ cười, những cử chỉ thân ái, những lời cầu nguyện, và ngay cả những sửa sai mà quí vị đã đặc biệt nói với tôi. Không có những sự đặc biệt ưu ái này của quí vị, có thể tôi không có cơ hội nói với quí vị ngày hôm nay.

Điều làm tôi cảm phục nhất là đức tin đơn thuần và lòng mộ mến của quí vị đối với Chúa. Kết quả của đức tin và lòng mộ mến này là sự đoàn kết, mến yêu hàng giáo sĩ, tu sĩ. Nhìn vào hiện tại, một ngôi thánh đường này, một trường học giáo lý bên kia, đã và đang chứng minh quí vị thế nào.

Qua những nhận thức và sự kiện tôi vừa nói, tôi dám bạo dạn xin với quí vị một yêu cầu; tôi muốn xin quí vị cổ võ, thúc đẩy, khuyến khích mạnh mẽ hơn về ơn gọi dâng mình cho Chúa. Là con dân nước trời, sống đẹp lòng Chúa, được lòng người chưa đủ. Chúng ta còn mang thêm bổn phận rao giảng nước trời. Ai cũng biết, không có người đi tu, lấy ai rao giảng, lấy ai ban phép bí tích. Quí vị là bậc cha mẹ, ông bà, có con cháu dâng mình cho Chúa, quí vị được lãnh nhận ân huệ không những đời này mà lại còn cả đời sau.

Riêng các bạn trẻ thanh thiếu niên, tôi muốn gửi đến các bạn chỉ một câu. Đó là: nếu ông thày cao bồi mà có thể đi tu được, các bạn cũng có thể đi tu được. Vấn đề là các bạn có dám hay không. Làm việc, quen biết với các bạn, tôi hiểu các bạn dám thực hiện bất cứ chuyện gì, và các bạn có thừa khả năng, thừa sinh lực hoàn thành những gì các bạn thích hoặc muốn làm. Các bạn chỉ còn chưa dám đặt vấn đề đi tu. Chúa mời gọi mọi người, nên những ai dám chịu chơi chấp nhận, "này tôi đây, tôi dám dùng cả cuộc đời để trả lời sự kêu gọi của Chúa;" thế là chuyện coi như xong. Tôi tin các bạn dám trả lời kiểu này và tôi thách đố các bạn dám dùng cả cuộc đời mình để trả lời ơn gọi đi tu.

Trong tâm tình biết ơn đối với Chúa và với mọi người, chúng ta dùng đôi phút thinh lặng để nhớ lại những ơn lành Chúa đã ban cho mỗi người chúng ta, và dùng tâm tình này như của lễ đặc biệt dâng tiến Chúa hôm nay để cầu nguyện cho giáo xứ chúng ta và cho ơn gọi dâng mình cho Chúa. Nguyện xin Chúa chúc lành cho mọi người chúng ta.

Dùng văn hóa dân tộc để khuyến khích đời sống luân lý và sống đạo có sức mạnh ảnh hưởng khá quan trọng nơi tâm hồn giáo dân Việt Nam. Hơn nữa, nếu nhận xét thêm theo lối nhìn thần học, Chúa dùng văn hóa dân tộc để giúp dân Ngài sống tốt lành hơn. Luân lý bổ túc cho đạo đức và là khuôn mẫu cho con người sống đạo đức trong cách đối xử hằng ngày. Trong những bài giảng hôn nhân, sự nhấn mạnh đến cá tính và luân lý dân tộc, những khuôn mẫu, nề nếp gia đình hầu giúp người ta ý thức sự quan trọng của mối liên hệ gia tộc trong cuộc sống hôn nhân là điều nên để ý tới. Cha Lành nghĩ, những sự liên hệ gia đình trợ giúp cho hôn nhân vì trong mối giây ràng buộc này, văn hóa và nề nếp gia đình đóng một vai trò bảo trợ cho hôn nhân. Thực ra, dầu hôn nhân là chuyện của hai người nhưng nếu thiếu sự liên hệ, chia xẻ kinh nghiệm sống trong liên hệ gia tộc, đôi hôn nhân khi đương đầu với những khó khăn, khó có thể kiếm được đường lối giải quyết để tránh phần nào nguy hại có thể đưa đến đổ vỡ. Nhờ mối liên hệ thân thiết với anh em họ hàng, bà con, nhờ sự chia xẻ kinh nghiệm và những lời khuyên bảo hoặc giúp đỡ đồng thời do sự liên hệ thân thiết ảnh hưởng đến danh dự liên đới gia tộc, tất cả trở thành những yếu tố đóng góp vào sự bền vững của hôn nhân.
Đặc tính sống cộng đồng của dân Việt nảy sinh ý thức bảo vệ danh dự gia đình và đồng thời cá nhân không những lo sống bảo vệ danh dự chính mình mà còn có bổn phận gìn giữ danh dự cho họ hàng. Những yếu tố này đã trở thành động lực giúp con người nhẫn nại, chấp nhận và chịu đựng hơn. Đây là đặc tính thiết yếu của những người sống trong bậc đôi bạn. Vì thế dùng đặc tính dân tộc nhắc nhở trong bài giảng một phần nào giúp dân Việt ý thức được điều hay lẽ phải của văn hóa Việt, ý thức được sự hợp nhất trong cách sống liên hệ dân Chúa và cũng giúp họ nhận ra vai trò của mỗi người trong nhiệm vụ mục vụ của giáo dân bằng cách này hay cách khác đóng góp vào việc xây dựng gia đình không những của mình mà còn giúp người khác. Dĩ nhiên, đôi hôn nhân trong lễ cưới chắc chắn chẳng nghe được gì nơi bài giảng; họ còn muôn thứ chuyện nào về nghi thức, nào nỗi e ngại muôn người nhìn vào, nào tiệc tùng sắp tới, rồi sự ảnh hưởng của những việc sửa soạn cho ngày cưới khiến cơ thể mệt mỏi khó có thể cầm trí lắng nghe. Hơn nữa, đối với hôn nhân, lễ cưới là biến cố trọng đại chưa quen kinh nghiệm của đôi trẻ; tâm tư họ bị căng thẳng; rồi tâm tình đôi hôn nhân bị giao động khi được chính thức chấp nhận sự liên hệ ràng buộc vợ chồng gây cho họ cảm xúc bất thường... Tất cả những yếu tố này gom lại đè nặng tâm trí thì sao họ còn có thể nghe. Thế nên, giảng đám cưới là giảng cho người dự lễ, không phải giảng cho đôi hôn nhân. Do đó nhắc nhở người ta ý thức vai trò của một người trong sự liên hệ với gia đình và cộng đồng cũng phần nào khuyến khích họ góp tay xây dựng cộng đồng dân Chúa. Nhấn mạnh vai trò cha mẹ, anh em cha bác, bạn bè trong mối tương quan khuyến khích và bảo vệ hôn nhân, cha Lành cảm thấy mình cũng một phần nào tích cực chia sẻ sự cố gắng vun trồng cộng đoàn dân Chúa…
 17

- Bình an của Chúa ở cùng anh chị em.

- Và ở cùng cha.

- Xin Thiên Chúa toàn năng là Cha và Con và Thánh Thần ban phước lành cho anh chị em.

- Amen.

- Lễ xong, chúc anh chị em về bình an.

- Tạ ơn Chúa.

- Xin cảm ơn quí ông bà anh chị em đã tham dự thánh lễ sáng nay. Chúc quí ông bà anh chị em một ngày vui tươi...

- Xin cảm ơn cha...

- Tôi không hiểu sao sáng nay chúng ta tham dự thánh lễ đông hơn mọi ngày. Hình như cứ mỗi lần tôi bị trễ, quí vị dự lễ đông hơn; thế nên, sáng mai chắc chắn tôi cũng sẽ bị trễ...

Mọi người cười nhẹ trong khi cha Lành hôn bàn thờ đoạn quay ngang hướng về nhà tạm bái gối rồi đi vào phòng mặc áo. Sáng nay, còn đang ngon giấc, điện thoại reo một tràng dài làm ngài choàng tỉnh. Điện thoại reo lâu hơn bình thường vì được gọi "intercome" từ nhà thờ. Đưa tay chụp điện thoại trong lúc mắt nhắm mắt mở liếc vô chiếc đồng hồ dạ quang. 6 giờ 39 phút; chiếc đồng hồ được chỉnh chạy nhanh hơn 9 phút nghĩa là bây giờ đúng giờ lễ... Tiếng ông câu giúp việc dọn lễ và lần hạt vang lên trong điện thoại:

-Cha dâng lễ sáng nay?

-Chúa ơi, tôi bị trễ rồi!

-Con nói với mọi người cha trễ ít phút...

-Ông làm ơn.



Nghĩ mà xấu hổ, ngủ quên cả giờ dâng lễ. Tối qua đi ăn về muộn lại còn những việc lỉnh kỉnh phải làm cho xong; đọc kinh tối mà mắt cứ gà ra, nhắm tít lại để rồi vừa xong kinh tối cha Lành lăn quay ra ngủ quên cả bật nút hai chiếc đồng hồ báo thức. Đã mấy lần dặn ông câu lúc tới mở cửa nhà thờ nếu không thấy điện nhà bếp sáng thì gọi ngài trước nửa tiếng thế mà mãi tới giờ lễ mới gọi. Biết sao hơn, ai là người không bao giờ quên; hơn nữa, dâng lễ là nhiệm vụ của linh mục, và có trả tiền cho ông ta báo thức mình đâu! Dù ông có gọi hay không thì cũng không phải là bổn phận của ông mà là bổn phận của mình. Buông điện thoại, cha Lành vội vàng vô phòng tắm rửa mặt, đánh răng, vuốt nước chải tóc, xịt keo; rồi nào hối hả mặc quần áo bước vội ra nhà thờ trong khi cặp mắt cứ nhíu lại. Đã bao nhiêu lần ngài tự nhủ phải đi ngủ sớm, muộn nhất là 10 giờ tối; thế rồi nào những nốt ghi treo nơi cửa phòng làm việc nhắc nhở, những quyết định, lý luận thúc đẩy đi ngủ trước 10 giờ nhưng rồi có cũng như không. Có tối nào lên giường trước 11 giờ đâu mà thường thì sớm cũng phải xuýt soát 12 giờ khuya. Nhất là những tối đi nhậu; gỏi cá, tái vịt, tiết canh dê... chẳng lẽ người ta mời mình, đến ăn xong rồi xăm xăm vội về như nhà có con dại. Hơn nữa, bản tính cha Lành lè phè, thích diễu nhất là khi đàn đúm với nhóm thanh niên hồn hồn hoặc những ông già chịu chơi, thích nói chuyện tầm phào với cha. Thôi thì khen cha dễ tính, chịu chơi, bình dân... làm cha ưng ý và rồi ông một ly, cha một ly thi nhau uống trong khi vui câu chuyện trời mưa trời nắng. Cứ thế, người mời càng đông, cha quen thói ngủ trễ càng nhiều để rồi sáng nào mắt cũng cay xè, đồng hồ báo thức kêu gào mà chủ nhân cứ ậm ừ ngủ nướng...



Nhìn hình mình trong gương nơi phòng áo, ngài không thể chấp nhận được! Giáo dân sẽ nghĩ gì khi thấy cặp mắt cha còn lờ đờ vì chưa tỉnh hẳn? Rồi nữa, bài Phúc Âm số bao nhiêu; sách lễ trang nào; có kính thánh gì ngày hôm nay không; áo lễ mầu gì? Vội kéo ngăn khăn che bàn thờ, 3 cặp đỏ, trắng, tím... "màu xanh," ngài thầm nghĩ trong khi đưa tay dịch cánh cửa tủ lấy áo lễ. Thường ngày mặc dầu lễ 6g30 sáng, cha Lành đã phải dậy lúc 5g00. Như một cái máy, đưa tay ấn nắp chiếc đồng hồ điện đang oang oác phát ra những tiếng kêu chói tai. Đã bao nhiêu lần tự hứa với mình nhổm dậy ngay khi đồng hồ reo nhưng hình như những gì cố gắng hứa lại càng khó thực hiện. Bởi thế, thay vì tuân theo một cách khổ não ý định, ngài đã để đồng hồ reo chạy nhanh 9 phút và đồng thời cho báo thức một giờ rưỡi trước giờ lễ.



Chiếc đồng hồ điện nhiều khi cũng đã làm ngài cuống lên bởi dòng điện bị trắc trở ban đêm làm sai lệch bộ phận điện tử, ngài đành mua thêm thứ lên dây thiều. Được chừng hơn năm, an tâm với thứ đồng hồ xinh xắn du lịch này, mỗi khi báo thức kêu ầm lên một tràng dài như chuông báo động khiến muốn ngủ nướng cũng khó. Nó lại sinh tật; có lẽ hơn một năm làm việc quá đủ công sức cho số tiền mua nên muốn về hưu; để đứng không thèm làm việc mà đặt nằm mới chịu. Có còn hơn không, nằm mà chạy, cha Lành nghĩ, hãy còn tốt chán. Hơn tháng sau, phải đặt nghiêng nó mới tiếp tục phát ra những tiếng tích tắc đều đều ru ngài vào giấc ngủ. Thế rồi nghiêng một bên suốt hai tháng có lẽ cũng bị mỏi, nó lại ngưng để được nghiêng qua bên kia. Vừa chẵn hai năm, dù cho đứng, nằm, nghiêng ngửa gì chăng nữa nó vẫn cứ chình ình bất động khiến ngài đành lùng cho được chiếc đồng hồ báo thức chạy pin. Những 3 chiếc đồng hồ báo thức ngự trên bàn ngủ choán chật một góc. Chiếc về hưu chính ra phải được vất đi, nhưng mà ai chả thế, những đồ vật mình đã xài dẫu cho không dùng được nữa nếu đem vất đi cũng tiếc; giống như mớ quần áo cũ, không muốn mặc, vất đi chẳng đang tâm; cho không ai lấy và cứ chất đầy tủ. Riêng chiếc đồng hồ điện khi báo thức, cứ ấn chiếc nắp phía trên là ngưng để rồi 9 phút sau lại chịu khó nhắc nhở cha Lành lần nữa. Cũng chính vì đặc tính chịu khó của nó như thế nên ngài có thêm tật ngủ nướng. Mà ngủ nướng tuyệt thật, căn báo thức trước một tiếng rưỡi để có thời giờ ngủ nướng vì sau một hoặc hai, có khi ba lần ngủ nướng, lúc dậy hình như con người cảm thấy tỉnh táo hơn; tỉnh táo hơn bởi ngủ nướng ngon hơn, quí báu hơn...



Từ ngày tậu chiếc đồng hồ chạy pin, không sáng nào cha Lành không giật mình. Nó không to chi, nhỏ xí à, chỉ to bằng 3 ngón tay và dầy gấp đôi; thế mà tiếng kêu của nó tàn bạo không thể tưởng; âm thanh gì lạ kỳ, cứ xuyên qua màng nhĩ xoáy vào óc. Không cho nó báo thức e chiếc đồng hồ điện gặp trục trặc; cho nó báo thức, mỗi lần nó kêu là cứ như muốn văng ra khỏi giường. Tuy nhiên, lâu dần riết rồi cũng quen. Những ngày nào đồng hồ điện không gặp trục trặc, cha Lành dậy trước khi đồng hồ pin báo thức, thuận tay đập một cái cho thằng điện ngưng, và một cái cho thằng pin mất cơ hội làm phiền để rồi an tâm ngủ nướng.



Có lẽ không có gì thú vị hơn ngủ nướng mặc dầu đã ngủ thì đâu biết gì; mà ai chả thế, sáng nào hưởng đủ ba lần ngủ nướng thì cha Lành cũng phải hối hả suốt diễn trình sinh hoạt buổi sớm: uống cà phê, đánh răng, rửa mặt, tắm, mặc quần áo, đọc trước bài Phúc Âm một lần cho trôi chảy và lật tự điển nếu gặp chữ nào khó đọc. 6g15 có mặt tại nhà thờ đọc kinh nguyện trong khi giáo dân lần hạt để rồi đến ngắm thứ năm ngài vô phòng bận áo cho kịp dâng Thánh Lễ ngay khi xong lần hạt. Lễ 6g30 phải chấm dứt 10 hay 7 phút trước 7 giờ.



Kỳ mới chịu chức, thường ngài chỉ uống cà phê sau khi đánh răng rửa mặt. Uống cà phê là một nghệ thuật cần thời giờ thưởng thức. Luật Giáo Hội giữ chay 1 giờ trước khi rước lễ; do đó thi hành xong những chuyện cần buổi sáng đâu còn giờ uống cà phê cho đủ 1 giờ giữ chay. Thế nên nhân một lần nào đó không hiểu nói chuyện với ai hoặc đọc từ bài viết nào, cha Lành nghe người Pháp ăn sáng trước khi làm những chuyện vệ sinh căn bản; ngài hoan hỉ áp dụng uống cà phê ngay sau khi dậy. Hơn nữa, ngài cũng nghe đâu đó rằng khi vừa thức dậy buổi sáng, miệng con người độc vô cùng nếu ngay lúc đó cắn vào cây nào thì cây đó cũng sẽ bị chết. Hơn nữa, chính chất độc nơi miệng con người lại trị những bệnh thông thường. Buổi sáng chưa đánh răng súc miệng mà uống nước thì những chất độc này làm người ta khỏe hơn, ít bệnh hơn. Và thế là từ dạo đó, vừa mắt nhắm mắt mở bước xuống khỏi giường, cha Lành đã vội khoác chiếc áo tắm, vừa đi vừa thắt dây lưng vô nhà bếp pha cà phê.



Cà phê không những giúp ngài tỉnh buổi sáng mà còn là nước uống cả ngày. Nước ngọt uống không vô bởi chất đường hóa học, lại nữa, không muốn bị thói quen tiêu tiền vì nước ngọt khi khát, thật là vô cùng hoang phí! Nước lạnh thì có mùi thuốc lọc làm khó chịu cả ngày. Khi nào uống quá nhiều cà phê, ngài muốn uống nước lạnh, phải lọc cọc đun sôi hoặc may mắn có nước đã đun sôi còn thừa lại do cha xứ pha trà thì cả là điều hạnh phúc vì đã hết mùi clor. Hơn nữa nhà xứ không có bình nước lọc thế là cha Lành cứ cà phê tì tì uống. Trên bàn nơi phòng làm việc, có khi 7, 8 chiếc ly uống cà phê ngổn ngang chiếm hết một góc; nhưng không uống cà phê, uống chi bây giờ? Trà thì nóng và nhiều chất cafein gấp đôi cà phê, ai dại bỏ cái hại ít đế chuốc lấy thói quen hại nhiều! chẳng lẽ bỏ cà phê để uống bia. Uống bia lại càng không nên vì sẽ bị nghiện. Ngài sợ bị nghiện những thứ không nên nghiện. Mới có cà phê và thuốc lá mà đôi khi đã phiền hà; nghiện rượu bia mới nguy hiểm, không những tự làm hại chính mình mà còn ảnh hưởng đến giáo dân. Đã lỡ không nghiện rượu, chẳng nên tập cho quen dầu ngài có thể uống được rượu bia. Đôi khi nghĩ về mình xem có những tật không nên không phải nào, ngài cảm thấy tự mang mặc cảm với chính mình vì không chịu bỏ hút thuốc. Dùng lý luận, đủ kiểu, đủ cách để minh chứng hút thuốc là không nên nhưng hút vẫn hút. Lắm lúc nói chuyện với người khác về tội tổ tông, ngài đem thói quen hút thuốc ra minh chứng rằng tội tổ tông không phải chỉ là tội của ông Ađam và bà Evà theo nghĩa đen nơi Kinh Thánh mà là tội mình không biết hoặc không cho là tội và đang sống trong nó, với nó, không nghĩ đến sự ảnh hưởng của nó. Một gói thuốc hơn một đồng Mỹ kim trong khi số tiền tương đương với gói thuốc có thể nuôi được một gia đình 5 người tại Việt Nam một ngày vương giả. Nghĩ như thế, mặt trái của những thói quen nói lên lầm lỗi mà mình không để ý. Dĩ nhiên, mình hút thuốc tiền mình nhưng nếu không hút thuốc, lấy số tiền đó giúp những người khốn khổ hơn thì lại là điều tốt lành. Hút thuốc, mình bỏ cơ hội làm điều thiện giúp người nghèo đói. Hơn nữa, hút thuốc thật ra không cần thiết! Dẫu rằng thuốc lào được người xưa quan niệm là thứ Thảo Lam Sơn có tính chất trị sơn lam chướng khí nơi miền rừng núi (không biết có đúng không). Người ở miền núi hút thuốc lào để chống lại chất độc tự nhiên quanh vùng mình ở. Tuy nhiên, xét về mặt tu đức học, những gì mình không cần thiết thuộc về người nghèo. Hút thuốc không cần thiết cho cuộc sống do đó số tiền hút thuốc nên được dùng để cho người nghèo...



Nghĩ như thế, lý luận là thế mà hút thuốc ngài vẫn cứ hút, chỉ được cái không đam mê hút nhiều, ngày không đến một gói. Có vài người đề nghị ngài chừa hút thuốc viện cớ hại cho sức khỏe...

-Ông bà không hút thuốc phỏng có thể sống mãi được không?

-Thưa cha ai mà không chết.

-Hút cũng chết mà không hút cũng chết, đàng nào cũng không tránh thoát, thế thì hút có khác chi đâu!

-Nhưng thưa cha hút thuốc chết sớm hơn.

-Nói lạ kỳ, cứ cầu nguyện mong sao cho chóng được hưởng mặt Chúa mà lại muốn sống lâu; vậy sợ chết có phải là kiểu nói dóc không? Như vậy người hút thuốc sẽ được hưởng mặt Chúa sớm hơn kẻ không hút.



Lý luận diễu chơi để bảo vệ lý do hút thuốc của mình chỉ cho qua; thực ra, cà phê và thuốc lá ảnh hưởng cha Lành khá nhiều. Muốn viết lách gì, tay cầm bút, tay kia điếu thuốc, rồi cà phê hết ly này đến ly kia. Không có cà phê thì bia nhưng không có thuốc lá lại không được. Khói thuốc bay lên dường như có mãnh lực kéo tư tưởng ra khỏi bộ óc. Lý do chính ngài không muốn bỏ hút thuốc có lẽ cũng vì một phần nào chất nicôtin giúp ngài hứng khởi hơn khi viết. Tuy thế, đã nhiều khi ngài định bỏ thuốc. Dĩ nhiên, định bỏ tức là vẫn còn hút và lý do ngài muốn chừa vì khói thuốc làm phiền; thật lạ kỳ, hút thuốc nhưng không chịu được mùi khói thuốs. Những ngày còn học thần học, thày Lành đã phải mua chiếc quạt bàn nhỏ xíu ráp vô trần phòng mình để thổi khói thuốc ra ngoài. Chính vì không chịu được khói thuốc nên phải ráp quạt, đôi khi lại là cớ cho các anh em khác sang ăn mì ké bởi hơi mì không đọng lại nơi phòng ngài như các phòng khác không có quạt hút hơi. Lắm lúc thày Lành nghĩ, vừa tốn mì vừa mất thời giờ tiếp khách cũng chỉ vì tật hút thuốc.



Đàng khác, ngài cũng muốn có chút giọng hát nên muốn chừa hút thuốc, viện cớ hút thuốc làm đứt quãng dây "thiều" rung không đều do chất nicôtin bám vào. Lý do muốn cho giọng hát hay hơn có thể là động lực thúc đẩy ngài tới quyết định chừa hút thuốc. Khi tham gia với bạn bè trong những ngày cuối tuần, sau khi ăn uống, với tình quen biết thân thiện không ngại bị phê bình, ngài chung vui hát với họ. Hết nhạc tiền chiến rồi nhạc thời trang, chia phe hát đối hoặc đơn ca trình diễn. Gọi là trình diễn cho oai chứ thực ra chia phiên mỗi người hát một bài vì đa số ai cũng ngại hát. Hơn nữa, biết nhạc và có thể nói là mê nhạc nên ngài thích hát. Bạn bè cho ngài biết ngài có một cá tính tự nhiên thật hấp dẫn và thu hút khán giả. Mới đầu ngài không để ý bởi nghĩ rằng người ta nói cho qua hoặc đôi khi phỉnh phờ diễu chơi. Nhưng sau nghe riết đến độ nghi ngờ, ngài hỏi một vài người mới biết họ nói thật... Tuy nhiên, lý luận, ý thích, ý kiến... có đến đâu thì ngài vẫn chưa và có thể không bao giờ bỏ hút thuốc bởi quan niệm ai cũng có một tật xấu nào đó, có bỏ được cái này thì vương thêm cái khác; đàng nào cũng là tật. Nếu hút thuốc là một tật xấu, bỏ nó, coi chừng vương tật khác xấu hơn. Lắm lúc trong những khi lý luận diễu chơi ngài mượn quan niệm của Lâm Ngữ Đường trong cuốn Một Quan Niệm Sống Đẹp (Nguyễn Hiến Lê dịch): - Người nào không biết thưởng thức cuộc đời, có được lên thiên đàng cũng sẽ chán - để bào chữa cho tật hút thuốc của mình.



Nhớ lại thời kỳ ông chẳng ra ông, thằng chẳng ra thằng, thày mà. Sau năm 1975, sáng hôm ấy sau khi thày Lành giúp cho rước lễ ghé vô nói chuyện với cha Đông Anh tại nhà xứ. Nhân ngài pha cà phê uống nước sáng, ngài hỏi thày Lành có muốn uống cà phê với ngài không. Đang cơn túng quẩn nên cà phê trở thành thứ xa xỉ dầu thèm muốn chết, thày Lành vui mừng trả lời có! Đứng tựa nơi cửa nhìn chiếc lọc cà phê bằng điện kiểu Ý đang chảy cà phê ra ly qua chiếc vòi cong vòng từ trên nắp lọc, thày Lành buông lời ngộ nghĩnh:

-Kể ra thày Lành cũng may mắn gớm chứ!

-Có chuyện gì mà may mắn?

-Thì được cha xứ pha cà phê cho uống.

-Thật đấy, tôi chỉ pha cà phê cho mình thày uống thôi, chứ dù cho đức giám mục có đến tôi cũng không pha.

Khi hai ly cà phê được bưng tới bàn ăn, biết cha xứ không hút thuốc, thày Lành tiếp:

-Nếu cha không đồng ý con hút thuốc thì con bưng cà phê về nhà uống.

-Tôi biết rồi, mỗi người một kiểu thưởng thức "sự vật". Thày uống cà phê mà không hút thuốc thì thà đừng uống; cứ tự nhiên!



Còn gì sảng khoái hơn khi mới thức dậy, đang ngái ngủ có được một ly cà phê nóng và một hai điếu thuốc nhâm nhi trước khi đánh răng rửa mặt. Hôm nào lỡ quên để đồng hồ báo thức, chất đắng cà phê chưa có cơ hội du lịch thấm nhập qua các mạch máu, ngài phải cố gắng hết sức; không cố gắng, nhìn chữ nọ nhảy qua chữ kia. Thế nên, ngài đôi khi tự diễu: có những số tật không nên sửa vì nếu sửa nó sẽ rơi vào những cố tật tai hại hơn. Dâng lễ trong lúc ngái ngủ không gì tệ hại bằng vì dâng lễ là dâng với tất cả tâm hồn của mình. Lúc còn ngái ngủ thì dù cố gắng cách mấy ngài vẫn cảm thấy như còn thiếu sót điều gì... Làm sao người ngái ngủ có thể dâng lễ với tất cả tâm tình như người tỉnh.



Nghĩ lại những lúc ngái ngủ ngài nhớ câu chuyện cô em gái đã kể sau khi mới chịu chức được mấy hôm:

-Mẹ bảo Chúa chọn thày lười...

Nào có gì đâu, kỳ còn nhỏ cần ngủ nhiều lại ham chơi vào buổi tối, sáng ra khó dậy nhưng vì nhà gần thánh đường, ngài bị đánh thức dậy đi lễ hằng ngày như cái máy. Lớn lên, khi còn đang ở chủng viện, ngài mới biết lễ ngày thường không phải lễ buộc nên khi nghỉ hè, ưng thì đi, không ưng ngài tiếp tục ngủ nên bị gọi thày lười. Thế mà bây giờ, dù lười cũng phải dậy lúc 5 giờ sáng. Ngày nào dâng lễ sớm cũng phải thức giấc lúc 5 giờ trong khi lên giường ngủ vào 12 hoặc 1 giờ đêm; thật đáng đời. Ghét của nào trời trao của đó.



Đã thế mà cha Lành lại thích dâng lễ sớm vì có nhiều giờ làm việc hơn. Hơn nữa, đến giờ lễ buộc lòng phải dậy nên ngày dài hơn. Cũng đã nhiều lần mặc dầu dâng lễ 8g15 ngài để đồng hồ báo thức lúc 5g sáng tự bảo mình dậy sớm làm thêm ít chuyện cần phải làm cho xong. Thế nhưng, lúc vặn đồng hồ thì tốt lành, hăng say lắm mà khi đồng hồ báo thức cả là một vấn đề. Giỏi lắm, chồm dậy vặn đồng hồ cho báo thức trễ lại một tiếng rưỡi hoặc hai; còn bình thường tắt luôn để rồi lại hối hả cho kịp giờ lễ... Và chưa bao giờ ngài thực hiện được ý muốn tốt lành này gần ba năm... Ôi! thần trí thì sáng suốt nhưng thân xác lại mê đắm... ngủ. Những ngày dâng lễ sớm, cha Lành cảm thấy niềm vui khó tả. Ngồi tại bàn viết được những hai tiếng từ 7g tới 9g sáng, không bị ai làm phiền, muốn làm gì thì làm, viết gì thì viết... Điều thú vị nhất, lúc đã tỉnh táo, ly cà phê và thuốc lá mới thực sự hấp dẫn cũng như có thể làm tròn nhiệm vụ đã được chế biến của chúng.



-Cha Lành, điện thoại đường dây số hai. - Bà thơ ký gọi cha từ phòng bên kia.

-Hello,

-Con muốn tới gặp cha bây giờ được không?

-Được, vậy lúc nào thì bà tới?

-Con có đánh thức giấc ngủ của cha không?

-Không đâu, bây giờ đã hơn 8g sáng; tôi dâng lễ 6g30 mà. Chừng nào bà tới?

-Cỡ 15 phút nữa được không cha?

-Từ từ lái xe, tôi chờ.

Dĩ nhiên, cuộc đời có người nọ người kia. Đa số giáo dân thật tốt lành ngoại trừ phần nhỏ đôi khi chỉ biết đến mình, không chịu hiểu biết hoặc thông cảm cho người khác, ngay cả đối với các cha. Người thì muốn cha lúc nào cũng phải ở nhà xứ để gọi là gặp ngay. Đồng thời lại cũng có những người muốn cha ghé thăm mà chẳng bao giờ nói để rồi than phiền nào là cha tới nhà người này, người kia mà không tới nhà mình. Có người còn bày ra những câu nặng hơn... Nào có thèm mời, có thèm nói đâu, làm sao cha biết... Ngay cả như vấn đề kiệu Mình Thánh cho người bịnh, chẳng biết bao nhiêu lần yêu cầu nếu nhà có người tật nguyền hay bệnh lâu năm không đi lễ được thì gọi điện thoại báo cho nhà xứ mà người ta có thèm gọi đâu; không gọi để kêu ca cho có vẻ quan trọng, cho oai thôi. Các bà các cô ngày xưa lập gia đình chỉ phải làm dâu một họ nhà chồng đã thấy lắm sự phiền hà, than như bọng. Nào mẹ chồng con dâu, nào chị dâu em chồng... thôi thì muôn thứ chuyện xảy ra. Đàng này, các cha làm dâu trăm họ, ngàn thứ người. Một mẹ chồng khó tính đã đủ chết; các cha có cả mớ mẹ chồng chứ không phải một mà mẹ chồng nào thì cũng hay, cũng đúng vì đâu ai chịu nhận phần không nên không phải về mình... Thế rồi cứ "Nếu tôi mà là cha... tôi thế nọ, tôi thế kia..." Thật ra, có thế nọ, thế kia được thì đã là cha cần gì phải nếu...



-Chào cha...

-Chào bà, mời bà ngồi. Bà có khỏe không?

-Thưa cha, con cũng thường. Con tới gặp có phiền cha không?

-Có chi mà phiền, đó là công việc của linh mục mà.

-Cha dậy sớm vậy dâng lễ có mệt không?

-Tối nào đi ngủ muộn thì sáng khó dậy, nhưng cũng quen đi.

-Vậy thứ bẩy, chủ nhật lắm công việc cha có mệt không?

-Có chi đâu! Chúa ban cho ai cũng có 24 giờ một ngày và mình có bao giờ làm việc 25 giờ đâu... Hơn nữa, người ta đi làm sò, làm tôm ngày 8 tiếng mà họ không kêu mệt thì mình sao mà mệt.

-Nhưng cha làm việc đầu óc...

-Thì việc nào chả là việc. Mỗi người Chúa ban cho các khả năng khác nhau nên công việc làm khác nhau. Thôi, vào thẳng vấn đề, bà đến gặp tôi có chuyện gì vậy?

-Con muốn xưng tội, nhưng trước khi xưng con có mấy việc thắc mắc.

-Chuyện gì vậy, khó hay dễ nói?

-Thưa cha, chẳng có gì khó nói cả, chỉ là những chuyện thường.

-Thế vấn đề gì...

-Thưa cha con hay nóng giận, chửi bới con cái và đôi khi bực mình với cả bố mẹ con. Con đã cố gắng chừa sửa nhưng chứng nào vẫn tật nấy làm con khổ quá...

-Bố mẹ bà hay bố mẹ chồng?

-Bố mẹ con ấy chứ. Bố mẹ chồng con đâu có đi được.

-Ông bà cụ năm nay Chúa ban cho thọ được bao nhiêu tuổi?

-Ông thì cỡ 80, má con chừng bẩy mấy.

-Ông bà cụ thọ đấy. Bao nhiêu người muốn sống tới tuổi ấy mà đâu có được!

-Bởi thế con mới cảm thấy phiền chứ. Lắm lúc con gắt um lên với bố mẹ con.

-Bà có biết lý do tại sao bà hay gắt gỏng với ông bà cụ không?

-Tại con nóng tính.

-Đâu phải cứ nóng tính mà hay gắt gỏng được. Nếu nói là tại nóng tính rồi cứ làm tưới đi thì sao bây giờ bà không gắt gỏng chút nào?

-Thì khi có chuyện gì xảy ra làm con bực mình con mới gắt chứ.

-Nghĩa là khi có chuyện gì xảy ra không hợp ý bà thì bà mới nổi nóng lên.

-Vâng, ai đời nào mà trời nắng chang chang, bố con cứ hì hục với mảnh vườn bằng bàn tay rồi mồ hôi cái mồ hôi con đổ ra đụng phải gió máy rồi lại ốm. Con nói mãi cũng không thèm nghe làm con cứ phát cáu lên thôi! Con cáu lên, bố mẹ con lại phiền lòng.

-Đâu phải ông cụ làm sai ý bà thì bà gắt đâu. Bà sợ ông cụ ốm đau đấy chứ.

-Ơ! Cha nói đúng.

-Chẳng phải mình bà đâu. Tôi cũng thế! Mấy cụ có tuổi rồi mà cứ làm như mình còn trẻ cỡ 30, 40. Thấy các cụ làm mà mình phát rét lên; mình lo các cụ lỡ ra thì sao; mà nói thế nào thì cũng "Tao còn đẻ ra mày."

-Con cứ tưởng con hỗn láo với bố mẹ con.

-Cái đó không phải là hỗn láo mà là quá lo cho bố mẹ. Đời nào bố tôi bẩy mươi mấy rồi, đi đứng làm sao mà vững như những người còn trẻ. Do đó tôi đã phải đổ lối xi măng xuôi từ phần đất cao xuống chỗ thấp hơn để khỏi phải bước bậc thang. Thế mà bố tôi đóng ngay mấy bậc bằng gỗ khấp khểnh đi lên đi xuống cho tiện nơi mấy chỗ khác. Đất thịt gặp trời mưa thì trơn té chết người! Mới chỉ trông thấy thôi đã muốn đứng tim mà nói thế nào cũng không chịu phá bỏ. Đến khi má tôi té trật giò mới sợ phá đi... Chỉ có Chúa mới hiểu được các cụ...

-Khổ quá cha ạ, con cáu lên thì bố mẹ con tủi thân mà con thì sợ lắm; lỡ ra có bề nào, con chẳng biết ăn nói sao!

-Biết sao hơn bây giờ! Thôi thì đành chấp nhận rồi phó thác thôi chứ. Nếu mình không thương bố mẹ mình thì đâu có chuyện cáu kỉnh xảy ra. Mình có bao giờ gắt gỏng với mấy người già hàng xóm đâu. Đành dâng các cụ trong tay Chúa, và những gì giúp được thì giúp; chẳng hạn nếu cụ ốm, ráng lo nấu cháo cho cụ ăn, mua thuốc cho cụ uống. Còn những chuyện vớ vẩn nguy hiểm khác không làm sao giúp được thì đành nhắm mắt để khỏi phải nhìn thấy... Ngăn cản thì quí cụ đau lòng... không thể hiểu được!

-Sao cha nói nghe dễ vậy mà lâu nay con cứ áy náy trong lòng...

-Còn vấn đề con cái, lúc nóng mà hò la chúng, chửi bới bậy bạ thì lại tập tành cho chúng ăn nói giống mình... có lẽ phải kiếm cách khác để dạy bảo chúng chứ la nhắng lên không được ơn ích gì mà cái nhà thì lại um lên...

-Con biết cách nào hơn đâu cha!

-Từ từ... đàng nào thì bà là mẹ, bà hiểu tính tình từng đứa một. Tùy theo cá tính mà chỉ bảo nó. Thế có bao giờ bà để ý đến cá tính từng đứa con của bà chưa?

-Có chứ, nhưng con chưa bao giờ nghĩ đến dạy bảo chúng tùy theo từng đứa, mà thường thì cứ nổi nóng là la toáng lên.

-Không có việc gì cao cả hơn là vấn đề dạy dỗ con cái đâu. Dạy cho chúng nó nên người là bổn phận và cũng là thiên chức Chúa ban cho các bậc cha mẹ. Mình thương con nên dạy con. Bà thấy không, bà đâu có bao giờ nổi nóng với con nhà hàng xóm vì bà đâu cần biết đến chúng nó. Tôi nghĩ, bà nên dành thời giờ suy nghĩ để kiếm cách dạy con cho hữu hiệu; việc đó mới khó! Thế bà còn chuyện gì muốn nói nữa không?

-Thưa cha không, chỉ có thế.

-Vậy bà đã dọn mình xưng tội chưa?

-Thì có bấy nhiêu con đã nói hết rồy.

-Tội lỗi chi ba cái chuyện vớ vẩn... có lẽ cái tội to nhất là tội mình không biết...



Dân Chúa đơn sơ và thật tốt lành; chỉ phiền một nỗi là những chuyện không ra gì đôi khi thiếu hiểu biết bị trở thành tội và có khi làm khổ một đời để rồi lại sinh ra muôn sự rắc rối khác. Điều đơn giản sinh ra rắc rối đầu tiên là cứ muốn người khác phải theo ý mình chẳng cần biết như thế là hay hoặc dở cho họ mà đâu thèm để ý đến trên đời này không ai thích giống ai, mỗi người lại có cái nhìn khác biệt. Đã thế thường thì không chịu nói ra, cứ ấm ức trong lòng ngày này qua ngày khác, tới khi gặp cơ hội là làm toáng lên, moi móc từ đời ông bành tổ trở xuống làm cho kẻ khác mang ấn tượng là mình xấu xa không có được gì tốt lành. Hơn nữa, dạy con thì cứ lôi những cái xấu của nó ra mà la mắng trong khi những điều tốt chẳng bao giờ khen thưởng chúng. Chẳng lẽ đứa bé 11, 12 tuổi chưa bao giờ làm được điều gì hay cho gia đình ư? Thế mà có nói được lời nào khen nó đâu... chỉ những bới tội! Còn nữa, còn muôn thứ chuyện lăng nhăng của người nào đó vắng mặt cũng moi ra cho đỡ "rỗi miệng" và rồi "đình đám người, mẹ con ta;" đôi khi người trong nhà giận nhau cũng chỉ vì chuyện của kẻ khác. Đúng là sinh tội.



-Mời cha ngồi lên đây.

-Được rồi, tôi thích ngồi đây. Ngồi chỗ này gắp được cả hai bên không sướng hơn ư!

-Nhưng cha phải ngồi lên đây, ngồi đấy ai coi cho được.

-Không cần biết, tôi thích ngồi đây, còn ai coi không được thì nhắm mắt lại, đâu có sao.

-Cha ngồi lên đây không người ta nói con không biết phép tắc...

-Ai cười thì bảo người ta rằng ghế tôi đang ngồi mới quan trọng. Thôi mà, hình thức làm chi... Nào chuẩn bị làm dấu...

-...

-Cha ăn món này trước... để con gắp cho cha...

-Không, đừng làm thế; ông để tôi ăn theo ý thích.

-Nhưng món này ngon hơn...

-Thôi đừng ép nữa để tôi kể một câu truyện... Truyện kể rằng có hai ông bà cụ người Mỹ cỡ bẩy mươi mấy tuổi. Ông thương bà lắm, ngày nào cũng chịu khó dậy sớm pha cà phê, chiên trứng, xúc xích rồi nướng bánh làm đồ ăn sáng cho cả hai người. Sáng hôm ấy, ông cụ cũng như thường lệ, làm hết mọi sự thì bà cụ cũng vừa ra tới bàn ăn. Ông cụ mới lấy hai miếng bánh mới nướng xong bỏ lên đĩa cho bà cụ. Bà cụ thoạt trông thấy hai miếng bánh cất tiếng: Ông xem, tôi lấy ông 50 năm trời, lần nào ông cũng bắt tôi ăn hai miếng bánh quỉ này. Ông cụ ngớ cả người, rưng rưng nước mắt đoạn nói: sao bà không nói cho tôi biết từ 50 năm về trước. Tôi thích ăn đầu miếng bánh nướng mà phải nhường cho bà...

-Cha kể chuyện gì chúng con đâu có hiểu.

-Thì món ngon đối với ông chưa chắc đã ngon đối với tôi chứ có chi đâu!

Chủ nhà cười ha hả ra chiều hiểu biết:

-Nào mời cha, cha con mình cụng ly...

-Cụng thì cụng nhưng ai muốn uống nhiều ít tùy ý.

Uống được vài hơi rượu, chủ nhà cảm thấy gần gũi với cha Lành hơn nên tỏ lời thân mật:

-Con thấy có nhiều cha khó quá... và làm những chuyện độc đoán... chẳng hạn cha Thuyết...

-Ông say chưa? Cha khó hay ông chẳng thèm mời rồi nói khó... Còn những chuyện về cha khác, các ngài không có mặt ở đây nên không có cái miệng để trả lời; tôi nghĩ mình không nên nói tới. Nếu muốn nói, muốn phê bình, nói ngay ông cha này. Ông ấy đang ngồi đây, có cái miệng trả lời xem thế nào. Dám không? Nói sao cũng được nhưng phải hợp tình hợp lý và dẫn chứng đàng hoàng, không được bày đặt hay phét lác...

-Đâu ai dám nói tới cha...

-Có phải vì cha đang ngồi đây không? Chốc nữa cha về thì ai mà chả dám. Kể cũng lạ, chính phủ đánh thuế hết mọi thứ mà không biết cách đánh thuế người nói khoác hay nói lung tung. Nếu bị đánh thuế, tôi nghĩ thiên hạ chừa hết...

-Thưa cha, con xin phép được nói, - Giọng một ông khác lè nhè, sứa rồi - Cha thì cũng nhiều cha, mà mỗi cha một lý đoán chứ đâu phải cha nào cũng giống cha nào... Con xin nói thật lòng... chỉ có sang đến bên này chúng con mới được ngồi ăn với cha chứ như ở Việt Nam, muôn đời chúng con cũng chẳng bao giờ được ngồi gần cha... Ở bên này các cha không được kính trọng, bị mất giá trị... Con thấy bên này người ta coi rẻ các cha quá.

-Ông nói hết chưa?

-Thưa hết rồi đó cha...

-Có gì đâu mà coi rẻ và mất giá trị. Có chăng thì đất lề quê thói thôi chứ đâu phải gặp cha cứ khúm núm mới là kính trọng hoặc là để ông cha ngồi một mình một mâm buồn thỉu buồn thiu nuốt không nổi là có giá trị. Thôi, chuyện mấy ông cha bỏ qua một bên, nào mình nâng ly...



Làm việc cho giáo xứ Mỹ nên thỉnh thoảng được người Việt mời đi ăn là cả một cảnh thiên đường hạ giới. Buổi sáng, cha Lành đã lười ăn; đến trưa, ăn đồ Mỹ cũng chỉ nuốt cho qua mặc dầu đã quen nhưng khẩu vị đâu không thấy. Thịt và thịt... giỏi lắm vài miếng rau xà lách trộn cà chua thái sống... khoai tây... cà rốt... thiếu hẳn mùi vị quê xương. Ăn thịt bò mà cứ nấu chín tơi ra với khoai hoặc steak; thịt heo chỉ tẩm bột chiên lên; còn gà thì mua chợ nấu sẵn đem về hấp lại với vài thứ đậu hộp... thì con tì con vị cũng chán ngán ngủ tuốt luốt. Cứ thử tưởng tượng; thịt bò xái tái chấm nước mắm gừng nổi mùi thơm phức pha lẫn mùi mè rang hay thính xay thì người có no cách mấy cũng đưa được vài lon bia. Tôm hay cá đem thái gỏi kèm theo lá mơ và ít lá thơm đủ thứ, mới ngửi thấy có phải đã tỉnh táo rồi không! Người Mỹ làm sao biết thưởng thức những món ăn đơn giản như dấm mẻ ăn gỏi, hoặc thịt bò xào rau muống đập vô củ tỏi làm kẻ đứng xa cả cây số cũng phải rệu nước miếng...



Bẩy ngày một tuần, bà bếp nấu năm bữa trưa... còn tối lục tủ lạnh hoặc chạy ra McDonald hay tiệm khác. Mà nào có rẻ gì, hèn cũng gần năm đồng. Thứ bảy và chủ nhật càng tệ; những món cũ còn lại trông phát ớn... Chẳng trách chi người Mỹ họ mập, mập vì đồ lạnh chứa mỡ khó tiêu... có lẽ vậy! Vấn đề ăn uống nơi nhà xứ Mỹ là thế nên thèm đi ăn rông muốn chết mà có biết nơi nào có thể tới đâu. Một năm 365 buổi tối, 104 ngày cuối tuần chứ đâu có ít gì! Thế mà không thiếu người nói cha khó mời! Có mời đâu mà chả khó! Nhưng không sao, cơm mời, có "ăn được bát cháo thì cũng đã phải chạy ba quãng đồng." Một lần đi ăn cơm mời thì ít nhất cũng tiêu mất hai tiếng đồng hồ. Đến muộn người ta chờ, đến đúng giờ mình chờ người ta; rồi chẳng lẽ tới nơi lo cắm cúi ăn và về? Nó kỳ làm sao ấy! Ngồi thêm chút nói dăm ba câu chuyện... và rồi cũng có kẻ nói hay đi ăn nhậu lang thang. Lắm lúc cha Lành nghĩ, thiên hạ cũng kỳ thật; người mời không nói; kẻ chẳng bao giờ cho ăn lại bày ra rậm lời. Ôi! Đâu phải muốn nói ngoa làm cha mà nói nhưng ngược lại, muốn nói ngoa làm con cha mà nói. Chẳng khác gì làm dâu muôn người; cuộc đời mình ai cũng có quyền xía vô!



Nào đã hết đâu, cái đầu mình từ ngày chui lọt lòng mẹ ra không được thẳng với cái thân người như cây tăm; người ta nói mình nghênh nghênh ngạo đời. Cặp mắt lỡ Chúa bắt tội nhìn không được ngay; họ nói nhìn đời rằng nửa con mắt! Nhìn cả còn chưa được phương chi nhìn nửa! Hai chân chẳng may không đều - mà nào có ai hai chân đúng thước tấc bằng nhau - họ nói dáng đi nghênh ngang, kênh kiệu... Làm dâu trăm họ thì chỉ có bới bèo ra bọ bởi đâu có ai là người hoàn toàn vừa lòng được hết mọi người. Được lòng kẻ nọ lại mất lòng người kia... Người thích cha mặc áo dài cho có vẻ thánh thiện; kẻ ưa cha bận áo cộc. Người quan niệm cha phải mặc áo đen; kẻ khác lại muốn nhìn màu trắng... Có lẽ chỉ còn cách mặc áo vá, tà ngắn tà dài mới gom đủ được mọi ý thích; mà nếu thỏa mãn được ý mọi người kiểu này, ông cha trở thành dị kỳ lại càng biến thành nguồn gốc cho muôn ngàn ý kiến mới. Đàng nào cũng có những người không ưa - cha Lành đôi khi nghĩ - mà không ưa thì dưa có dòi... Thêm nữa, một điều nhân gian khó thể hiểu là đa số những người tốt lành thì chẳng thấy nói chi; chỉ những người lôi thôi, chẳng ra gì cái miệng lại cứ toang toác như loa phóng thanh, làm như con cái loài người khôn ngoan hơn con cái Thiên Chúa...



Tuy nhiên, nói cho cùng, thánh giá nào chẳng khó mang; mà nếu dễ mang đã chẳng là thánh giá. Cuộc đời nào không lắm chông gai trắc trở, và nếu không có chông gai, trắc trở thì anh hùng xào kiệt đâu hơn chi người bình thường. Ngày xưa, Chúa xuống thế cũng đâu có thể làm hài lòng được hết mọi người. Nếu Chúa có thể làm hài lòng được hết mọi người thì đâu có chuyện khổ hình, và đã không có khổ hình sao có thể có phục sinh. Thêm nữa, xét ra những gai nhọn "phê bình nhăng cuội" đâu đến nỗi chua cay bằng cảnh Chúa trốn lánh thiên hạ vác đá ném. Người ta mới ném mình bằng lời nói đâu ăn nhằm gì mà còn có thể giúp mình sửa đổi được những điều không để ý bất lợi cho vai trò của mình trong cuộc sống. Người ta vác đá ném Chúa thì chắc chắn rằng Chúa đã bị kêu ca, xỉ vả không sao kể xiết... Thánh giá lời nói còn nhẹ chán, bước chân theo Thầy hãy còn thênh thang... Thử hỏi nếu Chúa không dám sống với chính con người của Ngài mà chỉ ráng làm sao cho đẹp lòng "nhân loại" đâu ai kết án Ngài. Lời đức giám mục dặn dò còn văng vẳng bên tai ngày nào chịu chức: Con hãy tin những gì được dạy dỗ, giảng giải những điều con tin và thực hành trong đời sống những điều con giảng giải. Mình đề nghị người khác sống thực với tâm tình, với con người của họ trước mặt Chúa mà mình không theo, không dám, có thể chỉ là giả dối. Tuy nhiên sống thực lại bị ném đá! Lời Kinh Thánh khuyên đi con đường hẹp mà đường hẹp nào dễ đi! Đi đường hẹp chắc chắn vướng chông gai. Những nhức nhối mục vụ đòi hỏi lòng một tâm hồn chịu đựng biết xót thương. Những lời phê bình không đúng chỗ, nếu nhìn theo khía cạnh khác, sẽ tạo thêm cho mình sự kiên trì trên bước đường sống thực với niềm tin.


"Cái gì" của ngày xưa mơ ước cho cuộc đời không rập khuôn buồn tẻ đang trải dài trước mặt. Công việc mục vụ không kinh nghiệm nào giống kinh nghiệm nào bởi bá nhân tá tánh. Dân Chúa chẳng ai giống ai, và ngay cả đối với một người, hôm nay đâu giống hôm qua. Kinh nghiệm mục vụ giúp cha Lành nhận rõ hơn bàn tay Chúa đang trực tiếp dẫn dắt dân Ngài, biến đổi dân theo ý Ngài muốn, và linh mục chỉ là người nối nhịp cầu để chiêm ngưỡng. Có người, cả năm trước, mang đầy sự giận hờn vì bất bình bởi vài chuyện nhỏ nhen; thế mà chỉ vài câu thăm hỏi, khuyến khích, tâm hồn cay đắng đổi vị ngọt ngào để rồi bỏ giờ giấc, công sức giúp việc nhà thờ. Chúa dùng con người để chữa lành những vết thương nơi dân Chúa, cha Lành thầm nghĩ. Mình chỉ là kẻ giương mắt ra mà xem...

-Tôi không biết cách nào để kiếm được người dẫn hát cho nhà thờ. Kêu gọi mấy lần sau Thánh Lễ nhưng chẳng thấy ai gọi điện thoại...

-Con vẫn dẫn hát cách đây một năm nhưng ông Thoa đánh đờn rối um lên làm con hát bể hoài nên thôi...

-Bây giờ ông Thoa đâu có đánh đờn nữa... Thế ông có biết còn ai có thể đánh đờn nhà thờ được không?

-Có chị Ngọc mà chị ấy đâu có chịu đánh...

-Đã ai nhờ chị ấy chưa?

-Đâu có ai nói gì với chị ấy. Hơn nữa, cha xứ không bằng lòng cho ai đụng đến cái đờn phong cầm bao giờ, chỉ một mình bà Thanh mà thôi.

-Vậy nếu tôi nhờ chị Ngọc đánh đờn ông có bằng lòng giúp dẫn hát nhà thờ không?

-Để con về xếp lại chương trình đã, son sẽ gọi cha sau...

-Tôi sẽ gọi ông ngày mai; số phone của ông bao nhiêu?

- ...

-Ông có biết số phone của chị Ngọc không?

-Chút nữa chị ấy đi lễ, con sẽ chỉ chị ấy cho cha.

Ông ấy hát bể thật nhưng cũng không đến nỗi tệ lắm; có điều hát theo đờn nên chẳng ai để ý. Hơn nữa, sau một thời gian hát lại, ông ta có vẻ tiến bộ hơn... Chị Ngọc thì đờn không mấy giỏi giang chi lại không dám đụng đến đờn bởi nghe nói cha xứ không muốn cho người nào khác ngoài bà Thanh. Cha Lành thầm nghĩ, đâu ai chế đờn cho chỉ một người xử dụng. Cũng như chiếc xe, ai lái không được. Nếu đến thời hạn nó hư, cho dẫu có giữ gìn cách mấy cũng phải sửa...

Hai ngày đầu, cha Lành đánh đờn ầm cả nhà thờ lúc rảnh. Cha xứ thấy cha phó đụng vào chiếc phong cầm nên chẳng dám nói chi. Ngày thứ ba, có thêm chị Ngọc và rồi suốt hai tuần lễ, chị Ngọc dợt lại ngón đờn cùng ông già chuẩn bị cho lễ chủ nhật... 6 tuần cha xứ đi nghỉ, bà Thanh đánh đờn cũng nghỉ... Chị Ngọc cùng ông già kéo 5 lễ cuối tuần. Mặc dầu ông già hát không hay nhưng được Chúa ban cho thích hát... thế nên nhờ hát mà hăng say...

-Hình như dạo này ông hát hay hơn lúc trước...

Ông già phổng mũi, chỉ sang chị Ngọc...

-Chị ấy đánh đờn con dễ hát... Thế mà đôi khi vẫn còn lạc giọng!

-Có thấy ai nói gì đâu hay chỉ mình ông nói. Ông thấy không, mọi người cũng muốn hát ca tụng Chúa. Họ chỉ cần người xướng chứ đâu ai để ý mình hát bể hay không...

Theo đạo đâu phải chỉ là theo lấy lệ cho giống những người khác, chỉ đi nhà thờ rồi sống tách biệt, ai lo phận nấy. Hơn nữa, đến nhà thờ cùng nhau thờ phượng Chúa, đồng dâng Thánh Lễ thì nếu có thể giúp được gì để nâng tâm hồn mọi người lên tới Chúa lại là điều cần thiết nên làm. Công Đồng Vatican II nhóm họp cách đây gần 30 năm trước xem ra ảnh hưởng đối với các nhóm tách rời từ Công Giáo không phải là nhỏ. Ngược lại, một số người Công Giáo cho đến giờ vẫn còn chưa nhận ra ít nhất là giá trị mục vụ lẫn phụng vụ của Công Đồng nổi tiếng được mọi giới ca tụng này. Thế nên cứ còn những lời ca thán có thể nói ngây ngô; chẳng hạn Hội Thánh càng ngày càng rộng, hoặc Giáo Hội thay đổi, hay lễ Latinh mới sốt sắng v.v... Đối với các cha thì giáo dân muốn phải thế nọ, phải thế kia chứ như vầy không oai, không làm cho người ta kính nể. Làm linh mục của thời hậu công đồng không còn tính cách "cha oai hơn quan" của thời xưa; mà cha dám sống cởi mở thì đôi khi cũng phiền.


Trong một bữa gỏi, cha Lành đang kiếm mấy thứ lá thơm:

- Ban nãy tôi thấy có mớ ngò ôm mà nó biến đâu mất rồi?

- Ngò đây cha.

- Không, đó là mùi.

- Ngò mà cha gọi là mùi.

- Tôi nói theo dân Hà Nội mà...

- Thì ăn ngò rồi ôm sau cũng là ngò ôm...

Một chị hồn hồn, cứ mỗi lần cha Lành nói là xía vô đấu... Ngài chỉ còn nước lặng thinh bởi nói lại chẳng được ơn ích gì mà chỉ thêm phiền hà do cái miệng của chồng chị ta...



- Nhà thờ Mân Côi.

- Chào cha, cha khỏe không?

- Cảm ơn bà, tôi vẫn thường...

- Sao cha lại gọi con là bà, bộ con đã già lắm sao?

- Ai đó, nghe tiếng hơi quen mà không thể bói được là ai.

- Ối "giời" ơi! Cha có thèm để ý gì đến con đâu.

- Để ý làm sao được, tôi đi tu mà. Có chuyện chi thế?

- Thưa cha phải có chuyện mới gọi được hay sao! Thăm hỏi có phải là chuyện không?

- A! chị Hiền, cảm ơn chị đã có lời thăm hỏi. Tôi nói chỉ có thế mà sao chị bới ra cả dây vậy?

- Hình như dạo này cha khó tính ra, khinh người nữa!

- Có chi đâu, tôi vẫn như thường; còn khó ra hay khó vô đâu tôi có để ý. Vậy có chuyện gì mà chị nói tôi khó tính và khinh người.

- Thì tối hôm thứ năm ăn ở nhà ông Bình, sao cứ mỗi lần con nói là cha im tịt, không thèm nói năng chi hết.

- Không ngờ có người bực lên vì sự im lặng của mình để rồi kết án là khinh người. Chị thông minh đấy nhưng thông minh trật. Chị có để ý đến thái độ của anh ấy và nghe được những gì anh ấy nói mấy ngày trước hôm thứ năm không?

- Sao cha, nhà con nói gì?

- Tôi hứa với người nói cho tôi hay là sống để dạ chết đem đi nên không nói được, chị thông cảm. Chỉ biết rằng hơi phiền hà đến tôi thôi. Vậy từ nay, chị làm ơn đừng đấu tôi nữa bởi tôi không muốn anh ấy nghĩ lôi thôi, trật duộc...

- Vậy à, con chỉ nói giỡn thôi, đâu có để ý. Được rồi, từ nay tha cho cha...

- Cảm ơn tấm lòng đại bác tha thứ của chị. Thế chuyện khó tính và khinh người giải quyết xong chưa?

- Con hiểu lầm...

- Bây giờ ai tha cho ai?

- Thì cha tha cho con...

- Với điều kiện.

- Điều kiện gì vậy cha?

- Từ nay chị đừng đấu tôi nữa.

- Cha yên trí! Con tưởng nhà con ghen với những người đàn ông khác thôi còn cha là người tu hành thì anh ấy phải hiểu là con giỡn chơi mà!

- Anh ấy đã như thế, tôi không muốn bị dây dưa vô chuyện quýt làm, cam chịu.

- Cha nói chuyện gì mà quýt làm cam chịu?

- Thì chị diễu cho vui, tôi trở thành cái bia cho anh ấy nhắm tới tấn công...

- Vâng, từ nay có lẽ con chỉ còn nước trở thành câm là xong hết.

- Chứ chị không cần tha nữa à?

- Tha được đâu mà tha, câm rồi còn biết nói sao đây!

- Chị đang đứng gần cái lồng chim phải không?

- Đâu, nhà con làm gì có lồng chim.

- Thế con chim nào đang hót...

- Cha muốn đấu con đấy à? - Người đàn bà cười vui vẻ. - Cha mà không đi tu, tán đào chắc ăn khách lắm đó, khối kẻ chết mê chết mệt vì cái miệng...

- Chưa tán đã phiền còn nói gì đến tán...

- Thôi con bắt đầu câm nghen...

- Chị cần băng keo không.

- Băng keo làm gì cha?

- Để không cho con chim hót nữa.

- Con sẽ ngậm tăm, dễ hơn. Dán băng keo không ăn được. Cảm ơn ý tốt lành khó thực hiện của cha. Con chào cha.

- Chào chị.


Đôi khi những chuyện nhỏ nhặt coi bộ không ra gì mà linh mục phải để ý. Người ta thích được nghe lời nói cảm ơn từ miệng ông cha mà vô tình quên mất cũng là đầu mối cho sự chán nản giúp việc nhà thờ hoặc tâm tư phiền hà...

- Cảm ơn ông nhiều, có ông chuẩn bị đồ lễ, tôi không phải lo lắng gì.

- Không có chi thưa cha. Con làm việc cho Chúa mà cha cảm ơn làm chi!

- Dĩ nhiên, ông cũng như những người khác, giúp việc nhà thờ là giúp việc thờ phượng vinh danh Chúa và giúp cho dân của Ngài. Tuy nhiên, nếu không có ông những buổi sáng sớm như thế này, tôi sẽ gặp nhiều rắc rối, lập cập. Nào mới mắt nhắm mắt mở dậy đã phải vội ra mở cửa nhà thờ, lại phải trở về nhà xứ làm những chuyện cá nhân... rồi sau đó ra lại nhà thờ sắp chén lễ, lật sách, thay khăn bàn thờ v.v... Thấy không, có ông tôi có tất cả. Cảm ơn ông là đúng quá rồi...

- Cha quá khen...

- Không biết lý do gì mà ông Thuận lâu nay không thấy đâu?

- Con nghe hình như ông ấy có chuyện bất bình...

- Với ai và về vụ gì?

- Ông ấy nói cha xứ coi ông ta như một đứa trẻ con...

- Chuyện gì vậy?

- Nghe đâu hôm ông ấy dẫn hát, ông Hoành dẫn lễ nói sai số trang sách hát. Ông Thuận nói lại, và sau lễ cha xứ nói với ông chuyện gì đó làm ông ấy giận.

- Để tôi gặp ông ấy xem sao. Tôi nghĩ chắc có chuyện gì hiểu lầm.

- Hôm ăn tại nhà ông Dương, ông Thuận nói cha xứ đã chẳng có được lời cảm ơn mà lại còn trách ông ấy về chuyện nhỏ nhoi mà đâu phải là lỗi tại ông ta.

- Chắc chẳng có chuyện gì lớn lao đâu bởi cha xứ ngài rất dễ thương, nhưng lối nói của ngài đôi khi làm người khác hiểu lầm đó thôi. Tôi sẽ giải thích cho ông ta hiểu. Nếu cần, tôi nói cha xứ gọi điện thoại cho ông ta. Thôi chào ông... À, chừng nào ông đi thăm bà cụ gọi tôi đi với; tôi không nhớ đường.

- Mai con sẽ đi thăm má con; cỡ 10 giờ con sẽ gọi cha.

-Nếu ông đi 10g, gọi nhắc tôi lúc 9g45 để tôi khỏi quên. Gặp ông ngày mai; chào ông.

- Xin chào cha...

Càng ở vị thế cao, người ta lại càng đòi hỏi mình phải trở thành toàn hảo hơn. Mà toàn hảo theo quan niệm riêng của họ nghĩa là không được dùng những lối nói bình thường giống họ mà luôn luôn phải nhẹ nhàng, biết tỏ ra lắng nghe. Họ nói mình nghe thì không sao nhưng mình nói đôi khi bị cho là ra lệnh hoặc độc tài; không nói thì nhu nhược v.v... Đàng nào thì cũng như cái lưỡi giữa hai hàm răng muôn đời đối diện với điều trái ngược.


Công việc mục vụ lắm khi dồn linh mục vào những cảnh cười ra nước mắt dù muốn tránh thoát cũng không được. Bạn bè thân quen, càng có dịp gặp gỡ tâm sự, càng thân thiết và hiểu nhau hơn. Tương tự như thế, khi người ta có chuyện phiền hà rắc rối khó nói cần người thông cảm để chia vơi đi những gánh nặng tâm tư, người ta thường tới gặp linh mục. Họ biết rằng những gì nói với linh mục sẽ không bao giờ bị lộ ra ngoài vì linh mục được học hành, đào tạo để chia xẻ, thông cảm những gánh nặng khó mang nơi tâm hồn con chiên bổn đạo. Đối với đàn ông, có lẽ bởi không để ý đến những tiểu tiết nhỏ nhoi, câu chuyện dễ được giải quyết dứt khoát. Riêng về phía các bà, lắm chuyện tình "như mơ" dễ dàng được ươm đầy đôi khi gây cho linh mục nhiều cảnh khó ăn khó nói. Cầu nguyện thì cứ muốn Chúa làm phép lạ ngay tức khắc do đó những lúc mang tâm tình đau khổ lại thấy Chúa chẳng thèm nghe. Thế nên, nói chuyện với cha được thông cảm, an ủi dễ sinh lòng quí yêu, cảm mến. Nào ai có chịu hiểu cho rằng cuộc đời này mỗi người đều mang nỗi khổ riêng mà chỉ nghĩ mình là người mang nhiều chuyện đau khổ nhất. Thế nên, được nghe từ miệng cha những lời thông cảm, người ta dễ có cảm nghĩ mình được đặc biệt để ý và từ đó phát sinh lòng yêu thương "thánh thiện." Đến Chúa cũng biết ghen tương, không chấp nhận cho dân Ngài tôn thờ bất cứ thần thánh nào khác thì các bà, các chị với "lòng yêu thương thánh thiện" ghen "với cha," coi cha như của riêng là chuyện bình thường. Chuyện bất thường mới sinh nhiều rắc rối. Dĩ nhiên, đối với cha thì ai chẳng như ai; trong vị thế linh mục, thái độ của ngài với mọi người cần được đối xử một cách đồng đều. Như vậy, dưới con mắt "đặc biệt quí mến" thì cha đã bị âm thầm lên án vì đã không coi mình đặc biệt hơn những người khác...

- Nhà xứ Mân Côi.

- Cha ngủ chưa?

Vừa chợp mắt thì chuông điện thoại đánh thức, Cha Lành vung tay chộp ống nghe, giọng nhừa nhựa. Những lúc đang ngủ tiếng reo điện thoại thật khó chịu; nó chát chúa như những nhát vồ đập mạnh vào màng tang... Chẳng lẽ người bên kia đầu giây nặng tai đến nỗi không phân biệt được giọng nói bình thường với giọng ngái ngủ?... Chiếc đồng hồ điện hiện rõ 4 con số màu xanh 12:36 nổi bật trong bóng tối. Mới ngủ được 15 phút khiến cha Lành bực mình vì câu hỏi. Nếu là trường hợp khẩn cấp thì không nói chi, đàng này lại còn đưa ra câu hỏi ngang như cua...

- Có chuyện gì thế?

- Cha đã ngủ rồi à! Con tưởng cha chưa ngủ; nếu vậy... thôi, xin lỗi cha.

- Có chuyện gì thì nói đi chứ; ngủ mà trả lời điện thoại được sao?

- Thôi, con không muốn làm phiền cha nữa.

- Lạ đời, không muốn thì đã làm phiền rồi còn nói gì nữa!

- Cha có muốn nói chuyện với con đâu! Bây giờ cha có thiếu gì người khác nên chưa chi đã nhăn nhó với con...

- Chị gọi tôi để dạy bảo phải ăn nói đàng hoàng hơn đó phải không?

- Con đâu dám dạy bảo cha. Cha muốn bông đùa, cười cợt với ai con đâu có quyền.

- Chị nói cái chi? Cái gì mà bông đùa, cười cợt?

- Thì tối hôm thứ bẩy cha không bông đùa là gì!

- Chị lấy quyền gì mà đòi lên án tôi bông đùa!

- Nhưng cha giỡn như thế làm mất tư cách linh mục.

- Chuyện gì mà lại dính thêm tư cách linh mục; tôi có hiểu chị đang nói chuyện chi đâu!

- Cha không nhớ là cha đã nói gì à?

- Nói gì? Có chi đụng chạm đến chị mà vòng vo tam quốc vậy?

- Con đâu có nói cha đụng chạm đến con, nhưng cha không nên nói thế.

- Nói thế nghĩa là nói làm sao? Vậy chứ tôi đã nói gì chị nói lại coi!

- Cha nói làm người ta thích thú cười như nắc nẻ, tít cả mắt lại mà cha không để ý à!

- Để ý chuyện gì? Sao chị cứ càng lúc càng đưa ra lắm thứ hỏa mù vậy?

- Con hỏi cha có để ý chị Thanh Giao, tên đẹp như người vậy.

Mãi đến lúc này cha Lành mới biết chị ta ghen vì tối hôm thứ bẩy vừa qua trong lúc ăn tại nhà ông sáu Thông cha Lành thêm mắm thêm muối vào vài câu chuyện làm mọi người cười như pháo rang... Ngài thầm nghĩ, chắc chồng chị ta qua mười mấy năm chung sống đã bị đay nghiến bởi những chuyện vô tình kinh khủng lắm! Phục các ông quá chừng; có phong cho các ông làm thánh sống thì cũng không ngoa chút nào... Chúa ơi! Vừa bắt đầu ngủ mà bị dựng dậy phân giải mối ghen tương của tình "như mơ"... Cõi nhân gian lắm chuyện không thể hiểu...



Có lẽ hơn 11 giờ khuya, khung cảnh vắng lặng nơi nhà thờ như khuyến khích ngài trầm tư suy nghĩ tìm kiếm thái độ phải thế nào đối với phái nữ để tránh bị coi như của riêng đối với một số người. Không tỏ ra nhã nhặn thì bị phê bình là khinh người, coi rẻ hoặc khinh con chiên bổn đạo. Khó tính, sống theo một mẫu mực cố định lại là điều trái ngược với công việc mục vụ. Tỏ ra dễ dãi, thông cảm, năng thăm hỏi thì bị hiểu lầm là mình để ý cách đặc biệt. Mình đâu có được chọn làm linh mục để trở thành của riêng một người mà là của cả dân


Share on Google Plus

About Unknown

This is a short description in the author block about the author. You edit it by entering text in the "Biographical Info" field in the user admin panel.

0 nhận xét :

Đăng nhận xét